Trong quần thể danh thắng gồm 16 ngọn núi với những hang động nổi tiếng, chùa Thầy nổi bật cả về quy mô và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc. Dường như từng ngọn núi, con sông nơi đây đều in dấu sự tích, cuộc đời tu hành của Từ Đạo Hạnh. Cái tên “núi Thầy”, “chùa Thầy”, “tổng Thầy” là cách mà dân gian thể hiện sự tôn kính đối với “Thầy”- nhà sư trụ trì, hành lễ để cầu phúc, chữa bệnh, dạy nghề cho dân điah phương. Là thiền sư đời thứ 12 của dòng thiền Tỳ Ly Đa Lưu Chi, một tông phái của Trung Hoa truyền sang Việt Nam từ năm 580 cho đến cuối đời Lý, song cách tu của Từ Đạo Hạnh cùng 1 số thiền sư khác như Vạn Hạnh, Ma Ha, Nguyễn Minh Không lại mang nhiều yếu tố Mật Giáo. Bản thân dòng Tỳ Ly Đa Lưu Chi cũng là sự kết hợp giữa Thiền Tông và Mật Tông, do vậy nó gần với tín ngưỡng phong thuỷ, sấm kỳ, cầu đảo, điều phục tà ma, bốc thuốc rất thịnh ở Trung Quốc và Việt Nam.
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5020 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nghệ thuật kiến trúc chùa Thầy với Phật Giáo Mật Tông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
còn gọi là núi Phật Tích.
I. Lịch sử
Chùa Láng gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời Từ Đạo Hạnh, còn chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát thác của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này.
Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải Am, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh trụ trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm chùa: Chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự) trên núi và chùa Dưới (tức chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự). Đầu thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; Sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn. Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân có hàm rồng.
II. Kiến trúc
1. Kiến trúc chung của chùa Việt Nam
Chùa Việt Nam thường được xây dựng bằng các thứ vật liệu quen thuộc như tre, tranh cho đến gỗ, gạch, ngói... Nhưng người ta thường dành cho chùa những vật liệu tốt nhất có thể được. Vật liệu cũng như tiền bạc dùng cho việc xây dựng chùa thường được quyên góp trong mọi tầng lớp dân cư, gọi là của "công đức". Người ta tin là sẽ được hưởng phúc khi đem cúng vật liệu hay tiền bạc cho việc xây dựng chùa. Trên những cột gỗ lim không bị mối mọt, một số chùa khắc rõ tên người đóng góp. Ngoài ra các tên này cũng được ghi ở các bàn thờ bằng đá hoặc trên các đồ sành, sứ như bát hương, bình hoa, chân đèn... trong một danh sách dài.
Ngày bắt đầu xây dựng chùa cũng như ngày khánh thành đều là những thời điểm có ý nghĩa trong đời sống nhân dân làng quê Việt Nam. Thường có những nghi lễ đặc biệt trong những ngày này.
Chùa Việt Nam thường không phải là một công trình mà là một quần thể kiến trúc, gồm những ngôi nhà sắp xếp cạnh nhau hoặc nối vào nhau. Tùy theo cách bố trí những ngôi nhà này mà người ta chia thành những kiểu chùa khác nhau. Tên các kiểu chùa truyền thống thường được đặt theo các chữ Hán có dạng gần với mặt bằng kiến trúc chùa.
- Phân loại:
Mặt bằng chùa chữ Đinh
Chùa chữ Đinh (丁), có nhà chính điện hay còn gọi là thượng điện, là nhà đặt các bàn thờ Phật, được nối thẳng góc với nhà bái đường hay nhà tiền đường ở phía trước.
Mặt bằng chùa chữ Công
Chùa chữ Công (工) là chùa có nhà chính điện và nhà bái đường song song với nhau và được nối với nhau bằng một ngôi nhà gọi là nhà thiêu hương, nơi sư làm lễ. Có nơi gọi gian nhà nối nhà bái đường với Phật điện này là ống muống.
Mặt bằng chùa chữ Tam
Chùa chữ Tam (三) là kiểu chùa có ba nếp nhà song song với nhau, thường được gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Chùa Kim Liên ở Hà Nội, chùa Tây Phương ở Hà Tây có dạng bố cục như thế này.
Mặt bằng chùa chữ Quốc
Chùa kiểu “Nội công ngoại quốc” là kiểu chùa có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường ở phía trước với nhà hậu đường (có thể là nhà tổ hay nhà tăng) ở phía sau làm thành một khung hình chữ nhật bao quanh lấy nhà thiêu hương, nhà thượng điện hay các công trình kiến trúc khác ở giữa. Bố cục mặt bằng chùa có dạng phía trong hình chữ Công, còn phía ngoài có khung bao quanh như chữ khẩu hay như ở chữ Quốc.
Đây là các dạng bố cục của các công trình kiến trúc chính. Ngoài ra, trong chùa còn có những ngôi nhà khác như nhà tổ, là nơi thờ các vị sư từng trụ trì ở chùa nay đã tịch, hoặc nhà tăng, nơi ở của các nhà sư và một số kiến trúc khác như gác chuông, tháp và tam quan.
- Kiến trúc:
Kiến trúc chùa Việt Nam được xây dựng và phát triển khá đa dạng qua các thời kỳ lịch sử khác nhau và không gian khác nhau, ở các phong cách kiến trúc địa phương. Chùa kiểu chữ Tam phổ biến hơn miền Nam hơn ở miền Bắc. Chùa của người Mường làm bằng tranh tre đơn giản. Chùa của người Khmer chịu ảnh hưởng của Campuchia và Thái Lan. Chùa của người Hoa cũng có sắc thái kiến trúc riêng.
+ Tam quan:
Tam quan là bộ phận không thể thiếu trong thành phần chùa Việt Nam, là cổng vào chùa, thường là một ngôi nhà với ba cửa vào. Có nhiều chùa có hai tam quan, một tam quan nội và một tam quan ngoại. Tầng trên của Tam quan có thể dùng làm gác chuông.
+ Sân chùa:
Qua Tam quan là đến sân chùa. Sân của nhiều chùa thường được bày đặt các chậu cảnh, hòn non bộ với mục đích làm tăng thêm cảnh sắc thiên nhiên cho ngôi chùa. Diện tích của sân chùa phụ thuộc vào những điều kiện và đặc điểm riêng của từng chùa. Trong sân chùa, đôi khi có các ngọn tháp được xây dựng ở đây như ở chùa Dâu, chùa Thiên Mụ.
+ Bái đường:
Từ dưới sân chùa, lớp kiến trúc đầu tiên của ngôi chùa là nhà bái đường (hay còn gọi là tiền đường, nhà thiêu hương). Để đi được đến đây thường phải đi lên một số bậc thềm. Ở nhà bái đường có thể đặt một số tượng, bia đá ghi sự tích của ngôi chùa, có thể đặt cả chuông, khánh nếu như ngoài cửa Tam quan không xây gác chuông. Giữa bái đường là hương án, nơi thắp hương chính. Thông thường người đến lễ chùa thắp hương ở đây. Số gian của bái đường tùy thuộc vào qui mô của chùa, nhỏ nhất là 3 gian, thông thường là 5 gian.
+ Chính diện:
Qua nhà bái đường là chính điện. Giữa bái đường và chính điện có một khoảng trống không rộng lắm, để cho ánh sáng tự nhiên chiếu sáng. Nhà chính điện là phần quan trọng nhất của ngôi chùa vì nơi đây bày những pho tượng Phật chủ yếu của điện thờ Phật ở Việt Nam.
+ Hành lang:
Chạy song song với chính điện, nối chính điện với hậu đường là hai gian hành lang, tạo thành một nhà ba gian.
+ Hậu đường:
Qua nhà chính điện, theo đường hành lang ta đến nhà tăng đường (còn gọi là nhà hậu đường), cũng còn gọi là nhà tổ. Nhà hậu đường ở một số chùa trong miền nam Việt Nam liền sát sau nhà chính điện, ngay sau phía bàn thờ Phật.
Trong thực tế, chùa có nhiều biến thể khác nhau. Ở một số chùa, phía sau điện thờ Phật còn có điện thờ Thần, đó là loại chùa tiền Phật hậu Thần phổ biến ở miền Bắc Việt Nam. Có chùa có gác chuông ở phía trước, có chùa có gác chuông ở phía sau, có chùa gác chuông ở ngay trên cửa Tam quan, có chùa gác chuông lại ở trên nhà tổ. Một số chùa có ngôi tháp lớn ở trước mặt, như chùa Dâu ở tỉnh Bắc Ninh, chùa Phổ Minh ở tỉnh Nam Định, nhưng một số chùa khác lại đặt các tháp ở hai bên chùa hay có vườn tháp riêng như chùa Trấn Quốc ở Hà Nội, chùa Bút Tháp ở Bắc Ninh, Chùa Bổ Đà ở tỉnh Bắc Giang...
Ngoài công trình chính, chùa Việt Nam thường có vườn cây, vườn hoa được trồng và chăm chút cẩn thận. Nhiều chùa có cả giếng, ao, hồ sen...
2. Kiến trúc chùa Thầy
Chùa Thầy được xây dựng vào thời Lý Nhân Tông (1072- 1127), lưu dấu tu hành của một vị cao tăng- Thiền sư Từ Đạo Hạnh. Điều đặc biệt, Từ Đạo Hạnh vừa là tăng, là phật, là vua và là Tổ sư của nghề múa rối cổ truyền. Tương truyền Thiền sư Từ Đạo Hạnh, tên tục là Lộ, con quan Đô sát Từ Vinh, mẹ là Tăng Thị Loan, quê ở làng An Lãng, huyện Vĩnh Thuận (nay thuộc làng Láng, Đống Đa, Hà Nội). Ngay từ thuở nhỏ, cậu bé khôi ngô, tuấn tú họ Từ này đã có những hành động khác thường. Lớn lên, cậu Từ ứng thi khoa Bách Liên, đỗ đầu nhưng không ra làm quan. Vì mối thù cha nên quyết tâm xuất gia học đạo, rồi cùng các ngài Giác Hải, Không Lộ sang Tây Thiên (Ấn Độ) cầu Pháp. Sau khi đọc được pháp thuật, chàng trai họ Từ trở về núi Sài, ngày đêm tụng tập. Đến khi thù cha đã trả xong, thì niềm tục lắng trong, ngài trở về giảng đạo, dạy học, hái thuốc giúp dân và tổ chức nhiều trò chơi dân gian như: Đá cầu, vật, múa rối nước... Nhân dân vô cùng cảm phục, kính mến và gọi ngài bằng “Thầy”. Từ đó, chùa Ngài tu được gọi là chùa Thầy, núi Ngài hoá gọi là núi Thầy, làng Ngài sống là làng Thầy và thậm chí cả tổng đó cũng được gọi là tổng Thầy.
Theo thuyết phong thủy, núi Thầy được xem như là một con rồng lẻ đàn (quái long); sân chùa là lưỡi rồng, Thủy Đình là hòn ngọc, còn xung quanh (thập lục kỳ sơn) là các con lân, phượng... chầu về. Chùa Thầy rộng 2.400m2, gồm 3 tòa nhà đồ sộ, xây dựng song song, hình chữ tam, có hai dãy hành lang chạy kèm hai bên đầu hồi, với nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc khá độc đáo, hiếm có. Điều kỳ lạ, tòa Bảo điện nguy nga, đồ sộ như thế mà vẻn vẹn chỉ có 36 lỗ đục, gỗ được xếp chồng lên nhau, nhưng rất kiên cố, vững chắc. Mái chùa được lợp bằng ngói cổ, kiểu mũi hài. Tương truyền rằng, ngói lợp này được lấy từ chùa Tây Phương, cách chùa Thầy 7km về hướng tây. Mặc dù quãng đường dài như vậy, nhưng năm xưa, khi chuyển ngói về lợp, được chuyển tay nhau theo kiểu nối dây và chỉ trong một ngày, vừa vận chuyển, vừa lợp mà cũng xong. Hồ nước hình bán nguyệt trước cửa chùa có tên gọi là hồ Long Trì (ao Rồng), quanh năm nước đầy ắp và luôn trong xanh. Giữa hồ có nhà Thủy Đình, là nơi biểu diễn trò múa rối nước vào ngày hội truyền thống hàng năm.
Hai bên tả, hữu của chính diện chùa Thầy là 2 chiếc cầu: Nhật Tiên Kiều và Nguyệt Tiên Kiều do Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan xây dựng vào năm 1602, khi ông đi xứ nhà Minh về. Những chiếc cầu này được lợp mái theo kiểu “Thượng gia hạ kiều” (trên là nhà, dưới là cầu). Bên trái Nhật Tiên Kiều thông ra Tam phủ trên một hòn đảo nhỏ giữa ao Rồng. Bên phải là Nguyệt Tiên Kiều bắc qua ao lên núi. Khi chúa Định Vương Trịnh Căn qua đây phải thốt lên rằng: “Nay thấy chùa Thiên Phúc ở núi Phật tích như viên ngọc nổi lên giữa đám ruộng sỏi đá rạng vẻ xuân tươi ở cả bốn mùa. Động tiên hệt như cõi thanh hư, bên vách còn in mây ráng... Đó chính là vườn xanh, núi Thúy dời đến chốn nhân gian vậy”.
Ngoài chùa Thiên Phúc, trong quần thể di tích núi Thầy này còn có nhiều đình, chùa cổ kính, gắn liền với các sự tích và đã từng nuôi giấu, che chở cho các cán bộ, lãnh đạo hoạt động cách mạng trong những năm chiến tranh. Từ chân núi, qua hai lần cổng, men theo bậc đá là lên tới đỉnh núi Thầy. Lưng chừng núi Thầy có một ngôi chùa nhỏ, gọi là chùa Cao (Hiển Thụy Am) và hang Thánh hóa- nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh giải thi (trút xác). Hang Thánh hóa nhỏ hẹp, lờ mờ vẻ huyền bí, càng nhìn kỹ vào vách đá trong hang, càng thấy có nhiều vết lõm, đó là: Vết đầu, vết chân và vết tay, năm xưa Thiền sư Từ Đạo Hạnh đã tỳ vào lúc trút xác. Trên đỉnh núi Thầy có một khoảng đất rộng và bằng phẳng, xung quanh có một mô đá chầu vào đó, gọi là chợ Trời. Theo đường mòn chùa Cao, vòng về phía sau, qua lối rẽ là tới hang Cắc Cớ.
Hang Cắc Cớ khá sâu, lại hẹp và tối, du khách phải nắm tay nhau mà đi. Đây là nơi tuẫn tiết của nghĩa quân họ Lã, sau trận chống giặc ngoại xâm thất bại. Qua hàng cây đại già sẽ đến đền Thượng, nơi thờ Thánh Văn Xương, nơi hội họp của Đông Kinh Nghĩa Thục trước đây. Đi tiếp, xuống đến chùa Bối Am (chùa Một Mái, chỉ có một mái dựng vào vách núi), hang Hút Gió, thềm đá Thái Lão, đền tưởng niệm Nhà sử học Phan Huy Chú, Nhà lưu niệm Bác Hồ... Nơi đây, xưa kia Phan Huy Chú đã viết thành công tác phẩm Bách khoa cổ vĩ đại “Lịch triều hiến chương loại chí”. Cũng chính nơi đây, Bác Hồ đã từng sống, làm việc trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.
Nhằm gìn giữ các giá trị văn hóa, được sự quan tâm của Bộ VH- TT, UBND tỉnh, huyện Quốc Oai và lòng hảo tâm của nhân dân, hàng năm, xã Sài Sơn dành hàng tỷ đồng tôn tạo, tu bổ, bảo vệ, làm đẹp phong cảnh chùa Thầy. Đặc biệt, nhân dịp Lễ hội năm nay, nhà Thủy Đình và hai cây cầu: Nhật Tiên Kiều, Nguyệt Tiên Kiều đã được một doanh nghiệp hảo tâm đóng góp hơn 2 tỷ đồng trùng tu lại nguyên bản như xưa. Lễ hội chùa Thầy năm 2006 được diễn ra từ ngày 4 đến 7- 3 (âm lịch), là năm chính hội (5 năm một lần). Chính vì vậy, Lễ hội chùa Thầy năm nay được huyện Quốc Oai và xã Sài Sơn chủ trương tổ chức khá quy mô, theo đúng phong tục tập quán, đậm đà bản sắc dân tộc, đảm bảo nếp sống văn minh, bao gồm 2 phần chính: Phần lễ và phần hội. Cùng với việc tắm tượng (Mộc Dục), rước thánh, rước văn, rước vật theo đúng nghi lễ, còn có nhiều hoạt động văn hóa phong phú do các đoàn nghệ thuật trong và ngoài tỉnh biểu diễn như: Múa rối nước 3 ngày, hát quan họ 2 đêm 1 ngày, 1 đêm biểu diễn của Đoàn cải lương Hoa Mai...; cùng nhiều trò chơi dân gian khác: Chọi gà, cờ tướng... do nhân dân địa phương tổ chức.
II. Nghệ thuật kiến trúc chùa Thầy với Phật Giáo Mật Tông
Trong quần thể danh thắng gồm 16 ngọn núi với những hang động nổi tiếng, chùa Thầy nổi bật cả về quy mô và nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc. Dường như từng ngọn núi, con sông nơi đây đều in dấu sự tích, cuộc đời tu hành của Từ Đạo Hạnh. Cái tên “núi Thầy”, “chùa Thầy”, “tổng Thầy” là cách mà dân gian thể hiện sự tôn kính đối với “Thầy”- nhà sư trụ trì, hành lễ để cầu phúc, chữa bệnh, dạy nghề cho dân điah phương. Là thiền sư đời thứ 12 của dòng thiền Tỳ Ly Đa Lưu Chi, một tông phái của Trung Hoa truyền sang Việt Nam từ năm 580 cho đến cuối đời Lý, song cách tu của Từ Đạo Hạnh cùng 1 số thiền sư khác như Vạn Hạnh, Ma Ha, Nguyễn Minh Không… lại mang nhiều yếu tố Mật Giáo. Bản thân dòng Tỳ Ly Đa Lưu Chi cũng là sự kết hợp giữa Thiền Tông và Mật Tông, do vậy nó gần với tín ngưỡng phong thuỷ, sấm kỳ, cầu đảo, điều phục tà ma, bốc thuốc… rất thịnh ở Trung Quốc và Việt Nam. Thiền sư ngày đó thường nổi tiếng về phép thuật chữa bệnh. “Từ Đạo Hạnh hàng ngày tụng kinh Đại bi tâm Đàlani đủ 108000 lần, sai khiến được Tứ trấn thiên vương, trả thù cho cha. Sư còn làm bùa phép, bùa chú, còn thác sinh làm vua Lý Trần Tông sau này”.
Tuy nhiên, Mật Tông khi truyền vào Việt Nam không còn độc lập như một tông phái riêng mag nhanh chóng hoà vào tín ngưỡng dân gian, pha trộn với chân tế, cầu hồn, pháo thuật, yến bùa trị tà mà chữa bệnh… Như vậy, chùa Thầy được coi là một trong những ngôi chùa mang đậm dấu ấn của phái Mật Tông, chủ trương dùng hình tượng cụ thể kết hợp với mật chú, mật ngữ để khai mở trí tuệ và giác ngộ, thường sử dụng các yếu tố: phong thuỷ, nghệ thuật kiến trúc, nghệ thuật tạo hình, sắp đặt điêu khắc, đồ thờ để tạo hiệu quả thị giác, để người Phật tử tự suy ngẫm đi đến giác ngộ. Tất cả những yếu tố này được quy gọn trong bốn pháp Mạn Trà la bao gồm: “Đại Mạn Trà la, Tam muội gia Mạn Trà la, Pháp Mạn Trà la, Yến Ma Mạn Trà la”.
Về phong thuỷ, chùa Thầy không chỉ ở vị trí đắc địa mà bản thân sự sắp đặt kiến trúc phối hợp với cảnh quan thiên nhiên cũng phù hợp với thuyết phong thuỷ. Đó là hình tượng con rồng. Núi Thầy được xem là con rồng lẻ đàn sắc sảo (quái long), chung quanh có Thập lục kỳ sơn (là các con lân, con phượng, con rùa) chầu về. Chùa Thầy được dựng ở chân núi Sài Sơn uốn lượn như đuôi rồng, mặt nhìn ra núi Long Đấu, phía trước là hồ Long Trì (ao rồng), xung quanh có làng xóm đông vui. Chùa nằm trên khu đất Hàm rồng, sân cỏ trước là hàm trên của rồng, bờ hồ bên trái là hàm dưới, miệng rồng há ra đón hòn ngọn là Thuỷ Đình; Hai dải đất rộng ra hai bên là 2 chân trước của rồng ôm lấy chùa; Hai cầu Nhật Tiên Kiều và Nguyệt Tiên Kiều là răng nanh của rồng; Hai bên có giếng tượng trưng cho mắt rồng; Hai cây gạo khúc khuỷu vươn lên trời trước chùa là râu rồng; Ba lớp chùa Hạ, Trung, Thượng là đầu rồn; Hành lang hai bên chùa có gác chuông, gác trống là tai rồng. Chính vẻ đẹp, hình tượng kỳ ảo của chùa Thầy đã khiến chúa Định Vương Căn (1682- 1709) khi qua đây phải ghi lại trên bia Phật Tích Sơn Tự: “Nay thấy chùa Thiên Phúc ở núi Phật Tích như viên ngọc nổi lên giữa đám đông ruộng sỏi đá rạng vẻ xuân tươi cả bốn mùa”.
Về kiến trúc, đây là một ngôi chùa tiền Phật hậu Thánh linh thiêng và đẹp đẽ, đánh dấu sự hội nhập giữa tín ngưỡng bản địa với Phật giáo, giữa tính chất từ bi của Phật với sự linh thiêng của Thánh. Chùa Thầy được biểu hiện bằng một cấu trúc hoàn chỉnh gắn kết giữa kiến trúc chùa với một cung Thánh nối vào phía sau toà nhà Tam Bảo trên cùng một trục. Cung Thánh là một không gian đóng kín, với diện tích nhỏ để tạo nên vẻ huyền bí, linh thiêng. Toàn bộ kiến trúc chùa trải dài, ăn cao dần theo triền núi theo bố cục nội công ngoại quốc, dạng mặt bằng hoàn chỉnh, phổ biến nhất của kiến trúc Phật giáo thế kỷ XVII. Khu Tam Bảo bao gồm cả toà nhà Tiền đường, Thiêu hương, thượng điện gắn kết theo kiểu chữ công, hai bên có hai dãy hành lang dài nối gác chuông, gác chống, nhà hậu tạo nên một một khung chữ nhật (chữ Quốc), tạo cho chùa một không gian thoáng bên trong nhưng lại kín đáo bên ngoài. Cùng kiếu này còn có một số chùa thờ Thánh khác như Bối Khê (Hà Tây), chùa Keo (Thái Bình), chùa Láng (Hà Nội)… Song ở những chùa này, ngay ở kiến trúc phía ngoài có sự kết hợp giữa kiến chùa (Tam quan) với kiến trúc đền (Nghi môn) gọi chung là Tam quan nội, Tam quan ngoại. Với những chùa mà việc thờ thánh quan trọng hơn thờ Phật thì ngũ môn hay nghi môn tứ trụ của đền được đặt trước tam quan chùa. Chùa Thầy xưa nay không có Tam quan, bởi thế không có đường vào mặt trước. Đó cũng là đặc điểm của kiến trúc chùa Thầy. Một dấu ấn nữa ghi nhận sự kết hợp tín ngưỡng bản địa với Phật giáo là việc sử dụng những miếu thờ Thần đế Phật hoá Thần. Hang Thánh Hoá của chùa Thầy nay vẫn còn treo biến Hương Hải Am gợi về nơi tu hành xưa của Từ Đạo Hạnh. Khởi đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ ứng với Bồ đề viện của Từ Đạo Hạnh, tương ứng với toà “Điện Thánh” của chùa. Hiện nay nền điện thánh còn bảy hòn đá tảng chân cột bằng đá màu đỏ nâu kích thước 0.65m x 0.65m và một số hiện vật niên đại sớm thời Lý.
Những toà chính của chùa Thầy được xây trên nền rất có, thấp nhất là hành lang và nhà hậu cũng được làm trên nền cao 1m, tiền đường cao hơn mặt đất 1m, điện Phật cao 1,76m, cao nhất là điện thánh cao 2,20m, xung quanh là kê đá hộc. Toàn bộ cấu trúc chùa theo kiểu chồng dường kèm giá chiêng. Hành lang kiểu hệ thống vì kéo ván chống. Đáng lưu ý nhất là toà thiêu hương (hay ống muống) là kiến trúc nối liền dựa chủ yếu hai toà tiền đường và thượng điện nên không có cột, hai bên có lan can gỗ chạm chấn song con tiện. Tuy nhiên ở một ngôi chùa đặc biệt như chùa Thầy, nó còn được dân gian địa phương gọi là nhà cầu. Theo tác giả Trần Lâm - Hồng Kiên, kiến trúc của tòa này rất gần dạng thượng gia - hạ kiều dù trên dưới không hề có nước. Cùng dạng kiến trúc thượng gia - hạ kiều còn có hai chiếc cầu đá Nhật Tiên Kiều và Nguyệt Tiên Kiều uốn cong hai bên phải trái trước chùa, trong địa hình tổng thể như hai năng nanh và hai mắt rồng. Cầu Nhật Tiên Kiều bên trái chùa để đi ra đảo nhỏ có đền thờ Tam Thánh, còn Nguyệt Tiên Kiều bên phải chùa nối với bờ hồ có đường lên núi, tương truyền do Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan xây dựng cuối XVI đầu XVII. Mỗi cầu gồm năm gian, dưới xây đá cuốn, trên dựng bộ khung nhà gỗ lợp ngói. Hai bên thành cầu thông thoáng, có lan can thấp. Ngoài nét đẹp của kiến trúc soi bóng bên hồ, tạo sự bề thế cho chùa, Nhật - Nguyệt Tiên Kiều còn là biểu hiện của trời - trăng, âm - dương đối đãi, hòa hợp tạo thế cân đối, tăng thêm vẻ đẹp cho ngôi chùa. Nằm giữa hồ nước xanh Long Trì trên trục chính của chùa là nhà Thủy Tạ kiểu phương đình, gồm hai tầng tám mái chồng diêm xoè ra bốn phía tựa bông sen khổng lồ mọc lên từ hồ nước. Vào ngày hội chùa, đây là nơi diễn ra trò rối nước vui nhộn.
Về điêu khắc, mỗi hệ thống tượng với chức năng riêng biệt sẽ được đặt ở những vị trí nhất định trong chùa. Ở chùa Thầy với kiến trúc tiền Phật hậu Thánh, có hai hệ thống tượng chính: Hệ thống tượng Phật và hệ thống tượng Thánh.
Trọng tâm của hệ thống tượng Phật là ở chùa Trung (Đại Hùng Bảo Điện). Cách sắp xếp cơ bản vẫn chia trên hai chục chính: Trục ngang (thời gian) là bộ tượng Tam Thế (Quá khứ, hiện tại, tương lai) và trục dọc (không gian) gồm tượng Tuyết Sơn - Di Lặc - Thích Ca sơ sinh. Mỗi nhóm tượng được chú trọng, nhấn mạnh đến thần thái, cách tạo hình ứng với chức năng của tượng. Bộ tượng tam thế tượng trưng cho ba ngàn đức Phật trong ba kiếp, cho tính bình đẳng về Phật tính, do đó ba pho tượng hình dáng, kích thước tư thế tọa thiền tương tự nhau chỉ khác thế tay và một vài chi tiết trang trí. Nhóm tượng Di Đà Tam Tôn bao gồm Bồ Tát Đại Thế Chí- A di đà- Bồ Tát Quan Âm. Ba tượng này có thế ngồi tọa thiền kiết già (yoga), khiến tâm không thể lay động. Điểm đặc biệt ở ba pho tượng này là phong cách tạo hình mới chú trọng yếu tố trang trí bằng hệ thống hạt nổi, bao gồm những hạt tròn to nhỏ khác nhau, kết hợp với hoa cúc mãn khai kết năm hàng dọc, ba hàng ngang bao quanh thân tượng. Chưa có tượng nào trước và sau này lại có nhiều hạt như vậy. "Đó là hàng hạt kỳ ảo, được chạm theo một qui luật bắt nguồn từ ý nghĩa của Mật Tông (gọi là bí mật giáo, một Phật phái tin vào linh phù, châu ngôn, pháp ấn) tạo ra cái linh thiêng".
Tiếp đó, theo trục dọc là tượng Tuyết Sơn- Di Lặc- Thích Ca sơ sinh tượng trưng cho ba đoạn đời tu hành của Phật. Tuyết Sơn là Phật ở giai đoạn tu khổ hành, chưa thành Phật, còn đau đáu về cuộc đời, với hình dạng một nhà sư gày gò, ngồi an tịnh, trầm mặc, khuôn mặt đầy suy tư. Di Lặc được coi là vị Phật của tương lai, đấng Từ Tôn cứu thế, người ta cho rằng "Di Lặc xuất thế thiên hạ thái bình". Bởi vậy tượng Di Lặc thường béo tốt, mặt tròn, bụng phệ, chân tay ngắn, tư thế một chân co, một chân chống, khuôn mặt tượng luôn cười hớn hở bắt nguồn từ đại tâm từ bi hỉ xả của ngài . Cuối cùng là tượng Thích Ca sơ sinh một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất ý nghĩa "Thiên thượng địa hạ, duy ngã độc tôn", xung quanh có chín con rồng tượng trưng cho mây trời linh thiêng hội tụ lấy nước thiêng tẩy trừ những uế trọc cho đức Phật.
Bao bọc hai bên Tam Bảo là hành lang với hệ thống tượng La Hán, hiện thân của những người tu hành xuất thân từ nhiều tầng lớp có tiểu sử, cá tính, lối tu khác nhau do vậy cũng là nhóm tượng sinh động, hiện thực, tạo nhiều cảm hứng. Tuy nhiên 18 vị La Hán bằng đất ở chùa Thầy không phải là nhóm tượng đặc sắc về thẩm mỹ và tạo hình. So với một số chùa cùng niên đại thế kỷ XVII, hệ thống tượng chùa Thầy có số lượng ít, không đầy đủ, phần nào cho thấy vai trò của Từ Đạo Hạnh trong chùa lớn hơn vai trò của Phật giáo.
Tượng Từ Đạo Hạnh ở ba kiếp khác nhau được thờ trong điện Thánh: Tượng kiếp tu tiên đặt trong khám thờ bên trái, giữa là tượng chân thân của họ Từ, bên phải là tượng Lý Thần Tông, hóa thân Từ Đạo Hạnh. Nếu pho chân thân Từ Đạo Hạnh mang tính chân dung thể hiện khuôn mặt khắc khổ gân guốc, trong trang phục áo cà sa, mũ pháp sư, ngồi thiền định thì tượng Lý Thần Tông mang nhiều yếu tố tượng trưng, kích thước lớn hơn người thực. Sinh động, độc đáo nhất là tượng Từ Đạo Hạnh ở kiếp tu tiên đặt trong khám thờ. Theo yếu tố Mật giáo tượng Phật được tạo hình động, yếu tố cơ học được thể hiện ở pho tượng này. "Pho tượng có kích thước bằng người thực, làm bằng gỗ chiên đàn đặt trong khám thờ. Khi xưa trong ruột tượng có đặt dây máy theo lối con rối, do đó mỗi khi mở cửa khám tượng từ từ đứng dậy, đóng cửa khám tượng lại từ từ ngồi xuống. Về sau... mới cắt dây máy, và tượng ngồi luôn…".
Có thể thấy tượng Phật đã được thể hiện bằng nhiều yếu tố hình tượng, màu sắc, chất cảm để chuyển tải ý tưởng của đạo Phật. Điểm nổi bật của tượng Phật giáo nói chung, tượng chùa Thầy nói riêng là trạng thái Thiền định, tĩnh tại, trừ tượng Kim Cương ở thế động còn đều có thế tĩnh, tọa sen thiền định hay đứng thẳng. Cái động chỉ nằm ở thế ấn quyết trên các cánh tay tượng Phật, một mặt tạo ra sự linh thiêng, mặt khác, trong không gian ngôi chùa, nó có tác dụng giúp Phật tử thâm nhập vào ý nghĩa của việc tu hành.
Về hình và màu, tượng Phật thể hiện sự viên mãn hoàn chỉnh đầy đủ 32 quý tướng nhà Phật: Tai dài, mặt tròn đầy, tóc bụt ốc… Y phục cân đối tĩnh tại, hài hòa thiên địa nhân. Riêng các tượng La hán có cá tính riêng do xuất thân, tiểu sử của mỗi vị. Tượng Thánh mang tính chân dung, hiện thực, đặc biệt chú trọng đến tính động, tác dụng mạnh tới thị giác người xem.
Về chất liệu: Các nghệ nhân phối hợp giữa gỗ và đất để tạo hình phong phú. Nếu tượng gỗ với màu của vàng, đỏ của sơn, màu cánh gián dưới ánh đèn nến tạo cảm giác lung linh, huyền ảo. Tượng đất hút màu tạo nên độ trầm sâu cho các pho tượng. Tuỳ loại tượng, tuỳ chức năng mà hệ thống tượng được sử dụng trang trí màu sắc cho phù hợp. Tượng Phật, đặc biệt tượng Tam thế, được sơn son thếp vàng tạo vẻ trang nghiêm, linh thiêng. Tượng La hán, Hộ pháp sử dụng màu mạnh, tươi, tương phản gây ấn tượng mạnh về sự trấn áp, oai phong, tạo cái động. Tượng Tuyết Sơn màu đen, thể hiện giai đoạn khởi thủy, tu hành theo lối khổ hạnh của Phật.
Không chỉ sử dụng hệ thống điêu khắc, chùa Thầy còn sử dụng tổng hợp các yếu tố sắp đặt kiến trúc không gian ánh sáng để chuyển tải giáo lý Phật pháp đến với Phật tử. Đó là yếu tố phong thuỷ tìm sự hòa hợp con người - thiên nhiên, tạo vật. Từ ngoài vào chùa cũng là sự chuyển trạng thái từ nơi cuộc sống thế tục để bước vào một thế giới yên tĩnh lắng đọng. Tiền đường bao giờ cũng là nơi trống vắng, ít tượng, tạo không gian yên tĩnh. Trong cái không gian đó, tượng Hộ pháp to lớn, oai phong có tác dụng trấn áp sự ngạo mạn trong mỗi con người. Càng đi sâu vào chùa Phật tử càng được đến gần với cõi Phật. Nơi tiếp xúc trọng tâm nhất là Phật điện, đông đảo vị Phật đang cứu độ, giáo hóa chúng sinh. Về ánh sáng càng đi sâu vào chùa, ánh sáng tự nhiên càng mất dần để chuyển sang ánh sáng của đèn, nếu giúp con người tĩnh tâm suy ngẫm tạm xa rời cuộc sống đời thường.
Nghệ thuật bày đặt điêu khắc, kiến trúc độc đáo, đẹp đẽ linh thiêng, kết hợp với cảnh quan thiên nhiên vốn có (cụm di tích Chùa, hang động tự nhiên) và truyền thuyết linh thiêng về vị thiền sư Từ Đạo Hạnh đã đưa chùa Thầy vào hàng đệ nhất trong di sản nghệ thuật kiến trúc Phật giáo cổ truyền.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- VHOA (61).doc