Tiểu luận Nghiên cứu Quá trình tuần hoàn và chu chuyển tư bản

MỤC LỤC

Phần I: MỞ ĐẦU

Phần II : NỘI DUNG

A – Cơ sở lý luận

I – Tuần hoàn của tư bản

1 – Khái niệm

2 – Các giai đoạn tuần hoàn

3 – Các hình thái của tuần hoàn và sự thống nhất giữa chúng

4 – Lưu thông

II – Chu chuyển của tư bản

1 – Thời gian chu chuyển và số vòng chu chuyển

2 – Tư bản cố định và tư bản lưu động

3 – Chu chuyển chung, chu chuyển thực tế và tỷ suất giá trị thặng dư

hàng năm

4 – Các thời kỳ chu chuyển của tư bản

5 – Việc chi phí lưu thông

B – Sự vận dụng vấn đề tuần hoàn vào chu chuyển tư bản ở Việt Nam

I – Tình hình kinh tế xã hội Việt Nam trước và sau đổi mới

1- Đặc điểm xã hội Việt Nam trước và sau đổi mới (1986)

2 - Quan điểm kinh tế thị trường, định hướng XHCN ở Việt Nam

3 - Các chính sách của nhà nước

II- Thực trạng doanh nghiệp Việt Nam

1- Thực trạng

2 - Những vấn đề còn tồn tại

3 - Nguyên nhân

III – Vấn đề thu hút và sử dụng vốn trong doanh nghiệp Việt Nam

1 - Vấn đề thu hút và sử dụng vốn

2 - Sử dụng như thế nào để có hiệu quả

IV – Giải pháp

1 - Về vốn

2 - Về quản lý doanh nghiệp và việc sử dụng vốn trong doanh nghiệp

Phần III : KẾT LUẬN

 

 

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2019 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nghiên cứu Quá trình tuần hoàn và chu chuyển tư bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ian mua + thời gian bán. Nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: - Trình độ thị trường, quan hệ cung cầu và giá cả trên thị trường. - Khoảng cách tới thị trường. - Trình độ phát triển của giao thông vận tải ... Trong thời gian lưu thông, tư bản không làm chức năng sản xuất, nhìn chung không tạo ra giá trị thặng dư cho tư bản. Tuy nhiên sự tồn tại của nó là tất yếu và có vai trò quan trọng vì đó là đầu vào và đầu ra của sản xuất, cung cấp các điều kiện cho sản xuất và thực hiện tiêu thụ sản phẩm. Rút ngắn thời gian lưu thông làm cho tư bản nằm trong lĩnh vực lưu thông giảm xuống, tăng được lượng tư bản đầu tư cho sản xuất, đồng thời còn rút ngắn thời gian chu chuyển, làm cho quá trình sản xuất được lặp lại nhanh hơn tạo được nhiều giá trị và giá trị thặng dư, làm tăng hiệu quả của tư bản. Do chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như vậy, nên thời gian chu chuyển của các tư bản khác nhau là rất khác nhau. b - Số vòng chu chuyển. Thời gian chu chuyển của tư bản dài ngắn khác nhau nên muốn tính toán và so sánh chúng người ta thường tính tốc độ chu chuyển của các tư bản trong cùng một khoảng thời gian nhất định thường là một năm, xem tư bản đã quay được mấy vòng Ta có công thức: Trong đó: n – số vòng chu chuyển CH – thời gian trong một năm (12 tháng) ch – thời gain chu chuyển một vòng của tư bản Ví dụ: Tư bản thứ nhất có thời gian chu chuyển 6 tháng, tư bản thứ hai có thời gian chu chuyển 8 tháng thì số vòng chu chuyển trong năm của hai tư bản đó là: Hay tư bản thứ nhất chu chuyển nhanh hơn tư bản thứ hai. 2. Tư bản cố định và tư bản lưu động. Tham gia vào quá trình sản xuất gồm có tư liệu sản xuất và sức lao động để sản xuất ra sản phẩm. Căn cứ vào phương thức chu chuyển giá trị của các bộ phận tham gia vào sản xuất mà người ta chia tư bản sản xuất ra thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Tư bản cố định là bộ phận tư bản được sử dụng toàn bộ vào quá trình sản xuất nhưng giá trị của nó chỉ chuyển từng phần vào sản phẩm. Đặc điểm của tư bản cố định là về hiện vật, nó luôn luôn bị cố định trong quá trình sản xuất chỉ có giá trị của nó là tham gia vào quá trình lưu thông cùng sản phẩm hơn nữa nó cũng chỉ lưu thông từng phần, còn một phần bị cố đình trong tư liệu sản xuất, phần này không ngừng giảm xuống cho tới khi nó chuyển hết giá trị vào sản phẩm. Thời gian mà tư bản cố định chuyển hết giá trị của nó vào sản phẩm bao giờ cũng dài hơn thời gian một vòng tuần hoàn . Tư bản lưu động là bộ phận tư bản khi tham gia vào quá trình sản xuất nó chuyển toàn bộ giá trị sang sản phẩm. Đó là bộ phận tư bản bất biến dưới hình thái nguyên nhiên liệu... Bộ phận tư bản khả biến, xét về phương thức chu chuyển cũng giống như bộ phận tư bản bất biến lưu động nên cũng được xếp vào trung bình lưu động. Như vậy, xét theo nguồn gốc và giá trị thặng dư thì tư bản chia thành tư bản bất biến và tư bản khả biến, còn khi xem xét về phương thức chu chuyển giá trị thì tư bản được chia thành tư bản cố định và tư bản lưu động. Căn cứ để phân chia không phải do đặc tính tự nhiên của chúng mà ở sự khác nhau về phương thức chu chuyển giá trị, được quyết định bởi chức năng của các bộ phận tư bản trong quá trình sản xuất. Trong thực tế sự phân biệt giữa tư bản cố định và tư bản lưu động đôi khi rấtkhó. Sự phân chia tư bản thành tư bản cố định và tư bản lưu động là đặc điểm riêng của tư bản sản xuất. Tư bản cố định chu chuyển chậm hơn tư bản lưu động, trong khi tư bản cố định chu chuyển được một vòng thì tư bản lưu động có thể chu chuyển được nhiều vòng. Xác định tư liệu sản xuất là tư bản cố định hay tư bản lưu động phải căn cứ vào chức năng cuả nó trong quá trình sản xuất. Trong quá trình sản xuất tư bản cố định bị hao mòn dần. Ví dụ: Một cỗ máy từ chỗ mới nguyên vẹn bị hao mòn dần trong quá trình sử dụng cuối cùng chỉ còn là một đống sắt vụn. Đó chính là hao mòn về giá trị sử dụng. Đôi khi đối với hao mòn vật chất giá trị của nó cũng bị giảm dần do đã chuyển từng phần sang sản phẩm, đó là hao mòn về giá trị. Những sự hao mòn đó gọi là hao mòn hữu hình_ tức là hao mòn do sử dụng trong sản xuất, do phá hoại của thiên nhiên gây ra. Ngoài hao mòn hữu hình, tư bản cố định còn bị hao mòn vô hình _ tức là nói về những trường hợp máy móc tuy còn tốt nhưng đã bị mất giá do có những máy móc tốt hơn hiện đại hơn xuất hiện. Nó là hao mòn thuần tuý về mặt giá trị. Nguyên nhân của hao mòn hữu hình: - Năng suất lao động tăng lên do đó làm giảm giá trị của những chiếc máy cũ tuy giá trị sử dụng cuả chúng còn nguyên vẹn hoặc mới chỉ hao mòn một phần. - Tiến bộ của khoa học kĩ thuật được ứng dụng đã tạo ra những máy móc tối tân hơn, có công suất cao hơn các máy móc cũ. Tình hình này làm cho các máy móc cũ tuy giá trị sử dụng còn nguyên vẹn nhưng giá trị bị giảm đi nhiều. Hao mòn vô hình và hao mòn hữu hình của tư bản cố định đều được tính chuyển vào giá trị của sản phẩm, lưu thông sản phẩm chuyển hoá thành tiền và hình thành quỹ khấu hao dùng để đổi mới tư bản cố định khi đến kỳ tái tạo nó dưới hình thái hiện vật. Tư bản cố định phải được bảo quản chu đáo để tránh những hao mòn bất thường và nâng cao hiệu quả của nó. Việc bảo quản được thực hiện một phần ngay trong việc sử dụng, bảo tồn và chuyển giá trị của nó vào sản phẩm. Việc bảo quản này là một cồng hiến tự nhiên không mất tiền của lao động sống. Do đó phải có những chi tiêu đặc biệt để bảo dưỡng, tu bổ và sửa chữa tài sản cố định. Chi phí bảo quản và sửa chữa đó được phân phối bình quân vào suốt cuộc đời phục vụ trung bình cuả tư bản cố định và tính vào giá cả sản phẩm sản xuất ra. Số tư bản chi cho bảo quả, sửa chữa xét về nhiều điểm là một thứ tư bản có tính chất đặc biệt, không thể xếp vào tư bản cố định cũng không thể xếp vào tư bản lưu động. Nhưng vì là bộ phận trong chi phí thường ngày nên nó được xếp vào tư bản lưu động, trừ những chi phí sửa chữa lớn có tính chất thay thế hay đổi mới tư bản cố định thì được tính vào quỹ khấu hao tài sản cố định. Trong CNTB hiện đại, tư bản cố định có quy mô rất lớn. Các chi phí bảo quản sửa chữa, thay thế bảo đảm điều kiện cho nó hoạt động cũng rất lớn nên thu hồi nhanh tư bản cố định càng có ý nghĩa quan trọng trong cạnh tranh. Do tác động của khoa học công nghệ hiện đại tư bản cố định càng có nguy cơ hao mòn vô hình, vì vậy các nhà tư bản phải tìm mọi cách để khấu hao nhanh tư bản cố định. Tỷ lệ khấu hao thường được tính rất cao ngay từ những năm đầu chế tạo sản phẩm mới, lợi dụng giá cả sản phẩm cao của đầu chu kỳ sản phẩm sau đó giảm dần khấu hao cùng với việc giảm giá sản phẩm cuối chu kỳ. 3 - Chu chuyển chung, chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước và tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm. a. Chu chuyển chung. Chu chuyển chung của tư bản ứng trước là con số chu chuyển trung bình của những thành phần khác nhau của tư bản. Tốc độ chu chuyển của tổng tư bản ứng trước được tính bằng tốc độ chu chuyển trung bình cuả tư bản cố định và tư bản lưu động.Nó được tính bằng giá trị chu chuyển của tư bản cố định giá trị của tư bản trong năm chia cho tổng số tư bản ứng trước. Ví dụ: tổng tư bản ứng trước là $80.000 trong đó tư bản cố định là $60.000 và cứ 10 năm phải đổi mới một lần tức một năm chu chuyển giá trị của nó vào sản phẩm mới bằng 60.000/10 = $6.000, còn tư bản lưu động là $20.000 và cứ 2 tháng chu chuyển một lần tức là một năm chuyển một số giá trị vào sản phẩm mới là 20.000x6 = $120.000. Tốc độ chu chuyển của tư bản ứng trước là: 120.000 + 6.000 /80.000 = 1,575 vòng. Qua ví dụ trên ta thấy tốc độ chu chuyển của tổng tư bản tỷ lệ thuận với tổng giá trị chu chuyển và tỷ lệ nghịch với giá trị của tổng tư bản ứng trước. Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản sẽ tăng được hiệu suất sản xuất và mang lại giá trị thặng dư nhiều hơn cho nhà tư bản. nó còn giúp nhà tư bản tránh được thiệt hại do hao mòn và tăng cường sử dụng quỹ khấu hao vào việc mở rộng và cải tiến sản xuất. b. chu chuyển thực tế. Chu chuyển thực tế là thời gian để tất cả các bộ phận của tư bản ứng trước được khôi phục toàn bộ về mặt giá trị cũng như về mặt hiện vật; chu chuyển thực tế chủ yếu do thời gian tồn tại của tư bản cố định quyết định. Ví dụ: trong một doanh nghiệp chu chuyển của tư bản cố định là 10 năm một lần, của tư bản lưu động là 10 năm 3 lần thì chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước là 10 năm. Ngày nay khoa học kỹ thuật rất phát triển cho việc ra đời các máy móc hiện đại thay thế cho những máy móc cũ lạc hậu là điều tất yếu. Song chính sự thay thế này là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến tốc độ chu chuyển thực tế của tư bản ứng trước. c. tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm. Tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm là tỷ lệ phần trăm giữa giá trị thặng dư vào tư bản khả biến, biểu thị bằng công thức: m: giá trị thặng dư tạo ra / một vòng chu chuyển. v: tư bản khả biến . Tăng tốc độ chu chuyển của tư bản có ý nghĩa hết sức quan trọng, nó chính là nâng cao tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm, tức là nâng cao tỷ số giữa khối lượng giá trị thặng dư hàng năm với giá trị tư bản khả biến ứng trước. Ví dụ: Giả định 2 tư bản A và B có khối lượng tư bản khả biến ứng ra như nhau là 20.000 đ có tỷ suất giá trị thặng dư như nhau là 100% nhưng tư bản A mỗi năm chỉ chu chuyển một vòng còn tư bản B được 2 vòng thì số lượng giá trị thặng dư hai tư bản ấy thu được sẽ khác nhau: tư bản A thu được 20.000 đ x 100% = 20.000 đ còn tư bản B thu được (20.000 x 2) x 100% = 40.000 đ do đó tỷ suât giá trị thặng dư của hai tư bản cũng khác nhau. Tư bản A đạt tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm là Tư bản B đạt tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm là Tuy hai tư bản ứng trước như nhau nhưng do tốc độ chu chuyển khác nhau nên tư bản khả biến sử dụng khác nhau do đó tỷ suất giá trị thặng dư thực tế như nhau lại dẫn đến tỷ suất giá trị thặng dư hàng năm khác nhau. Bởi vậy, việc lựa chọn ngành có thời gian chu chuyển ngắn hơn và tìm mọi cách rút ngắn thời gian của một vòng chu chuyển là một trong những biện pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các doanh nghiệp.Điều đó gây ảo tưởng rằng lưu thông cũng tạo ra giá trị thặng dư cho tư bản. song thực tế không phải vậy, sở dĩ chu chuyển nhanh có thể đem lại cho nhà tư bản nhiều giá trị thặng dư hơn là vì đã thu hút được nhiều lao động sống hơn, nhờ đó mà tạo ra được nhiều giá trị thặng dư mới. 4- Các thời kỳ của chu chuyển tư bản. Để thức hiện quá trình chu chuyển của tư bản, tư liệu sản xuất và sức lao động mà nhà tư bản mua về phải trải qua hai thời kỳ: sản xuất và lưu thông. Qua quá trình sản xuất, người lao động sử dụng tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm và qua quá trình lưu thông để sản phẩm đó được tiêu thụ đem về cho nhà tư bản hình thái tiền tệ như ban đầu. thời.kỳ sản xuất Thời kỳ sản xuất của tư bản ứng trước gồm có hai thời kỳ: thời kỳ thứ nhất là thời kỳ mà tư bản nằm trong quá trình lao động, thời kỳ thứ hai là thời kỳ mà hình thái tồn tại của tư bản- tức là hình thái của sản phẩm chưa hoàn thành bị phó mặc cho các tác động của tự nhiên mà không nằm trong quá trình lao động. Nếu đôi khi hai thời kỳ này xem kẽ nhau, cài răng lược với nhau, thì tình hình cũng không vì thế mà thay đổi một chút nào. Chỉ đến cuối thời kỳ sản xuất thì sản phẩm mới hoàn thành, mới chín muồi, và do đó, mới có thể chuyển hoá từ hình thái tư bản sản xuất thành hình thái tư bản hàng hoá. thời kỳ lưu thông. Thời kỳ lưu thông đóng vai trò quan trọng trong quá trình chu chuyển của tư bản. Nếu sản phẩm sản xuất ra không được tiêu thụ hết thì nhà tư bản không thu hồi được tiền tệ của mình, và vì thế giá trị thặng dư thu được không cao, có khi không có. Thời gian lưu thông bao gồm thời gian mua và bán. Phần quan trọng nhất là thời gian bán hàng, tức là thời kỳ mà tư bản nằm trong trạng thái tư bản hàng hoá.Một trong những nguyên nhân gây ra sự khác nhau trong thời gian bán hàng là khoảng cách giữa thị trường bán hàng hoá và nơi sản xuất ra hàng hoá ấy. Sự cải tiến những phượng tiện giao thông vận tải tuy rút ngắn một cách tuyệt đối khoảng thời gian di chuyển của hàng hoá, nhưng không xoá bỏ được sự khác nhau tương đối mà sự vận chuyển gây ra trong thời gian lưu thông của những hàng hoá khác nhau, thậm chí của những bộ phận khác nhau của cùng một tư bản hàng hoá. 5 - Chi phí lưu thông. a - Chi phí lưu thông thuần tuý. Nói đến chi phí lưu thông thuần tuý, việc đầu tiên ta phải kể đến thời gian chi phí cho việc mua và bán, tức là chi phí về mặt thời gian. Chi phí cho việc mua và bán là một phần cấu thành chi phí lưu thông, là những chi phí cần thiết làm cho hình thái hàng hoá chuyển thành hình thái tiền tệ và ngược lại. Ngoài chi phí thời gian để thực hiện việc mua và bán, còn phải hao phí thời gian vào việc kế toán, một việc cũng đòi hỏi phải chi phí cả lao đông đã vật hoá nghĩa là đòi hỏi những chi phí sự vụ. Do đó trong khi thi hành chức năng này, một mặt người ta chi phí sức lao động, mặt khác người ta chi phí tư liệu lao động. b - chi phí bảo quản. Trong thời gian chờ lưu thông, do chịu các yếu tố ngoại cảnh, tự nhiên tư bản phải chịu một khoản chi phí để bảo toàn nguyên vẹn hình thái tư bản của mình. Chi phí này sinh ra trong thời gian dự trữ hàng hoá, nhà sản xuất bao giờ cũng chuẩn bị một lượng hàng hoá nhất định, nếu thị trường cần họ sẽ có ngay sản phẩm để bán, nhằm chớp lấy cơ hội thu lợi nhuận cao. c - chi phí vận chuyển. Tư bản hàng hoá không phải được tiêu thụ ngay ở nơi sản xuất ra nó mà nó đươc tiêu thụ ở những nơi khác nhau của thị trường, tức là phải vận chuyển nó từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ. Trong quá trình đó, nhà tư bản phải chịu lượng chi phí gọi là chi phí vận chuyển. Chi phí vận chuyển nhiều hay ít phụ thuộc vào khoảng cách giữa thị trường với khu vực sản xuất. B - Sự vận dụng của vấn đề tuần hoàn và chu chuyển tư bản ở Việt Nam . I - Tình hình kinh tế Việt Nam trước và sau đổi mới. 1- Đặc điểm kinh tế- xã hội Việt Nam trước và sau năm 1986. a. Trước năm 1986: Nước ta bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát rất thấp, vẫn là một nước nghèo kém phát triển. Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, mở mang khoa học, giáo dục, văn hoá ... Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn ở trong tình trạng nông nghiệp lạc hậu, còn nặng tính chất tự cấp tự túc. Trang bị kĩ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế _ xã hội thấp kém. Cơ cấu kinh tế mất cân đối nặng. Cơ chế quản lý tập trung, quan liêu, bao cấp để lại nhiều hậu quả nặng nề. Nền kinh tế rất kém hiệu quả, năng suất lao động thấp, tích luỹ trong nước chưa đáng kể, còn lệ thuộc nhiều vào bên ngoài. Khủng hoảng kinh tế – xã hội kéo dài, lạm phát nghiêm trọng, sản xuất bấp bênh, thất nghiệp tăng; tiền lương không đủ sống; trật tự an toàn xã hội không được bảo đảm; tham nhũng và nhiều tệ nạn xã hội khác lan rộng, công bằng xã hội bị vi phạm; nếp sống văn hoá tinh thần và đạo đức bị xói mòn.... Thực trạng trên có nguồn gốc sâu xa do lịch sử để lại và hậu quả của nhiều năm chiến tranh, song chủ yếu là do chúng ta đã phạm phải sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan trong cải tạo XHCN trong tiến trình công nghiệp hoá và trong cơ chế quản lý kinh tế. Những sai lầm đó cùng với sự trì trệ trong công tác tổ chức, cán bộ đã kìm hãm lực lượng sản xuất và triệt tiêu nhiều động lực phát triển. b. Sau năm 1986: Những quan điểm và chính sách đổi mới về kinh tế xã hội do Đại hội VI của Đảng đề ra được cụ thể hoá và phát triển trong quá trình thực hiện, đặc biệt là những giải pháp tích cực từ cuối 1988 đã đưa tới những thành tựu bước đầu rất quan trọng: hình thành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần; xoá bỏ về cơ bản cơ chế tập trung quan liêu bao cấp; bước đầu chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước; giảm tốc độ lạm phát; đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu lương thực, thực phẩmvà hàng tiêu dùng; tăng nhanh xuất khẩu và có bước phát triển mới về kinh tế đối ngoại. Tuy nhiên trong những năm đầu đổi mới, việc chuyển sang cơ chế thị trường còn thiếu nhất quán, chưa đồng bộ, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính tiền tệ; quảnlý vĩ mô chưa thoát hẳn cơ chế cũ, lại buông lỏng nhiều mặt, bộ máy và đội ngũ cán bộ chưa theo kịp yêu cầu mới. Trong thời gian gần đây, do sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới, nước ta cũng có những bước phát triển đáng kể, đời sống nhân dân được nâng cao; tình hình kinh tế chính trị được ổn định ... Mặc dù thế nhưng nước ta vẫn đang đứng trước những thử thách và khó khăn rất gay gắt. 2. Quan điểm kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam Tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Thiết lập trật tự, kỷ cương theo cơ chế mới vừa là nội dung vừa là điều kiện để ra khỏi khủng hoảng, ổn định phát triển kinh tế xã hội. Về thị trường: trực tiếp hướng dẫn các doanh nghiệp lựa chọn lĩnh vức hoạt động, mặt hàng, quy mô, công nghệ và hình thức tổ chức sản xuất khinh doanh nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong môi trường hợp tác và cậnh tranh. Hình thành thị trường hoàn chỉnh, bao gồm cả sức lao động, vốn và tiền tệ...thông suốt trong cả nước và với thị trường thế giới. Giá cả, tỉ giá hối đoái, lãi suất tín dụng hình thành theo cơ chế thị trường. Nhà nước dùng các biện pháp kinh tế là chủ yếu để tác động đến cung câu trên thị trường, ổn định giá cả, có chính sách bảo hiểm giá cho một số nông sản và hàng xuất khẩu ... Tạo môi trường và điều kiện cho sự cạnh tranh hợp pháp và sự hợp tác liên doanh tự nguyện, bình đẳng giữa các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế ở trong nước và ngoài nước. Xoá bỏ độc quyền và đặc quyền ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế. Đối với những trường hợp không thể tránh được độc quyền nhà nước có cơ chế kiểm soát để tránh lũng đoạn, cửa quyền. Chấp nhận sự phá sản của những đơn vị làm ăn thua lỗ, ban hành luật phá sản. chấp hành luật kinh doanh thông nhất, áp dụng các đơn vị đo lường và tiêu chuẩn chất lượng thông nhất. Nâng cao khả năng tiếp thị của các doanh nghiệp. Xây dựng các hiệp hội kinh doanh, tăng cường phòng thương mại và công nghiệp làm đầu mối hỗ trợ quan hệ giao dịch giữa các nhà kinh doanh trong và ngoài nước. Các cơ sở thương nghiệp, đặc biệt là thương nghiệp quốc doanh làm tốt chức năng đại diện cho người tiêu dùng để đặt hàng cho người sản xuất, mở rộng quan hệ hợp đồng. Tăng cường các bảo đảm pháp lý, kinh tế và tác động của dư luận xã hội nhằm đề cao chữ tín trong kinh doanh chống hàng giả, đầu cơ buôn lậu. 3. Các chính sách của nhà nước: a. Chính sách về vốn: Quán triệt tinh thần vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước là quan trọng. Tiếp tục đổi mớicác chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tài chính tiền tệ để thực hiện tốt việc tạo vốn, huy động và sử dụng vốn có hiệu quả. Xây dựng môi trường vĩ mô ổn định, thuận lợi, các chính sách, luật lệ, quy chế rõ ràng và nhất quán, thực hiện nghiêm minh để mọi người yên tâm đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Đơn giản hoá các thủ tục hnàh chính trong việc xin phép đầu tư, đăng ký kinh doanh, thuê đất... quy hoach xây dựng sẵn nhữngcơ sở hạ tàng cần thiết và những quy chế quản lý hành chính – kinh tế thích hợp ở những địa bàn chọn lọc để thu hút nhanh đầu tư trong và ngoài nước, hinh thành những khu, cụm công nghiệp ở từng vùng, từng địa phương. Cải cách hệ thông thuế, tiếp tục xoá bao cấp, bù lỗ cho những hàng hoá dịch vụ như: điện, nước, xăng dầu..., tưng thu giảm chi tiến tới cân bằng thu chi. Tích cực xây dựng thị trường vốn. Phát triển các hình thức huy động vốn bằng góp cổ phần, bán cổ phiếu trái phiếu cho người đầu tư trong nước, thí điểm bán một phần ra thị trường vôn quốc tế, từng bước hình thành thị trường chứng khoán. ưu tiên cho đầu tư trực tiếp, nhất là từnhững công ty đa quốc gia, xuyên quốc gia có tầm cỡ trên thế giới để tranh thủ chuyển giao công nghệ hiện đại, kyc năng quản lý điều hành tiên tiến, mở lối thâm nhập vào thị trường khu vực và quốc tế. Quy định chặt chẽ về vay vốn và trả nợ, kể cả vay trong nước và ngoài nước. Đối với các doanh nghiệp, áp dụng cơ chế tự ay , tự trả. Nhà nước có thể dành một phần vốn vay làm nguồn tín dụng đầu tư trong nước, nhưng cần làm có trọng điểm và đều phải bảo đảm trả được nợ. b. Chính sách các thành phần kinh tế Kinh tế nhà nước trước hết là doanh nghiệp nhà nước phải củng cố đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả để phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Ban hành luật doanh nghiệp nhà nước, luật hợp tác xã. thực hiện từng bước việc cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước. Hình thành một số tổ chức kinh tế lớn, với mức tích tụ, tập trung cao về vốn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường thé giới. Nhà nước thông qua luật pháp và các chính sách tạo môi trường thuận lợi hơn nữa cho tư nhân yên tâm bỏ vốn đầu tư vào sản xuất. c. Chính sách thị trường Nghiên cứu, thăm dò, dự báo, thông tin kịp thời về thị trường ngoài nước và các đối tác. Đổi mới cơ cấu xuất khẩu, tạo ra những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn theo hướng khai thác các lợi thế so sánh nhất là lợi thế về nguồn nhân lực. Cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu, nhất là về cấp cô-ta, giấy phép. Tổ chức tôt việc thu thập và cung cấp thông tinh kinh tế, thị trường cho các cơ quan và doanh nghiệp trong nước. Mở rộng thị trường, hình thành các trung tâm thương mại phù hợp để phục vụ đắc lực công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá. Lập lại trật tự trên thị trường, hướng dẫn các thành phần thương nghiệp phát triển đúng hướng, đúng pháp luật và cạnh tranh lành mạnh. Thực hiện chính sách bảo hộ sản xuất trong nước chủ yếu bằng cách tạo điều kiện và thúc đẩy các cơ sở cản xuất vươn lên cạnh tranh được với hàng ngoại nhập trên thị trường. II. Thực trạng các doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay: 1. Thực trạng hoạt động doanh nghiệp Doanh nghiệp nhà nước (DNNN) DNNN là tổ chức kinh tế do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của nhà nước. Sự hình thành và phát triển các DNNN ở Việt Nam đã có lịch sử hơn 40 năm. trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp, sự ra đời hàng loạt các DNNN, việc thực hiện chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư nhân với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp đã làm cho nền kinh tế dần dần trở thành moọt "công trường thống nhất" nhưng thiếu sức sống, kém năng động, linh hoạt, hiệu quả kinh tế rất thấp. Đầu những năm 80 là thời kỳ tìm tòi, lý giải những vấn đề kinh tế. Hiện thực đời sốngcho thấy, nền kinh tế đã suy thoái các mâu thuẫn xuất hiện ở mọi nơi mọi chỗ trong khu vực kinh tế quốc doanh và tập thể. Những quan điểm giáo điều về cải tạo XHCN đã cản trở những tìm tòi đổi mới kinh tế mói chung đổi mới DNNN nói riêng. Các cuộc cải cách giá tiền lương(85 – 86) đã làm bộc lộ rõ tính bất hợp lý và sự yếu kém của cơ cấu và cơ chế kinh tế ở nước ta. Nhận thức được sai lầm, trong đổi mới kinh tế cùng với chủ trương phát triển nhiều thành phần kinh tế Đảng đã đặt vấn đề phải nhanh chóng tổ chức, sắp xếp lại khu vực kinh tế quốc doanh và đổi mới quản lý các DNNN nhằm phát huy vai trò của kinh tế quốc doanh trong nền kinh tế nhiều thành phần. Nghị định 338/HĐBT đã góp phần thực hiện tốt việc sắp xếp lại các DNNN và đã thu được một số kết quả đáng khích lệ. Sau 3 năm số DNNN đã giảm từ 12296 xuống còn 6300 doanh nghiệp giảm 48,7%. Số DNNN giải thể hoặc chuyển hình thức sở hữu tăng, số doanh nghiệp sát nhập lại với nhau khoảng 4000. Vốn bình quân mỗi doanh nghiệp tăng từ 3,3 tỷ đông lên 9,5 tỷ đồng. Sau khi sắp xếp lại, nhiều doanh nghiệp đã ổn định tổ chức, nhanh chóng tìm ra hướng sản xuất kinh doanh mới, dần thích nghi với điều kiện kinh tếthì trường và ưúc tế hoá sản xuất. Mặc dù còn nhiều yếu kém trong quản lý kinh tế các DNNN đã cố găng vươn lên chiếm lĩnh thị trường, ổn định sản xuấtvà tăng cường tích luỹ vốn. Hàng năm các DNNN đã tạo ra 36,7% giá trị GDP, nộp ngân sách tăng bình quân 3 năm 1991 – 1993 là 48,2%. Các DNNN đóng vai trò chủ yếu trong các hoạt động xuất nhập khẩu của cả nước. Nhìn chung, ở nước ta hiện nay các DNNN không chỉ chủ động tích cực hơn trong cơ chế thị trường mà còn là lực lượng chiếm tỷ trọng áp đảo trong nền kinh tế nhiều thành phần. Trong tương lai tỷ trọng này có thể giảm xuống trong cơ cấu kinh tế quốc dân nhưng vai trò chủ đạo của nó vẫn sẽ được giữ vững và phát huy. b. Doanh nghiệp tư nhân và các loại hình doanh nghiệp khác: Từ năm 1996 trở lại đây nhò tác động tích cực của chủ trương chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần nên các doanh nghiệp vừa và nho bưóc sang giai đoạn phát triển mới. Đó là giai đoạn không chỉ có sự tăng lên về số lượng các doanh nghiệp và có sự cơ cấu lạivà phát triển gần thị trường hơn, hiệu quả sản xuất kinh doanh được nâng cao, vai trò vị trí của nó trong nền kinh tế quốc dân ngày càng đựoc khẳng định. Năm 1986 cả nước gần như không có doanh nghiệp tư nhân nào nhưng đến 12/1994 cả nước có 13772 doanh nghiệp tư nhân, 5120 công ty TNHH ... Các doanh nghiệp vừa và nhỏ mới ra đời nước ta từ 1986 đến nay phần

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50033.doc
Tài liệu liên quan