Sau khi Pháp lệnh luật sư và đặc biệt là Luật Luật sư 2006 được ban hành, đội ngũ luật sư đã có sự phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Sự phát triển, thay đổi của đội ngũ luật sư một phần do những quy định đổi mới của Luật Luật sư về các tiêu chí như tiêu chuẩn luật sư, điều kiện hành nghề luật sư, quy trình trở thành luật sư, các quy định về tập sự, gia nhập Đoàn Luật sư. Theo thống kê của Liên đoàn Luật sư cho thấy, hiện cả nước có gần 5.800 luật sư và hơn 2.000 luật sư tập sự. Từ sau khi pháp lệnh hành nghề luật sư có hiệu lực (năm 2001) đến nay, số lượng luật sư đã tăng 250%.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 13945 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nghề Luật sư ở Việt Nam – Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ảng thế kỷ thứ V trước Công nguyên, trong nhà nước Hy Lạp cổ, tổ chức toà án đã được hình thành và việc xét xử có sự tham gia của người dân. Nguyên cáo hoặc bị cáo có thể tự trình bày ý kiến, lý lẽ của mình trước Toà hoặc nhờ người khác có tài hùng biện trình bày hộ ý kiến, lý lẽ bảo vệ hoặc bào chữa. Vào thời đó, việc bào chữa xuất phát tự nhiên nhằm minh oan cho bạn bè hoặc người thân bị chính quyền bắt giam, trừng phạt một cách độc đoán và vô cớ. Còn ở La Mã cổ đại, phiên toà thường có sự tham gia của các nhà chuyên môn, người am hiểu pháp luật để nhắc nhỡ những quy tắc tôn giáo để tránh việc viện dẫn sai hoặc vi phạm thủ tục tố tụng; xã hội dần dần hình thành một nhóm người chuyên sâu, am hiểu về pháp luật và việc diễn giải pháp luật của họ được xem xét như hoạt động nghề nghiệp. Từ đó, hoạt động của họ ( luật sư) được chấp nhận và uy tín của họ trong xã hội ngày càng được nâng cao, nghề luật sư được xem như một nghề vinh quang trong xã hội.
Khi châu Âu chuyển sang thời kỳ Trung cổ với các triều đại phong kiến phân quyền cát cứ, Toà án và chế độ luật sư ở các nước được xây dựng dưới nhiều hình thức khác nhau nhằm mục đích phục vụ tôn giáo và chế độ phong kiến. Luật sư thời ký này không thể hiện rõ và đầy đủ các tính chất nghề nghiệp của họ, vai trò của luật sư bị hạn chế và bóp nghẹt bởi chế độ xã hội chuyên quyền hà khắc.
Bước sang chế độ tư bản, nghề luật sư được tổ chức chặt chẽ với những điều kiện khắt khe nhằm bảo vệ quyền lợi riêng cho một bộ phận người xuất thân từ giai cấp tư sản. Dần dần, các cuộc đấu tranh vì dân chủ, bình đẳng diễn ra thường xuyên đã buộc chính quyền các nước tư sản phải mở rộng quyền dân chủ cho người dân, nhu cầu của người dân đối với việc được đảm bảo quyền và lợi ích của mình trên cơ sở các quy định pháp luật luôn thường trực. Nghề luật sư thể hiện vai trò to lớn của mình, dần hình thành một nghề tự do.
Hiện nay, ở các nước phát triển, nghề luật sư lại càng được trân trọng, và thực sự nghề luật sư, bằng tính chất và đòi hỏi đặc thù của nghề nghiệp luôn là một trong những nghề được yêu thích nhất. Ở Mỹ, rất nhiều vị tổng thống xuất thân là luật sư, nhiều chính trị gia của nước này đã từng là luật sư trước khi bước vào chính trường. Nói đến thu nhập, nghề luật sư luôn là nghề có thu nhập dẫn đầu ở các nước phát triển như Mỹ và châu Âu. Theo thống kê trong năm 2009 của Tạp chí Fortune, trong số 10 tập đoàn trả lương cho nhân viên cao nhất toàn cầu thì các công ty luật đã chiếm đến con số 6, bao gồm: Baker Donelson, Bingham McCutchen, Alston & Bird, Perkins Coie, Arnold & Porter và Orrick, Herrington & Sutcliffe. Trong đó, Baker Donelson đứng số một toàn cầu về việc trả lương cao nhất cho nhân viên của mình.
Như vậy, không ngẫu nhiên mà nghề luật sư thực sự luôn được tôn trọng ở nhiều quốc gia trên thế giới. Bởi có được điều đó, qua thực tiễn nghề nghiệp với những đặc thù riêng, với những phẩm chất, yếu tố cần thiết đảm bảo hành nghề phải đạt ở mức độ cao, không dễ gì ai cũng có thể theo đuổi nghề này một cách thực sự.
Sự hình thành và phát triển của nghề luật sư ở Việt Nam
Sau khi xâm lược Nam kỳ, ngày 26/11/1876 người Pháp đã ban hành Nghị định về việc biện hộ cho người Pháp hoặc người Việt mang quốc tịch Pháp tại Tòa án Pháp. Từ đó nghề luật sư mới chính thức xuất hiện ở nước ta, còn trước đây, việc xét xử của chính quyền phong kiến Việt Nam do vua, quan phong kiến thực hiện mà không có sự bào chữa, bảo vệ.
Năm 1884, sau khi thiết lập bộ máy cai trị trên toàn lãnh thổ Việt Nam, Toàn quyền Pháp ký Sắc lệnh thành lập Luật sư Đoàn tại Sài Gòn và Hà Nội gồm các luật sư người Pháp và người Việt đã nhập quốc tịch Pháp. Các luật sư chỉ biện hộ trước Tòa án Pháp cho người Pháp hoặc người có quốc tịch Pháp. Sau đó, với Sắc lệnh ngày 30/1/1911, nhà cầm quyền Pháp đã mở rộng cho người Việt Nam không có quốc tịch Pháp được làm luật sư. Tiến thêm một bước, nhà cầm quyền Pháp ký Sắc lệnh ngày 25/5//930 về tổ chức Luật sư đoàn ở Hà Nội, Sài Gòn và Đà Nẵng. Sắc lệnh này đã mở rộng cho các luật sư không chỉ biện hộ ở tòa án Pháp mà cả trước Toà án Việt Nam; không chỉ bào chữa cho người có quốc tịch Pháp mà cả người không có quốc tịch Pháp.
Có một chi tiết khá thú vị là, người Việt Nam đầu tiên làm luật sư là ông Phan Văn Trường (1876 - 1933). Ông là người Từ Liêm, Hà Nội, tốt nghiệp Đại học luật và làm luật sư tại Paris, một nhà yêu nước. Con đường có trụ sở Học viện Tư pháp tọa lạc (nơi đào tạo nghề luật sư duy nhất ở Việt Nam hiện nay) mang tên Phan Văn Trường.
Khi cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân thì bộ máy tư pháp nước ta cũng được tổ chức lại. Hơn một tháng sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là người đứng đầu chính quyền mới đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 về tổ chức đoàn thể luật sư. Sắc lệnh số 46/SL duy trì tổ chức luật sư cũ trong đó có sự vận dụng linh hoạt các quy định pháp luật cũ về luật sư nhưng không trái với nguyên tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hoà. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946 khẳng định quyền bào chữa là một trong những quyền cơ bản của công dân, cụ thể Điều 67 của Hiến Pháp quy định "Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư”.
Do hoàn cảnh lịch sử với cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ kế tiếp nhau, toàn dân ta đã phải tập trung sức người, sức của cho nhiệm vụ cứu nước. Với điều kiện đó, tổ chức luật sư không thể duy trì. Nhiều luật gia, luật sư đã ra mặt trận, lên chiến khu hoặc tham gia vào hoạt động tư pháp tại các vùng do chính quyền ta kiểm soát, nghề luật sư giai đoạn này gặp muôn vàn khó khăn. Tuy thế, Đảng và Nhà nước ta vẫn luôn quan tâm đến việc bảo đảm quyền bào chữa trước Toà án của bị cáo, một trong những quyền cơ bản của công dân đã được ghi trong Hiến pháp. Sắc lệnh số 69/SL ngày 18/6/1949 quy định nguyên cáo, bị cáo có thể nhờ một công dân không phải là luật sư bênh vực cho mình.
Tiếp tục khẳng định quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về quyền bào chữa và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1959 (Điều 101) đã quy định "Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm"; tiếp đó Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980 ngoài việc khẳng định bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, còn quy định việc thành lập tổ chức luật sư để giúp cá nhân, tổ chức bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Để thực hiện quy định của Hiến pháp, trong giai đoạn triển khai xây dựng văn bản pháp luật về tổ chức luật sư, đội ngũ bào chữa viên tiếp tục được củng cố và phát triển, cụ thể ngày 31/10/1983 Bộ Tư pháp ban hành Thông tư số 691/QLTPK về công tác bào chữa, trong đó quy định cụ thể tiêu chuẩn, điều kiện làm bào chữa viên, quy định ở mỗi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành lập một Đoàn bào chữa viên. Riêng ở hai thành phố Hà Nội và Hồ Chí Minh thì thành lập Đoàn luật sư, bào chữa viên, tập hợp các luật sư đã được công nhận trước đây và các bào chữa viên, đến cuối năm 1987, trên cả nước đã có 30 Đoàn bào chữa viên với gần 400 bào chữa viên.
Sau ngày thống nhất đất nước, với yêu cầu khách quan, mang tính sống còn là phải đổi mới, xoá bỏ cơ chế quan liêu-bao cấp và mở rộng dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IV năm 1986 đã mở đầu một thời kỳ lịch sử mới xây dựng đất nước, thời kỳ đổi mới. Đường lối đổi mới do Đại hội vạch ra đã tác động sâu rộng đến mọi mặt hoạt động trong xã hội, trong đó có hoạt động tư pháp. Các đạo luật về tố tụng được ban hành theo hướng mở rộng dân chủ trong tố tụng, trong đó có việc tăng cường bảo đảm quyền bào chữa, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức trước Toà án và các cơ quan tố tụng khác. Đó cũng chính là tiền đề quan trọng để vực dậy mạnh mẽ hơn nghề luật sư ở nước ta. Trong bối cảnh đó, Pháp lệnh tổ chức luật sư được ban hành ngày 18/12/1987. Có thể nói, đây là văn bản pháp luật có ý nghĩa lịch sử trong việc khôi phục nghề luật sư và mở đầu cho quá trình phát triển nghề luật sư ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Pháp lệnh quy định rõ tiêu chuẩn được công nhận là luật sư, chức năng, nhiệm vụ và lĩnh vực giúp đỡ pháp lý của luật sư và tổ chức các Đoàn luật sư ở các tỉnh, thanh phố trực thuộc Trung ương. Chỉ sau gần 10 năm thi hành Pháp lênh, ở hầu hết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã thành lập Đoàn luật sư; đội ngũ luật sư trong cả nước đã đạt tới con số hàng ngàn luật sư. Hoạt động luật sư cũng có bước phát triển đáng kể. Ngoài việc tăng cường một bước về số lượng và chất lượng tham gia tố tụng của luật sư trong các vụ án hình sự, dân sự, các luật sư đã từng bước mở rộng hoạt động hành nghề sang lĩnh vực tư vấn pháp luật và thực hiện các dịch vụ pháp lý khác.
Khi bước sang nửa cuối thập niên 90, đất nước ta bước vào giai đoạn quan trọng của quá trình đổi mới, trong đó nhu cầu đẩy mạnh quá trình xây dựng cơ chế thị trường, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền, mở rộng dân chủ, hội nhập quốc tế ngày càng trở lên sâu sắc, ở mức độ cao hơn.
Để đáp ứng nhu cầu mới, Pháp lệnh luật sư năm 2001 đã được ban hành. Nội dung của Pháp lệnh thể hiện quan điểm cải cách mạnh mẽ tổ chức và hoạt động luật sư ở nước ta theo hướng chính quy hoá, chuyên nghiệp hoá đội ngũ luật sư, nghề luật sư, tăng cường vai trò tự quản của tổ chức xã hội-nghề nghiệp của luật sư, tạo cơ sở pháp lý cho quá trình hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt Nam. Chỉ sau 5 năm thi hành Pháp lệnh, đội ngũ luật sư đã tăng đáng kể cả về số lượng và chất lượng. Đặc biệt, trong 5 năm đó các luật sư đã thành lập trên 1.000 tổ chức hành nghề là các văn phòng luật sư, các công ty luật hợp danh. Các Đoàn luật sư được xây dựng lại và củng cố để làm đúng chức năng của tổ chức xã hội-nghề nghiệp tự quản của các luật sư. Hoạt động hành nghề của luật sư cũng được tăng lên đáng kể về phạm vi và chất lượng. Có thể nói, Pháp lệnh luật sư năm 2001 là văn bản mở đầu cho quá trình chuyên nghiệp hoá và hội nhập quốc tế của nghề luật sư ở Việt Nam, đã tạo một bộ mặt mới với triển vọng phát triển mạnh mẽ nghề luật sư ở nước ta.
Không dừng lại ở đó, cùng với bước phát triển và những yêu cầu mới của xu thế toàn cầu hoá, công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của nước ta đã có những bước phát triển nhanh và mạnh mẽ với những sự kiện quan trọng mang tính chất đột phá. Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại quốc tế (WTO) đã tạo ra vị thế và những cơ hội mới phát triển đất nước, đồng thời cũng đặt ra nhiệm vụ quan trọng là phải chuyển đổi hệ thống pháp luật và các thiết chế cùng cơ chế vận hành theo lộ trình phù hợp với các cam kết khi gia nhập WTO. Trong các năm 2005, 2006, 2007, Nhà nước ta đã ban thành một số lượng lớn các đạo luật mới hoặc thay thế các đạo luật không còn phù hợp, trong đó có Luật Luật sư được Quốc hội thông qua ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/01/2007.
Sự kiện Luật Luật sư được ban hành và đi vào đời sống đã góp phần nâng cao vị thế của luật sư, tạo cơ sở pháp lý đẩy nhanh quá trình xây dựng một đội ngũ luật sư, nghề luật sư mang tính chuyên nghiệp, ngang tầm với luật sư và nghề luật sư ở các nước tiên tiến trên thế giới. Có thể nói, Luật Luật sư là mốc son đánh dấu một bước phát triển vượt bậc của pháp luật về luật sư ở Việt Nam, và qua đó mở ra nhiều triển vọng mới mẽ cho nghề luật sư.
Chương 2
Thực trạng nghề luật sư ở Việt Nam và những giải pháp hoàn thiện
2.1. Thực trạng nghề luật sư ở Việt Nam
Về đội ngũ luật sư
Sau khi Pháp lệnh luật sư và đặc biệt là Luật Luật sư 2006 được ban hành, đội ngũ luật sư đã có sự phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng. Sự phát triển, thay đổi của đội ngũ luật sư một phần do những quy định đổi mới của Luật Luật sư về các tiêu chí như tiêu chuẩn luật sư, điều kiện hành nghề luật sư, quy trình trở thành luật sư, các quy định về tập sự, gia nhập Đoàn Luật sư... Theo thống kê của Liên đoàn Luật sư cho thấy, hiện cả nước có gần 5.800 luật sư và hơn 2.000 luật sư tập sự. Từ sau khi pháp lệnh hành nghề luật sư có hiệu lực (năm 2001) đến nay, số lượng luật sư đã tăng 250%.
Tuy nhiên, vấn đề về đội ngũ luật sư nước ta còn một số hạn chế cần được khắc phục sau đây:
Thứ nhất, số lượng luật sư hiện có so với dân số còn rất thấp. Tỷ lệ luật sư nước ta hiện nay trung bình là 1 luật sư/17.000 người dân, trong khi đó tỷ lệ này ở Thái Lan là 1/1526, Singapore là 1/1.000, Nhật Bản là ¼.546, Pháp là 1/1.000, Mỹ là 1/250. Mặt khác, số lượng luật sư phát triển chưa cân đối giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, trung du. Luật sư chủ yếu tập trung ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh.
Thứ hai, chất lượng của đội ngũ luật sư còn nhiều hạn chế. Gần một nửa số lượng luật sư hiện nay chưa được đào tạo một cách bài bản về kỹ năng hành nghề. Hiệu quả tham gia tố tụng của luật sư vẫn còn chưa đáp ứng được yêu cầu tranh tụng tại phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp. Các luật sư vẫn còn thiếu kinh nghiệm trong việc thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến quá trình bào chữa, tranh luận, đưa ra yêu cầu, kiến nghị tại phiên toà. Một số luật sư còn có thái độ ứng xử nghề nghiệp chưa đúng mực trong quan hệ với các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và luật sư đồng nghiệp, làm ảnh hưởng đến uy tín của đội ngũ luật sư. Hơn nữa, luật sư nước ta còn yếu về trình độ ngoại ngữ cũng như kiến thức về pháp luật quốc tế. Điều này dẫn đến nguy cơ chúng ta thua ngay trên “sân nhà” trong các vụ tranh chấp liên quan đến việc mâu thuẫn giữa quyền lợi của Nhà nước Việt Nam, các doanh nghiệp, công dân Việt Nam với nước ngoài.
Thứ ba, về mức độ chuyên môn hoá trong hành nghề, đa số luật sư ở nước ta hành nghề trong tất cả các lĩnh vực tham gia tố tụng, tư vấn pháp luật, đại diện ngoài tố tụng và các dịch vụ pháp lý khác. Tuy số lượng luật sư ở nước ta trong những năm gần đây tăng lên đáng kể, song vẫn chưa hình thành được đội ngũ các luật sư chuyên sâu về những lĩnh vực khác nhau. Các luật sư chủ yếu hành nghề trong hai lĩnh vực dân sự và hình sự. Trong các lĩnh vực pháp luật khác như hành chính, lao động, kinh tế…tỷ lệ vụ việc mà các luật sư tham gia tương đối thấp. Số lượng luật sư có đủ kinh nghiệm, kỹ năng tư vấn pháp luật trong lĩnh vực thương mại quốc tế, đàm phán giải quyết tranh chấp quốc tế chỉ chiếm tỷ lệ 1,2% trong tổng số luật sư, trong đó chỉ khoảng 20 luật sư có trình độ ngang tầm với luật sư khu vực. Mới có khoảng 10/1.500 tổ chức hành nghề luật sư chuyên sâu trong lĩnh vực đầu tư, kinh doanh, thương mại có yếu tố nước ngoài.
Về hoạt động hành nghề của luật sư
Thứ nhất, về phạm vi hành nghề. Có thể thấy rằng sau khi Pháp lệnh luật sư năm 2001 và đặc biệt sau khi Luật Luật sư được ban hành, hoạt động hành nghề luật sư ở Việt Nam có những bước chuyển rõ rệt. Theo quy định của Pháp lệnh luật sư thì dịch vụ pháp lý của luật sư bao gồm tham gia tố tụng, thực hiện tư vấn pháp luật và các dịch vụ pháp lý khác. Luật Luật sư đã mở rộng hơn phạm vi hành nghề luật sư với việc quy định luật sư được đại diện ngoài tố tụng cho khách hàng. Có thể nói trên cơ sở những quy định ngày càng thông thoáng hơn của pháp luật cộng với sự nỗ lực của các luật sư, dịch vụ pháp lý của luật sư tăng đáng kể về số lượng và nâng cao một bước về chất lượng.
+ Tham gia tố tụng là lĩnh vực hành nghề chủ yếu của các luật sư hiện nay. Trong thời gian qua, các luật sư đã tham gia giải quyết hàng trăm nghìn vụ án. Vai trò của luật sư trong quá trình tham gia tố tụng đã có những bước phát triển về chất. Xuất phát từ việc pháp luật tố tụng đang từng bước được hoàn thiện, các cơ quan tiến hành tố tụng đã quan tâm hơn đến việc tạo điều kiện thuận lợi cho luật sư tham gia bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị can, bị cáo, đương sự. Ý kiến của luật sư tại phiên toà đã được cơ quan công tố quan tâm và coi trọng. Việc tham gia tố tụng của các luật sư không những bảo đảm tốt hơn quyền bào chữa của bị can, bị cáo, các đương sự khác, mà còn giúp các cơ quan tiến hành tố tụng phát hiện, sửa chữa những thiếu sót, làm rõ sự thật khách quan, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
+ Tư vấn pháp luật là lĩnh vực hành nghề quan trọng của luật sư, đặc biệt trong điều kiện nhu cầu về tư vấn pháp luật trong xã hội ngày càng tăng nhanh. Các luật sư đã mở rộng và phát triển tư vấn trong các lĩnh vực kinh doanh, đầu tư, thương mại. Trong lĩnh vực pháp luật dân sự thì tư vấn về đất đai, hôn nhân gia đình đang là mảng tư vấn phổ biến và sôi động nhất. Với điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, toàn cầu hoá, các luật sư hoạt động trong lĩnh vực tư vấn pháp luật đang phát huy vai trò quan trọng trong việc giúp đỡ các doanh nghiệp đàm phán, ký kết hợp đồng, giải quyết các tranh chấp phát sinh đặc biệt trong các lĩnh vực mới mẻ như đầu tư nước ngoài, sở hữu trí tuệ, quan hệ thương mại hàng hoá có yếu tố nước ngoài...
Bên cạnh đó, các luật sư cũng đã tham gia tích cực vào hoạt động trợ giúp pháp lý cho người nghèo, đối tượng thuộc diện chính sách. Việc tham gia vào hoạt động này không chỉ thực hiện một cam kết mang tính chất nghĩa vụ của luật sư đối với xã hội mà còn góp phần tạo lập sự công bằng cho các đối tượng được hưởng trợ giúp pháp lý. Trong thời gian qua, các luật sư đã tham gia trợ giúp pháp lý cho hàng chục nghìn vụ việc, góp phần đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho người nghèo, người thuộc diện chính sách. Có thể nói, mặc dù còn những hạn chế, nhưng hoạt động của luật sư thời gian qua đã đáp ứng một phần quan trọng nhu cầu giúp đỡ pháp lý của công dân và tổ chức, đóng góp đáng kể trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo và các đương sự khác.
Thứ hai, về hình thức hành nghề của luật sư. Theo quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001, luật sư chỉ được hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư (thành lập hoặc tham gia thành lập Văn phòng luật sư, Công ty luật hợp danh hoặc làm việc theo hợp đồng cho tổ chức hành nghề luật sư, kể cả tổ chức hành nghề luật sư nước ngoài tại Việt Nam). Luật Luật sư đã mở rộng hình thức hành nghề của luật sư, theo đó luật sư không chỉ hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư như quy định của Pháp lệnh luật sư năm 2001, mà còn được phép hành nghề với tư cách cá nhân dưới hình thức tự mình nhận và thực hiện dịch vụ pháp lý cho khách hàng theo hợp đồng dịch vụ pháp lý, hoặc làm việc cho cơ quan, tổ chức theo hợp đồng lao động.
Thứ ba, về hình thức tổ chức hành nghề luật sư. Theo quy định của Luật Luật sư thì tổ chức hành nghề luật sư bao gồm:
+ Văn phòng luật sư là tổ chức hành nghề luật sư do một luật sư thành lập được tổ chức và hoạt động theo loại hình doanh nghiệp tư nhân;
+ Công ty luật bao gồm Công ty luật hợp danh và Công ty luật trách nhiệm hữu hạn. So với Pháp lệnh luật sư năm 2001, Luật Luật sư đã quy định thêm loại hình Công ty luật trách nhiệm hữu hạn. Hơn nữa , để phù hợp với quy định của Luật Doanh nghiệp, Luật Luật sư còn quy định Công ty luật trách nhiệm hữu hạn có thể là Công ty luật trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên hoặc Công ty luật trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Như vậy, hình thức tổ chức hành nghề luật sư cũng được mở rộng, tạo điều kiện thuận lợi cho các luật sư lựa chọn mô hình hoạt động nhằm phát huy hết khả năng sử dụng các điều kiện để hành nghề một cách thuận lợi nhất.
Về tổ chức luật sư và quản lý luật sư
Luật Luật sư hiện nay đã quy định hệ thống tổ chức luật sư từ trung ương đến các địa phương, đó là Tổ chức luật sư toàn quốc và Đoàn luật sư ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Hiện nay, Liên đoàn luật sư Việt Nam đã được thành lập gần một năm, với việc quy định về Tổ chức luật sư toàn quốc và nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức này, Luật Luật sư đã tăng cường đáng kể vai trò tự quản của tổ chức luật sư. Tới đây, Liên đoàn luật sư Việt Nam sẽ ban hành Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư (thay thế Quy tắc mẫu do Bộ Tư pháp ban hành như hiện nay); phối hợp với Bộ Tư pháp trong việc ban hành quy chế tập sự hành nghề luật sư, đào tạo nghề luật sư, kiểm tra kết quả tập sự hành nghề luật sư. Hơn nữa Liên đoàn luật sư Việt Nam còn được giao quyền cấp, thu hồi Thẻ luật sư, quy định mẫu trang phục luật sư tham gia phiên toà…
Bên cạnh đó, Liên đoàn luật sư Việt Nam cũng đang hướng tới việc tổ chức bồi dưỡng thường xuyên về kiến thức pháp luật, kỹ năng hành nghề và tổng kết, trao đổi kinh nghiệm hành nghề luật sư trong cả nước.
Thời gian qua, công tác của các Đoàn luật sư đối với nghề luật sư đã có nhiều chuyển biến tích cực. Căn cứ vào nhiệm vụ, quyền hạn được giao, các Đoàn luật sư đã thực hiện tương đối tốt công tác giám sát, kiểm tra việc tuân thủ pháp luật, tuân theo Quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp luật sư, Điều lệ Đoàn luật sư của luật sư, tổ chức hành nghề luật sư; kịp thời nhắc nhở, uốn nắn và có biện pháp xử lý nghiêm minh các trường hợp luật sư vi phạm. Các Đoàn luật sư tích cực tham gia đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân, trợ giúp pháp lý, tư vấn miễn phí, bào chữa miễn phí.
Tuy vậy, hoạt động tự quản của các Đoàn luật sư còn một số hạn chế cần sớm khắc phục như:
Thứ nhất, hiệu quả hoạt động quản lý, điều hành của nhiều Ban Chủ nhiệm Đoàn luật sư trong cả còn chưa cao.
Thứ hai, một số Đoàn luật sư chưa quan tâm đúng mức đến công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho luật sư; công tác giám sát, quản lý người tập sự hành nghề luật sư còn mang tính hình thức.
Thứ ba, một số Đoàn luật sư phối hợp chưa tốt với cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương trong việc quản lý hành nghề luật sư, việc quản lý hành nghề luật sư ở những địa phương này kém hiệu quả, ảnh hưởng trực tiếp đến tổ chức và hoạt động luật sư ở địa phương.
Thứ tư, các Đoàn luật sư chưa thực hiện tốt chức năng đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các luật sư. Đoàn luật sư chưa thực sự là nơi tập hợp những bức xúc, khó khăn, vướng mắc, đề xuất, kiến nghị của luật sư liên quan đến hoạt động hành nghề và đại diện cho luật sư trong việc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hơn nữa, đối với công tác tự quản của tổ chức luật sư, cũng cần nói đến vai trò của các tổ chức hành nghề luật sư. Việc tổ chức, điều hành văn phòng luật sư, công ty luật cũng được cải tiến, tiếp cận gần hơn với cách tổ chức, điều hành tiên tiến, hiện đại của các công ty luật ở các nước trên thế giới. Một số tổ chức hành nghề luật sư đã cung cấp dịch vụ pháp lý có chất lượng cho cá nhân, tổ chức nước ngoài, tham gia giải quyết tranh chấp lớn có yếu tố nước ngoài. Một số công ty luật đã có nhu cầu, khả năng và trong thực tế đã thuê luật sư nước ngoài làm việc cho công ty mình. Trong thời gian qua, đa số các tổ chức hành nghề luật sư đã làm tốt công việc giáo dục, giám sát luật sư trong việc tuân theo pháp luật, quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp của luật sư. Tuy nhiên, một số tổ chức hành nghề luật sư chưa thực sự quan tâm đến công việc này, đồng thời có biểu hiện lỏng lẻo trong việc quản lý các luật sư của tổ chức mình, để xảy ra hiện tượng luật sư vi phạm pháp luật, quy tắc đạo đức nghề nghiệp mà tổ chức không biết hoặc bỏ qua.
Về việc bảo vệ quyền hành nghề luật sư và bảo vệ luật sư
Sở dĩ phải nói đến vấn đề này, bởi trên thực tế hiện nay, dù các quy định của pháp luật đã quy định quyền tham gia tố tụng của luật sư, nhưng ở nhiều phiên tòa, tiếng nói, vai trò của luật sư không thực sự có giá trị.
Nhiều luật sư trong quá trình hành nghề đã đành phải chấp nhận những rủi ro ngoài mong muốn, họ thậm chí phải đổ máu vì nghề nghiệp. Mới đây, tại Quảng Trị, một luật sư thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Hải Dương đã bị hành hung giữa chốn công cộng sau khi tham gia phiên tòa giải quyết vụ ly hôn là một ví dụ về thái độ coi thường pháp luật, cố ý xâm hại đến quyền hành nghề hợp pháp của luật sư khi tham gia tố tụng.
Những biểu hiện về sự coi thường pháp luật, xâm hại đến quyền hành nghề của luật sư cả trong và ngoài phiên tòa dường như đang diễn ra hàng ngày, tuy nhiên chưa có những giải pháp thực sự hữu hiệu để đảm bảo rằng luật sư được hành nghề với đầy đủ quyền của mình, đồng thời được bảo vệ khỏi sự xâm hại về sức khỏe và tính mạng.
Như vậy, nghề luật sư ở Việt Nam nhìn nhận một cách khái quát ở các khía cạnh vừa đề cập đã cho thấy chiều hướng ngày một được chuyên nghiệp hóa. Quy định của pháp luật đối với nghề luật sư đã có những bước chuyển lớn và là nền tảng để chúng ta tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, nhằm tạo điều kiện tốt nhất cho nghề luật sư phát triển vững mạnh. Tuy nhiên, cũng qua đó để thấy, còn nhiều những hạn chế, bất cập đã và đang nãy sinh trong hoạt động nghề nghiệp cũng như công tác quản lý nghề luật sư rất cần những giải pháp hữu hiệu để hoàn thiện, nhằm nâng cao chất lượng, uy tín của nghề luật sư trong xã hội, cũng như để khẳng định vị thế của luật sư Việt Nam trên bình diện quốc tế.
2.2 Một số giải pháp nâng cao chất lượng, uy tín của nghề luật sư ở Việt Nam
Trên cơ sở thực trạng nghề luật sư ở Việt Nam hiện nay, xin được liệt kê một số ý kiến thể hiện phương hướng, giải pháp hoàn thiện các mặt để nâng cao vị thế nghề luật sư nước nhà như sau:
+ Cần thiết xây dựng điều khoản mới về tội danh xâm phạm quyền bào chữa và nhờ người khá
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghe_lua_o_vn_thuc_trang_va_giai_phap_lecao_803.doc