1. Trật tự hình thành cơ cấu của Chính phủ.
Có thể nói đây là một trong những mối quan hệ đầu tiên và cơ bản nhất trong mối quan hệ giữa hai cơ quan này. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và quy trình thành lập của Chính phủ có sự chỉ đạo, phối hợp một cách nhịp nhàng giữa Quốc hội và Chính phủ. Điều 3 Luật tổ chức Chính phủ 2001 quy định: “Thủ tướng do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Thủ tướng trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối với Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chấp thuận việc từ chức đối với Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ”.
Thủ tướng Chính phủ phải đảm bảo là Đại biểu Quốc hội. Ngoài ra còn có quy định về tiêu chuẩn thành viên Chính phủ như sau: thành viên Chính phủ không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội (trừ Thủ tướng), thành viên Chính phủ không đồng thời là thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Việc quy định như vậy là để đảm bảo cho các thành viên tập trung vào một công việc chính theo nguyên tắc “bất khả kiêm nhiệm”. Các thành viên chính phủ tập trung vào công việc chính của họ mà không kiêm nhiệm thêm bất cứ công việc của ngành, tổ chức, cơ quan nào khác.
11 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2029 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nghiên cứu những quy định của pháp luật về mối quan hệ Quốc hội với Chính phủ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g của bộ máy nhà nước ta hiện nay. Đông thời, việc nghiên cứu sẽ cho ta thấy một đánh giá xá thực về vai trò và vị trí của hai cơ quan này trong bộ máy nhà nước hiện nay.
Trong phạm vi bài tiểu luận này sẽ làm rõ phần nào mối quan hệ giữa hai cơ quan đại diện cho hai lĩnh vực quan trọng là lập pháp và hành pháp được quy định theo pháp luật hiện hành. Do hạn chế về thời gian và sự am hiểu nên bài viết chắc chắn sẽ không tránh khỏi những sai sót, nhóm B2 rất mong nhận được những ý kiến phê bình, đánh giá để bài viết hoàn thiện hơn.
Nhóm B2 xin chân thành cảm ơn!
PHẦN NỘI DUNG
I. Khái quát về Quốc hội và Chính phủ.
1. Quốc hội.
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, đại diện cho ý chí, lợi ích của nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Các đại biểu Quốc hội là những công nhân, nông dân trí thức và những người lao động ưu tú thuộc mọi dân tộc trong cả nước được nhân dân tín nhiệm bầu ra và chịu trách nhiệm trước quần chúng nhân dân, họ có mối liên hệ chặt chẽ với quần chúng, nắm vững nguyện vọng, tâm tư của quần chúng
Theo điều 83, chương VI, Hiến pháp 1992: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.
Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.”
Tại điều 85, chương VI đã quy định: “Nhiệm kì của mỗi khóa Quốc hội là năm năm..
Hai tháng trước khi Quốc hội hết nhiệm kì, Quốc hội khóa mới phải được bầu xong. Thể lệ bầu cử và số đại biểu Quốc hội do luật định.
Trong trường hợp đăc biệt, nếu được ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu Quốc hội biểu quyết tán thành, thì Quốc hội quyết định rút ngắn hoặc kéo dài nhiệm kì của mình.”
Quốc hội có vai trò đặc biệt to lớn trog việc xây dựng, củng cố phát triển bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, từ các cơ quan quyền lực nhà nước đến các cơ quan quản lí nhà nước, cơ quan xét xử và cơ quan kiểm sát. Quốc hội xem xét, lựa chọn, quyết định những mô hình tổ chức, nguyên tắc hoạt động cho các cơ quan đó và được cụ thể hóa bằng Hiến pháp, luật.
Ngoài ra, Quốc hội còn thực hiện chức năng giám sát tối cao nhằm đảm bảo cho những quy định của Hiến pháp, luật được thi hành triệt để, nghiêm minh và thống nhất. Đảm bảo cho các cơ quan hoàn thành nhiệm vụ, quyền hạn đã được quy định, làm cho bộ máy nhà nước hoạt động nhịp nhàng, có hiệu lực, không chồng chéo, chống các biểu hiện quan liêu, tham nhũng, hách dịch cửa quyền.
Như vậy, Quốc hội có vai trò đặc biệt to lớn trog việc xây dựng, củng cố phát triển bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương, từ các cơ quan quyền lực nhà nước đến các cơ quan quản lí nhà nước, cơ quan xét xử và cơ quan kiểm sát. Quốc hội xem xét, lựa chọn, quyết định những mô hình tổ chức, nguyên tắc hoạt động cho các cơ quan đó và được cụ thể hóa bằng Hiến pháp, luật.
2. Chính phủ.
Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. (Điều 109, chương VIII, Hiến pháp 1992). Chính phủ do Quốc hội thành lập ra theo nhiệm kì của Quốc hội, khi Quốc hội hết nhiệm kì Chính phủ tiếp tục hoạt động cho đến khi bầu ra Chính phủ mới. Thành viên Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội. Chính phủ cụ thể hóa Hiến pháp, luật của Quốc hội bằng các văn bản dưới luật như nghị định, nghị quyết…
Chính phủ có nhiệm vụ đảm bảo sự thống nhất trong quản lý nhà nước, thực hiện vai trò lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn thực hiện và kiểm tra hoạt động của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và UBND. Các nội dung trên đước quy định tài điều 109, chương VIII của Luật Hiến pháp 1992.
II. Một số yêu cầu đòi hỏi xác định mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ.
1. Công tác xây dựng pháp luật ngày càng trở nên quan trọng trong điều kiện nước ta đang chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là quá trình hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Trong quá trình chỉ đạo hoạt động lập pháp, Đảng ta nhấn mạnh “…phấn đấu trong những năm tới dần dần có đủ các đạo luật điều chỉnh các lĩnh vực của đời sống xã hội theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, bảo đảm định hướng XHCN; dựa trên cơ sở tổng kết thực tiễn Việt Nam, có nghiên cứu tham khảo chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài…” và cần phải “ Cải tiến sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan của Quốc hội và Chính phủ để bảo đảm tính kịp thời và nâng cao chất lượng xây dựng luật”. Trong các Nghị quyết của Chính phủ, chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ cũng đều tập trung hướng dẫn các Bộ, nghành làm tốt hơn nữa công tác trình các dự án luật, pháp lệnh do Chính phủ chuẩn bị trước Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
2. Xuất phát từ chức năng của Quốc hội và Chính phủ trong bộ máy nhà nước thông qua mối quan hệ giữa hai hoạt động lập pháp và hành pháp ở Việt nam, Chính phủ xem như chủ thể chính trong việc soạn thảo, trình các dự án luật, pháp lệnh trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, hay nói cách khác, sáng kiến lập pháp hiện nay chủ yếu là từ phía Chính phủ (trên 90% các dự án luật, pháp lệnh do Chính phủ trình). Điều đó khẳng định một thực tế là: trong điều kiện một Đảng cầm quyền ở Việt Nam, việc hoạch định chính sách cũng như xây dựng, ban hành các dự án luật, pháp lệnh không phải chỉ có một cơ quan duy nhất, mà là sản phẩm của mối quan hệ mang tính chất “ cộng đồng trách nhiệm” giữa các chủ thể trình (trong đó có Chính phủ) và chủ thể ban hành là Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
3. Chất lượng lập pháp của chúng ta, theo đánh giá của giới chuyên môn hiện nay là thấp, chất lượng không cao; nhiều dự án luật, pháp lệnh không khả thi, thiếu thực tiễn v.v…Có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân chính là sự phối kết hợp giữa Chính phủ (các cơ quan của Chính phủ) vói Quốc hội (các cơ quan của Quốc hội) trong quá trình xây dựng chưa đạt yêu cầu của một chu trình lập pháp khoa học, khách quan và mang tính sáng tạo.
Qua theo dõi, ta nhận thấy nguyên nhân trên chính là ” vùng trũng” trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh hiện nay.
4. Về mặt pháp lý, chúng ta chưa có quy chế ràng buộc lẫn nhau giữa các cơ quan của Chính phủ với Quốc hội (thông qua các chế tài cụ thể) để quy định rõ trách nhiệm của từng cơ quan trong mối quan hệ này. Chúng ta có các đạo luật về tổ chức (tổ chức Quốc hội, Chính phủ), các đạo luật này chỉ quy định thẩm quyền mang tính chất nội dung chứ không phải quy định thể hiện mối quan hệ mang tính thủ tục trong việc phối hợp để tăng cường công tác lập pháp. Hiện nay, chúng ta có Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật (sửa đổi) năm 2002 quy định các thủ tục, trình tự xây dựng một dự án luật, pháp lệnh, nhưng cũng chưa có một quy định nào khẳng định mối quan hệ (mang tính chế tài, nếu các chủ thể không thực hiện thì phải chịu trách nhiệm gì?). Ví dụ, việc xây dựng chương trình xây dựng pháp luật, pháp lệnh không đáp ứng yêu cầu thực tế dẫn đến các đạo luật được ban hành không có hiệu quả thì ai chịu trách nhiệm, Bộ, ngành chủ trì, Chính phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội hay Quốc hội? Nguyên nhân này làm cho các cơ quan tham gia xây dựng chương trình theo hướng ‘mạnh ai, nấy làm” hoặc “ngành này có luật, pháp lệnh thì ngành ta cũng phải xây dựng luật, pháp lệnh”.
5. Bên cạnh đó, một nguyên nhân nữa xuất phát từ thực tế chính là: Chúng em đang học bộ môn Luật Hiến pháp Việt Nam và đây là một phần nội dung quan trọng trong môn học. Việc làm rõ mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ sẽ góp phần củng cố kiến thức của môn Luật hiến pháp Việt Nam.
Từ các yêu cầu trên, đòi hỏi chúng ta cần nghiên cứu kỹ nội dung các mối quan hệ giữa Chính phủ và Quốc hội.
III. Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ theo pháp luật hiện hành.
Trật tự hình thành cơ cấu của Chính phủ.
Có thể nói đây là một trong những mối quan hệ đầu tiên và cơ bản nhất trong mối quan hệ giữa hai cơ quan này. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội và quy trình thành lập của Chính phủ có sự chỉ đạo, phối hợp một cách nhịp nhàng giữa Quốc hội và Chính phủ. Điều 3 Luật tổ chức Chính phủ 2001 quy định: “Thủ tướng do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Thủ tướng trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối với Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chấp thuận việc từ chức đối với Phó thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ”.
Thủ tướng Chính phủ phải đảm bảo là Đại biểu Quốc hội. Ngoài ra còn có quy định về tiêu chuẩn thành viên Chính phủ như sau: thành viên Chính phủ không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội (trừ Thủ tướng), thành viên Chính phủ không đồng thời là thành viên Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Việc quy định như vậy là để đảm bảo cho các thành viên tập trung vào một công việc chính theo nguyên tắc “bất khả kiêm nhiệm”. Các thành viên chính phủ tập trung vào công việc chính của họ mà không kiêm nhiệm thêm bất cứ công việc của ngành, tổ chức, cơ quan nào khác.
Điều 3, Luật tổ chức Chính phủ quy định: “Chính phủ gồm có: Thủ tướng Chính phủ; Các Phó Thủ tướng; Các Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Số Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và Thủ trưởng cơ quan ngang bộ do Quốc hội quyết định. Thủ tướng do Quốc hội bầu, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo đề nghị của Chủ tịch nước. Thủ tướng trình Quốc hội phê chuẩn đề nghị về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức và từ chức đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội, Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chấp thuận việc từ chức đối với Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ.”
Hiến pháp 1992 có quy định khá cụ thể về việc thành lập Chính phủ, đây là quy định kế thừa có chọn lọc quy định của các Hiến pháp Việt Nam trước đó. Đồng thời cũng thay đổi những quy định không phù hợp với thực tế để Chính phủ hoạt động tốt hơn, đáp ứng yêu cầu và tình hình mới của đất nước nhằm thực hiện đúng quan điểm về tổ chức bộ máy nhà nước tập trung vào hệ thống cơ quan dân cử. Điều này không đồng nghĩa với việc hạ thấp vai trò, vị trí của Chính phủ, Hiến pháp vẫn quy định vị trí “cơ quan hành chính nhà nước cao nhất” trong bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam.
Chính phủ - cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
Chính phủ với chức năng là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất được hiểu như một cơ quan quản lý cao nhất theo ngành dọc trong cơ cấu bộ máy nhà nước CHXHCN Việt Nam. Chính phủ đứng đầu hệ thống hành chính nhà nước thực hiện hoạt động thực thi pháp luật, quản lí điều hành đất nước, cơ quan thực hiện quyền hành pháp tối cao của Nhà nước. Hiến pháp và luật của Quốc hội muốn được thực thi phải được Chính phủ cụ thể hóa bằng các văn bản dưới luật, Chính phủ đề ra biện pháp thích hợp, phân công, chỉ đạo thực hiện các văn bản đó trên thực tế. Các quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ được nêu ró tại chương II, luật tổ chức Chính phủ, năm 2003.
Những quy định này nhằm đề cao vị trí của Chính phủ trong bộ máy nhà nước, tạo thế chủ động cho Chính phủ trong hoạt động quản lý nhà nước. Việc quản lý chặt chẽ hệ thống cơ quan hành chính của cả bộ máy nhà nước bao gồm các bộ, cơ quan ngang bộ, các cơ quan hành chính trực thuộc chính phủ, UBND các cấp, cơ quan chuyên môn của UBND và cơ quan đại diện của các bộ tại địa phương giúp cho việc thực thi Hiến pháp, pháp luật của Quốc hội đi vào cuộc sống thực tế của người dân một cách có hiệu quả và nhanh chóng hơn.
Tuy nhiên, mọi vấn đề quan trọng của đất nước, trước khi Chính phủ thực thi đều phải trình lên Quốc hội. Nếu Quốc hội thông qua thì Chính phủ mới được phép thực hiện. Ngược lại, trước một vấn đề mà Quốc hội phủ quyết thì Chính phủ sẽ không được thực thi hóa. Chính phủ chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội về những nhiệm vụ của mình.
Ví dụ: Trong lần đề xuất gần đây nhất của Chính phủ lên Quốc hội về vấn đề xây dựng tuyến đường sắt Bắc – Nam. Trước đề xuất của Chính phủ, Quốc hội đã thể hiện rõ vai trò và quyền hạn của mình. Đây là lần đầu tiên Quốc hội đã phủ quyết đề xuất của Chính phủ.
3. Hoạt động giám sát Chính phủ của Quốc hội.
Một chế định quan trọng của Hiến pháp các nước trên thế giới thể hiện chức năng giám sát của Nghị viện đối với Chính phủ là việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh quan trọng của Chính phủ của chế độ đại nghị. Ở Việt Nam, chế định này cũng được nói đến trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) và Luật tổ chức Quốc hội 2001. Chế định này nhằm ngăn ngừa những biểu hiện xấu của những người đang cầm quyền, tức là bộ máy hành pháp của nhà nước.
Hiến pháp 1992, sửa đổi năm 2001 quy định, trước khi quyết định việc bãi miễn các chức danh Thủ tướng, Phó thủ trướng, Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm của Quốc hội với các chức danh đó. Trong trường hợp người đảm nhiệm chức danh nêu trên bị mất tín nhiệm, thì Quốc hội bỏ phiếu bãi nhiệm (Điều 84).
Điều 88 Luật tổ chức Quốc hội 2001 quy định rõ: Trong trường hợp không đủ quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới thiệu để bầu hoặc để nghị phê chuẩn người đó có trách nhiệm trình Quốc hội xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức người không được Quốc hội tín nhiệm. Ở đây chế định tín nhiệm đã được Hiến pháp và Luật tổ chức Quốc hội tách thành tín nhiệm và mất tín nhiệm. Trong trường hợp mất tín nhiệm mới được tổ chức bỏ phiếu bãi nhiệm nên có thể gây ra tình trạng mất tín nhiệm mà Quốc hội vẫn không bãi nhiệm được. Thành viên của Chính phủ hoạt động dưới sự giám sát của Quốc hội, Chính phủ chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội. Thành viên của Chính phủ có thể bị Quốc hội bãi nhiệm, miễn nhiệm và cách chức theo quy định của pháp luật. Quy định này làm cho các thành viên Chính phủ làm việc theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, đảm bảo cho hiệu quả của cơ quan hành pháp, chống lại những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, hách dịch, cửa quyền.
Mối quan hệ trách nhiệm, giám sát của Quốc hội và Chính phủ thể hiện rất rõ qua hoạt động chất vấn của đại biểu Quốc hội đối với các bộ trưởng và thành viên Chính phủ - đây là một hình thức thực hiện chức năng giám sát. (Điều 49 Luật tổ chức Quốc hội 2001). Gần đây, vấn đề chất vấn của đại biểu Quốc hội cũng như việc trả lời của các bộ trưởng có nhiều tiến bộ rõ rệt. Cụ thể, về phía đại biểu Quốc hội, câu hỏi được nêu ra một cách xác đáng hơn, rõ ràng, cụ thể hơn. Về phía các vị bộ trưởng bước đầu đã nhận thấy trách nhiệm của mình trong lĩnh vực mà họ phụ trách (mặc dù có những lỗi không phải do bộ trưởng gây ra). Để cho chất vấn của đại biểu ngày càng phát huy tác dụng thì vấn đề tiếp theo cần phải làm rõ là các vị bộ trưởng cần phải sửa đổi khuyết điểm đã được thừa nhận như thế nào. Hoạt động chất vấn có thể đi đến chỗ quy kết trách nhiệm của các chủ thể có trách nhiệm. Hình thức giám sát này của đại biểu có hiệu năng, tác dụng hơn các hình thức khác ở chỗ nó sẽ phát huy được công luận, một khi phiên họp được truyền hình trực tiếp cho công chúng. Trong trường hợp chất vấn không được trả lời một cách thỏa đáng tại kì họp, Quốc hội có thể bỏ phiếu tín nhiệm bộ trưởng. Trường hợp khác, Quốc hội có thể giao cho các Ủy ban, Hội đồng hoặc thành lập các đoàn công tác lâm thời điều tra lại vấn đề có liên quan đến chất vấn và trả lời chất vấn của những người có liên quan đến chất vấn và trả lời chất vấn của những người có trách nhiệm và báo cáo lại kết quả điều tra để Quốc hội xem xét tại kì họp tiếp theo. Theo nghĩa này thì chất vấn sẽ được đẩy đến cùng, mà không có cơ sở cho việc buông trôi dẫn đến trường hợp làm giảm hiệu quả của việc chất vấn. Như vậy, sẽ nâng cao trách nhiệm của các bộ trưởng, thành viên Chính phủ lên mức cao hơn. Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, việc chất vấn này vẫn chưa đạt được hiệu quả một cách tối ưu vì nhiều lí do.
Ngoài hoạt động giám sát hoạt động, Quốc hội (UBTV Quốc hội) còn giám sát việc thi hành, ban hành các văn bản luật. Nếu các văn bản trên vi phạm với Hiến pháp 1992 hoặc không phù hợp thì sẽ bị đình chỉ hoặc hủy bỏ.
4. Mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong quy trình lập pháp.
Đây là sự liên quan, phụ thuộc giữa hai chủ thể trong bộ máy nhà nước về vấn đề lập pháp. Nó có những đặc điểm sau:
*Thứ nhất: là mối quan hệ giữa hai chủ thể trong cơ cấu quyền lực nhà nước. Trong đó Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp, Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất. Hoạt động của Chính phủ được thực hiện trên cơ sở những VBQPPL do Quốc hội ban hành. Cần nhận thấy rằng tính lệ thuộc của Chính phủ là việc chấp hành các đạo luật, Nghị quyết do Quốc hội ban hành, Chính phủ có toàn quyền để quản lý, chỉ đạo, điều hành các hoạt động hành chính nhà nước. Trên thực tế vai trò của Chính phủ cũng đã thay đổi từ một chính phủ quản lí thống nhất mọi lĩnh vực trong đời sống xã hội đến một chính phủ làm việc xây dựng thể chế, chuẩn bị và tập trung hơn vào việc chuẩn bị và xây dựng chính sách ở tầm vĩ mô. Đây là điểm nổi bật trong hoạt động của Chính phủ hiện nay so với trước đây. Từ đó, điểm thành công nổi bật thể hiện vai trò Chính phủ là bằng hoạt động cụ thể của mình góp phần đảm bảo tính thống nhất, liên tục của hệ thống hành chính và sự phối hợp chặt chẽ giữa hai cơ quan lập pháp và hành pháp để tạo thành cơ chế tổng thể thực thi quyền lực và hiệu quả quản lí chung của Nhà nước.
*Thứ hai: Quốc hội không trực tiếp soạn thảo nội dung của tất cả các văn bản luật, pháp lệnh mà có những vấn đề về luật, các văn bản luật, pháp lệnh do Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua là do Chính phủ soạn thảo. Như vậy, quyền lập pháp của Quốc hội được thực hiện trên cơ sở quyền trình dự án luật, pháp lệnh của Chính phủ. Trong những năm gần đây, hoạt động của Chính phủ đã tiến hành đều đặn mỗi tháng họp một lần, kéo dài trong khoảng 1 đến 2 ngày. Chính phủ có kế hoạch làm việc theo tháng, Thủ tướng và Phó thủ tướng có kế hoạch làm việc theo tuần. Về mặt nội dung, Chính phủ tập trung nhiều hơn vào việc xây dựng thể chế, thảo luận và thông qua các dự án tại phiên họp của Chính phủ. Kết quả là Chính phủ đã ban hành một lượng lớn các VBQPPL với chất lượng ngày càng cao.
*Thứ ba: trong điều kiện chính trị nước ta hiện nay không có sự đối lập về chính trị nên mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ nói chung và hoạt động lập pháp nói riêng không có sự đối lập trong mục đích xây dựng và ban hành VBQPPL. Luật do Quốc hội ban hành là thể chế hóa đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước. Chính phủ có vai trò đảm bảo, tôn trọng, chấp hành Hiến pháp và pháp luật do Quốc hội ban hành. Vì thế Hiến pháp, luật của Quốc hội ban hành chỉ có thể trở thành hiện thực trong đời sống Nhà nước và đời sống xã hội khi được Chính phủ tổ chức chỉ đạo trong quá trình thực hiện chức năng quản lý Nhà nước bằng hoạt động lập quy (cụ thể hóa đúng đắn và kịp thời luật và nghị quyết của Quốc hội) đồng thời tuyên truyền, phổ biến chúng. Để làm tốt chức năng lập pháp của mình, Quốc hội cần có một sự phối hợp nhịp nhàng với Chính phủ. Giữa hai cơ quan này không những phải có sự phối hợp mà còn phải có sự phân công rõ ràng giữa cơ quan có quyền thông qua các dự án luật với cơ quan trình dự án luật.
Công đoạn của Chính phủ trong quá trình xây dựng dự án luật có thể gồm 4 bước sau:
Nhận biết vấn đề.
Nghiên cứu, phân tích và đề ra chính sách để xử lí vấn đề.
Phê chuẩn chính sách.
Soạn thảo văn bản luật để thể chế hóa chính sách
i) Trong giai đoạn soạn thảo dự thảo luật, theo quy định của luật hiện hành UBTVQH thành lập ban soạn thảo và phân công chủ trì ban soạn thảo, trường hợp dự án luật, pháp lệnh dự thảo nghị quyết do Chính phủ trình thì Chính phủ giao cho một bộ hoặc một cơ quan ngang bộ chủ trì soạn thảo; cơ quan được chủ trì soạn thảo có trách nhiệm thành lập ban soạn thảo. Trong quá trình soạn thảo có sự tham gia của các cơ quan, tổ chức chủ trì soạn thảo; cơ quan được giao chủ trì soạn thảo đối với việc tổng kết thi hành pháp luật, đánh giá các VBQPPL hiện hành có liên quan đến dự án luật, pháp lệnh, dự thảo, nghị quyết. Pháp lệnh, dự thảo, nghị quyết trước khi trình Chính phủ, văn phòng Chính phủ chuẩn bị những nội dung cơ bản, những vấn đề còn có ý nghĩa khác nhau của dự án, dự thảo để báo cáo Chính phủ thảo luận.
ii) Trong giai đoạn thẩm tra dự án luật, pháp lệnh: dự án luật, pháp lệnh phải được thẩm tra bởi Hội đồng dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Cơ quan thẩm tra có quyền yêu cầu cơ quan soạn thảo báo cáo những vấn đề thuộc nội dung dự án. Phạm vi thẩm tra bao gồm: sự cần thiết ban hành luật, pháp lệnh; sự phù hợp của nội dung dự án với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; tính hợp hiến, hợp pháp của dự án, tính thống nhất của văn bản với hệ thống pháp luật; việc tuân thủ thủ tục soạn thảo; tính khả thi của dự án.
iii) Trong quá trình chỉnh lí dự án luật, pháp lệnh: khi dự án đã được hoàn thiện dần và trải qua các giai đoạn bắt buộc của thủ tục soạn thảo do pháp luật quy định và được các chủ thể có liên quan đánh giá là có chất lượng cao, đã thể hiện đầy đủ các nội dung cần thiết không còn các ý kiến khác nhau về nội dung của dự án hoặc có ý kiến khác nhau về những vấn đề không cơ bản thì cơ quan soạn thảo sẽ trình dự án luật trước Quốc hội, trình dự án pháp lệnh trước UBTVQH. Các cơ quan này sẽ thảo luận thông qua dự án. Trong giai đoạn này Quốc hội xem xét, thông qua dự án luật, dự thảo nghị quyết tại 1 hoặc 2 kì họp Quốc hội theo trình tự quy định trong luật ban hành VBQPPL 2008.
Mặc dù quy trình lập pháp khá hoàn chỉnh nhưng vẫn có một số tồn tại như: quy trình làm luật chậm; luật vừa ra đời đã không phù hợp với thực tế (chỉ là “chạy theo xã hội”, vì vậy chỉ mới ban hành nhưng luật đã muốn sửa đổi cho hợp với thực tế mới; một vài trường hợp còn không phù hợp với hệ thống văn bản pháp luật đã có gây ra nhiều tranh cãi, đôi khi ngay cả nhân viên trong các cơ quan tư pháp cũng không biết thực hiện theo luật nào, quy định nào...
IV. Một số giải pháp tăng cường hoàn thiện mối quan hệ giữa Quốc hội và Chính phủ trong quy trình lập pháp.
Đổi mới quy trình lập, thẩm tra chương trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Tăng cường tính chủ động của Chính phủ trong quá trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Tăng cường mối quan hệ giữa HĐDT với các ủy ban của Quốc hội, HĐDT với các ủy ban của Chính phủ trong giai đoạn thẩm tra dự án luật, pháp lệnh.
Phân định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong quy trình xây dựng luật, pháp lệnh.
Nâng cao trách nhiệm đội ngũ cán bộ tham mưu cho Quốc hội, Chính phủ trong quy trình lập pháp.
Nâng cao chất lượng hoạt động thông tin phục vụ công tác xây dựng luật của Quốc hội.
Một số lĩnh vực do Chính phủ quản lí cũng cần có sự quản lí, giám sát chặt chẽ hơn của Quốc hội và cần đươc cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là Luật tổ chức Chính phủ và Luật tổ chức Quốc hội, từ đó nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các thành viên Chính phủ ( Thủ tướng, các Phó thủ tướng và các Bộ trưởng), tăng khả năng xử lí các vấn đề thuộc lĩnh vực mình phụ trách... Vấn đề xử lí vi phạm cũng cần đặc biệt quan tâm. Thực tế hiện nay, có nhiều phiên chất vấn của Quốc hội việc phàn nàn “quyền hạn của bộ trưởng thì hữu hạn, mà trách nhiệm thì vô hạn” đã được thay bằng việc các quý bộ trưởng nhanh chóng nhận phần lỗi về mình (mặc dù có thể lỗi đó không do bộ trưởng gây ra). Vấn đề đặt ra là hoạt động chất vấn của Quốc hội không được chỉ dừng lại ở việc nhận trách nhiệm mà là việc giải quyết sự việc như thế nào? Không phải chỉ nhận cho qua, cho xong chuyện. Những năm gần đây có rất nhiều vụ việc vi phạm lớn ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường, tình hình an ninh trật tự…gây nhiều bức xúc trong dư luận và sự tin tưởng của người dân vào bộ máy nhà nước ta (đặc biệt là Quốc hội và Chính phủ).
Như vậy có thể thấy còn nhiều bất cập cần khắc phục trong mối liên hệ, trong hoạt động của cả hai cơ quan nhà nước này, nâng cao hơn nữa hiệu quả của bộ máy nhà nước trong thời kì hội nhập, phát triển. Những giải pháp được nhắc đến ở trên chỉ là ý kiến cá nhân, muốn hoàn thiện tổ chức, hoạt động của các cơ quan nhà nước cần có sự phối hợp của chính các cơ quan đó và sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta.
PHẦN KẾT LUẬN
Hiến pháp 1992 cùng với một số văn bản quy phạm pháp luật khác (luật tổ chức Quốc hội 2001, luật tổ chức Chính phủ 2001, luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008) đã chỉ ra mối quan hệ giữa hai cơ quan quan trọng trong bộ máy nhà nước Việt Nam, mối quan hệ này có ảnh hưởng sâu rộng đến hầu hết các cơ quan nhà nước khác. Nó thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa nhân dân và các cơ quan lãnh đạo của nhà nước ta. Tăng cường mối quan hệ giữa hai tổ chức này có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay khi mà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập hiến pháp- Mối quan hệ giữa Quốc hội với Chính phủ.doc