Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp có thể 100% vốn nước ngoài (một thành viên hoặc nhiều thành viên) có thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân của nước ta. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, góp phần phát triển kết cấu hạ tầng xã hội, nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ và tạo thêm việc làm cho người lao động.
Hoạt động đầu tư nước ngoài diễn biến khá sôi động trong năm 1998. Cuối năm 2000 cả nước có khoảng 3.000 dự án của hơn 700 doanh nghiệp thuộc 62 nước và lãnh thổ với tổng vốn đăng ký là 36 tỷ USD, vốn thực hiện 16,89 tỷ US (chưa tính đến liên doanh dầu khí Vietsovpetrol), hoạt động đầu tư nước ngoài đã nộp ngân sách 1,52 tỷ USD, tạo 21,6 tỷ USD hàng hoá xuất nhập khẩu, giải quyết việc làm cho 32 vạn lao động trực tiếp và 1 triệu lao động gián tiếp. FDI và ODA đã giải ngân là 7 tỷ USD và trở thành nguồn vốn lớn của nền kinh tế, đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển ổn định của các ngành sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Năm 1999, FDI tạo ra được 10,7% GDP; 25% giá trị xuất khẩu, góp phần quan trọng phát huy nội lực của toàn bộ nền kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia trong điều kiện hợp tác và mở cửa.
12 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1571 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nghiên cứu và áp dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hiệu quả lao động, nó thể hiện trình độ của người tổ chức, quản lý. Phân công lao động càng chặt chẽ, hợp lý thể hiện trình độ lực lượng sản xuất càng cao.
_Trình độ ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất:
Ngày nay, khoa học kĩ thuật đang từng bước trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, nhờ ứng dụng khoa học kĩ thuật mà năng suất lao động được tăng cao, sản phẩm dồi dào, sức lao động được giải phóng. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực để sản xuất phát triển. Một lực lượng sản xuất hiện đại không thể không đi kèm với tiến bộ khoa học kĩ thuật.
Trình độ của lực lượng sản xuất gắn liền với tính chất của nó, trình độ nào thì tính chất đó, không tách rời.Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, tính chất cũng như trình độ phát triển của lực lượng sản xuất phát triển từ thấp đến cao. Gắn liền với trình độ thủ công, nhỏ lẻ, phân công lao động kém phát triển là tính chất cá nhân của lực lượng sản xuất. Khi sản xuất đạt tới trình độ cơ giới hoá, tự động hoá, phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc thì lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá.
Mối quan hệ giữa người với người trong qúa trình sản xuất vật chất là quan hệ sản xuất. Cũng như lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất thuộc lĩnh vực đời sống vật chất xã hội. Tính chất của quan hệ sản xuất thể hiện ở chỗ chúng tồn tại khách quan độc lập với ý thức của con người.
Quan hệ sản xuất là quan hệ kinh tế cơ bản của một hình thái kinh tế-xã hội. Mỗi kiểu quan hệ sản xuất tiêu biểu cho bản chất của một hình thái kinh tế- xã hội nhất định.
Quan hệ sản xuất gồm những mặt cơ bản sau: quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý, quan hệ phân phối sản phẩm lao động.
Ba mặt nói trên có quan hệ hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất có ý nghĩa quyết định đối với tất cả các quan hệ khác. Bản chất của bất kỳ quan hệ sản xuất nào cũng đều phụ thuộc vào vấn đề những tư liệu sản xuất chủ yếu trong xã hội được giải quyết như thế nào.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra. Song nó được hình thành một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người.
Quan hệ sản xuất mang tính chất ổn định tương đối trong bản chất xã hội và tính phong phú đa dạng của các hình thức biểu hiện.
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng lẫn nhau, hình thành quy luật xã hội phổ biến của toàn bộ lịch sử loài người: quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất vạch rõ tính chất phụ thuộc khách quan của quan hệ sản xuất vào sự phát triển của lực lượng sản xuất. Đến lượt mình quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất thay đổi phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó làm cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển . Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phát triển đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ để hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất đang phát triển, phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới ra đời. Lực lượng sản xuất quy định sự hình thành, phát triển và biến đổi của quan hệ sản xuất. Lực lương sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, là nội dung của phương thức sản xuất.
Sự vận động,phát triển của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ sản xuất cho phù hợp với nó.Khi một phương thức sản xuất mới ra đời,khi đó quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất .Sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một trạng thái mà trong đó quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản xuất.Trong trạng thái đó,tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực lượng sản xuất phát triển.Điều đó có nghĩa là,nó tạo điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động với tư liệu sản xuất và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó. Sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng tạo nên một phương thức sản xuất xã hội tức là phương thức sản xuất chỉ tồn tại khi quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là sự phù hợp mang tính chất biện chứng, khách quan và được thể hiện thông qua những hoạt động lao động sản xuất vật chất của con người.
Như vậy, sản xuất muốn phát triển thì nhất định phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất.Khi đó,quan hệ sản xuất trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất ,kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển .Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển mới của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Cứ như vậy, quan hệ sản xuất mới này đến một lúc nào đó sẽ lại bị thay thế để lực lượng sản xuất phát triển hơn nữa, tiếp tục hình thành một phương thức sản xuất mới. Sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một đặc trưng phổ biến, tác động trong toàn bộ tiến trình lịch sử của nhân loại, theo đó, phương thức sản xuất cũ sẽ bị thay thế bởi phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn, đó cũng là con đường phát triển tự nhiên từ thấp đến cao của xã hội loài người.
Mặc dù lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất,nhưng quan hệ sản xuất cũng có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự hình thành, biến đổi và phát triển của quan hệ sản xuất phụ thuộc vào tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, nhưng quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển, nó tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất: có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất,tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất,đến tổ chức phân công lao động xã hội,đến phát triển và ứng dụng khoa học và công nghệ…và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.Ngược lại,quan hệ sản xuất lỗi thời lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất song tác dụng kìm hãm đó chỉ tạm thời theo tính tất yếu khách quan, cuối cùng nó sẽ bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất(thúc đẩy hoặc kìm hãm); vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng đến thái độ quảng đại quần chúng lao động- lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội; nó tạo ra những điều kiện kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động, áp dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuật vào sản xuất, hợp tác và phân phối lao động.
Tuy nhiên, không được hiểu một cách đơn giản tính tích cực của quan hệ sản xuất chỉ là vai trò của những hình thức sở hữu, mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một hệ thống, một chỉnh thể hưu cơ gồm ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó, quan hệ sản xuất mới trở thành động lực, thúc đẩy con người hành động nhằm phát triển sản xuất.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội, sự tác động của quy luật này, đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất: Công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa.
Nhiệm vụ của con người là phải phát hiện ra những yếu tố không phù hợp tức là phát hiện ra mâu thuẫn và giải quyết những mâu thuẫn đó.
Việc giải quyết mâu thuẫn này không phải đơn giản, nó phải thông qua hoạt động nhận thức và cải tạo xã hội của loài người, phải đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, phương thức phân phối, ứng dụng khoa học kĩ thuật vào sản xuất,trong xã hội có giai cấp, muốn giai cấp thống trị lạc hậu, phản động chịu từ bỏ địa vị thống trị của mình, muốn thay đổi một quan hệ sản xuất nhất thiết phải có đấu tranh giai cấp, phải thông qua cách mạng xã hội. Kết quả là một hình thái kinh tế xã hội tiến bộ, ưu việt hơn ra đời. Lịch sử loài người thực tế đã trải qua những bước phát triển như vậy, từ chế độ cộng sản nguyên thuỷ, sang chế độ chiếm hữu nô lệ rồi chế độ phong kiến, tư bản chủ nghĩa và trong tương lai là chế độ cộng sản chủ nghĩa. Các hình thái kinh tế xã hội thay thế lẫn nhau, ngày càng văn minh, tiến bộ hơn, đó là một quá trình lịch sử tự nhiên do các quy luật xã hội chi phối trong đó cơ bản nhất là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Trong thời đại ngày nay, lực lượng sản xuất đã được quốc tế hóa đòi hỏi chúng ta vận dụng sáng tạo phép biện chứng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, chống những tư tưởng bảo thư trì trệ, giáo điều hay chủ quan duy ý chí trong xây dựng kinh tế.
2.Phân tích tính tất yếu của quá trình phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kì quá độ ở Việt Nam:
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã được vận dụng sáng tạo ở nước ta trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, thời kì đổi mới. Chúng ta đang đi trên con đường quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Có thể nói, đây là một thới kì cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội thì tất yếu phải trải qua thời kì quá độ để xây dựng những yếu tố mà trong lòng những xã hội cũ còn áp bức bất công chưa có như chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, người lao động là người làm chủ xã hội, phân phối theo lao động v.v…"Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kì quá độ là một tất yếu khách quan và độ dài của thời kì đó phụ thuộc vào điều kiện chính trị, kinh tế, xã hội của mỗi nước. Thời kì quá độ ở nước ta, do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa , đương nhiên phải lâu dài và rất khó khăn. Đó là một thời kì cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện nhằm xây dựng từ đầu một chế độ xã hội mới cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng." [ Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t.47, tr.374]
Xã hội loài người đã trải qua hai kiểu kinh tế xã hội là kinh tế tự nhiên,tự cấp, tự túc và kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá là nền kinh tế mà ở đó, sản phẩm được sản xuất ra để trao đổi, mua bán thông qua thị truờng.
Kinh tế hàng hóa ưu việt hơn kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc vì nó là một nền kinh tế mở dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội và diễn ra trong môi trường cạnh tranh nên nó thúc đẩy áp dụng khoa học kĩ thuật, nâng cao năng suất lao động, đáp ứng rộng rãi nhu cầu nguời tiêu dùng.
Đặc điểm kinh tế cơ bản của thời kì quá độ là tồn tại nhiều thành phần kinh tế.Mỗi thành phần kinh tế được hình thành và có cơ cấu riêng biệt,chúng ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình phát triển của nước ta. Theo văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cộng sản năm 2006, các thành phần kinh tế ở Việt Nam gồm có:kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong đó kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.Chúng ta sẽ nghiên cứu về từng thành phần kinh tế cụ thể:
_Kinh tế nhà nước:
Là thành phần kinh tế dựa trên chế độ sở hữu công cộng(công hữu) về tư liệu sản xuất(sở hữu toàn dân và sở hữu nhà nước).Kinh tế nhà nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước và các tài sản thuộc sở hữu nhà nước có thể đưa vào vòng chu chuyển kinh tế. Trong cơ cấu kinh tế ở nước ta, kinh tế Nhà nước nắm vai trò chủ đạo, tạo môi trường, điều kiên thuận lợi thúc đẩy các thành phần kinh tế phát triển, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, cùng với kinh tế tập thể trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
Sau một quá trình sắp xếp lại, từ năm 1986 đến nay, các doanh nghiệp Nhà nước đã giảm 55 % số lượng doanh nghiệp, hiện còn 5.700 doanh nghiệp hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp độc lập, doanh nghiệp trực thuộc các Tổng Công ty 90 , Tổng Công ty 91. Năm 2000, doanh nghiệp Nhà nước có vốn dưới 1tỷ chiếm 25 %, trên 10 tỷ chiếm 20 %, đóng góp 40 % tổng nộp Ngân sách và trên 50 % kinh nghạch xuất khẩu của cả nước. Tỷ lệ đóng góp của doanh nghiệp Nhà nước trong Tổng sản phẩm quốc nội ( GDP ) tăng từ 36,5 % đến 40,2 %, tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước tăng 6,8 % ( 1993 ) đến 12 % ( 2000 ).
_Kinh tế tập thể:
Là thành phần kinh tế bao gồm những cơ sở kinh tế do người lao động tự nguyện góp vốn,cùng kinh doanh,tự quản lí theo nguyên tắc tập trung bình đẳng cùng có lợi. Kinh tế tập thể được phát triển dưới nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ tổ nhóm hợp tác đến hợp tác xã bậc thấp, hợp tác xã bậc cao.
Trong thời gian từ năm 1986 đến năm 1996 đã giải thể 3.623 Hợp tác xã và 37. 787 Tập đoàn sản xuất nông nghiệp, hơn 42.000 Hợp tác xã Tiểu thủ công nghiệp . Năm 1996 là thời điểm kết thúc mô hình Hợp tác xã kiểu cũ, chuyển sang thời kỳ xây dựng và phát triển Hợp tác xã theo mô hình mới, đánh dấu bằng việc ban hành Luật Hợp tác xã tháng 3 năm 1996 ( có hiệu lực từ tháng 1 năm 1997 ).
_Kinh tế tư nhân:
Kinh tế tư nhân, dựa trên sở hữu tư nhân, bao gồm kinh tế cá thể, kinh tế tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân ( tồn tại dưới các hình thức doanh nghiệp tư nhân công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần không có vốn nhà nước, công ty hợp doanh).Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế nước ta trong thời kì quá độ, có những đóng góp không thể phủ nhận trong sự thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước.
Năm 1991, ở Việt Nam có 122 doanh nghiệp Tư bản, Công ty Cổ phần, Công ty Trách nhiệm hữu hạn. Năm 1993, sau khi ban hành Nghị định 60/ HĐBT đã có khoảng 900.000 cá nhân, nhóm kinh doanh được cấp đăng ký theo loại hình đơn vị có vốn dưới mức pháp định. Cuối năm 2001 có hơn 30.000 doanh nghiệp Tư nhân được thành lập theo Luật Doanh nghiệp.
_Kinh tế tư bản nhà nước:
Là thành phần kinh tế bao gồm các hình thức liên doanh liên kết giữa kinh tế nhà nước với tư bản tư nhân trong và ngoài nước,mang lại lợi ích thiết thực cho các bên đầu tư kinh doanh. Kinh tế tư bản nhà nước có vị trí quan trọng trong việc động viên tiềm lực to lớn về vốn, kĩ thuật công nghệ, khả năng tổ chức quản lý tiên tiến của các nước phát triển vào sự nghiệp xây dựng đất nước. phát triển kinh tế tư bản nhà nước là nhằm phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, phục vụ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
_Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm các doanh nghiệp có thể 100% vốn nước ngoài (một thành viên hoặc nhiều thành viên) có thể liên kết, liên doanh với doanh nghiệp nhà nước hoặc doanh nghiệp tư nhân của nước ta. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận của nền kinh tế Việt Nam, góp phần phát triển kết cấu hạ tầng xã hội, nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ và tạo thêm việc làm cho người lao động.
Hoạt động đầu tư nước ngoài diễn biến khá sôi động trong năm 1998. Cuối năm 2000 cả nước có khoảng 3.000 dự án của hơn 700 doanh nghiệp thuộc 62 nước và lãnh thổ với tổng vốn đăng ký là 36 tỷ USD, vốn thực hiện 16,89 tỷ US (chưa tính đến liên doanh dầu khí Vietsovpetrol), hoạt động đầu tư nước ngoài đã nộp ngân sách 1,52 tỷ USD, tạo 21,6 tỷ USD hàng hoá xuất nhập khẩu, giải quyết việc làm cho 32 vạn lao động trực tiếp và 1 triệu lao động gián tiếp. FDI và ODA đã giải ngân là 7 tỷ USD và trở thành nguồn vốn lớn của nền kinh tế, đảm bảo cho sự tăng trưởng và phát triển ổn định của các ngành sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Năm 1999, FDI tạo ra được 10,7% GDP; 25% giá trị xuất khẩu, góp phần quan trọng phát huy nội lực của toàn bộ nền kinh tế, bảo vệ chủ quyền quốc gia trong điều kiện hợp tác và mở cửa.
Các thành phần kinh tế cùng tồn tại trong thời kì quá độ có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần không phải là tổng số cơ học của các thành phần kinh tế và trong mỗi thành phần kinh tế luôn có sự biến đổi, phát triển từ tấp đến cao.Các thành phần kinh tế có tính chất và kết cấu khác nhau nhưng đều tác động mãnh mẽ đến kinh tế nước ta.Nhìn chung đó là các tác động mang tính tích cực và đã đem lại những thành tựu nhất định,góp phần đẩy mạnh nền kinh tế nước nhà trong thời kì này.Một trong những đóng góp lớn lao nhất của kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là giúp nước ta có khả năng khai thác, huy động và sử dụng có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế trong nước, tận dụng vốn và công nghệ của nước ngoài.Chính điều đó đã làm cho chúng ta tận dụng được tất cả tiềm năng cả trong và ngoài nước,sử dụng hiệu quả vốn đầu tư.Bên cạnh đó,nước ta là một nước đông dân nên số lao động vô cùng lớn,thậm chí có thể nói là dư thừa.Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã góp phần giải quyết phần lớn công ăn việc làm cho nhân dân, phát triển làng nghề truyền thống, tận dụng vốn và nhân công nhàn rỗi có hiệu quả, phát huy thế mạnh vốn có của con người Việt Nam, đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất.Một xã hội chỉ thực sự phát triển khi biết sử dụng hiệu quả nhân tố con người và nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã giải quyết được vấn đè đó.Mặt khác,việc nước ta hình thành nhiều thành phần kinh tế đã tạo ra sự đa dạng về quy mô và trình độ kỹ thuật phù hợp với hiện trạng về cơ sở vật chất và trình độ kỹ thuật của nước ta.Nước ta là một nước đang phát triển nên trình độ kĩ thuật là một yếu tố thiết yếu,đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng một nền kinh tế vững mạnh.Trình độ kĩ thuật và quy mô sản xuất đã được cải thiện rõ rệt khi nước ta tao được sự liên kêt, liên doanh với nước ngoài với chiều nhiều hướng có lợi.Thông qua các thành phần kinh tế chúng ta đã phần nào thực hiện được chính sách mở cửa kể từ sau khi độc lập,đóng vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới.Tất cả các tác động tích cực trên đều nhằm cải thiện đời sống nhân dân và giúp nước ta vững chắc trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đạt được, việc thi hành chính sách kinh tế nhiều thành phần cũng nảy sinh ra những yếu tố tiêu cực như tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, tệ nạn hàng giả, trốn thuế, buôn lậu, tham nhũng đang là những vấn đề nhức nhối cần giải quyết. Những yếu tố tiêu cực phát sinh đó được cộng hưởng với chiến lược "Diễn biến hoà bình" của các thế lực đế quốc hòng tiêu diệt chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam tạo nên nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa rất đáng lo ngại.
Tuy nhiên, kết quả thực tế từ công cuộc đổi mới từ 15 năm đã cho thấy mặt tích cực của cơ chế kinh tế nhiều thành phần là rất to lớn. Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu đã trở thành một nước có nền kinh tế tăng trưởng vững chắc với tốc độ tăng trưởng cao. Tốc độ tăng trưởng GDP từ năm 1991 - 1996 là 8,4 %; năm 1997 là 8,8%; thu nhập đầu người tăng 5,2% năm. Lạm phát giảm từ 800% ( năm ) xuống 2,1 % ( năm ) và năm 2000 là 0 %. Tích luỹ trong nước tăng 5 lần so với GDP từ 3 % lên 17 % của GDP ( năm ) . Đầu tư tăng gấp ba lần, từ 11,6 % của GDP năm 1989 đến 28 % của GDP năm 1996. Sản lượng nông nghiệp tăng 2 lần, Việt Nam trở thành một trong ba nước xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Trong 5 năm ( 1991 - 1995 ), hàng năm , nông nghiệp tăng 4,5 % , công nghiệp tăng 13,5 %, xuất khẩu tăng 20 %, đời sống nhân dân được cải thiện, tỉ lệ nghèo giảm 35 % trong vòng 10 năm từ năm 1986.
Với sự đổi mới về cơ chế quản lý từ năm 1986, nền kinh tế đất nước có những bước phát triển mạnh mẽ, thực tiễn đã chứng minh, phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một chính sách đúng đắn, nó là một tất yếu khách quan bắt nguồn từ việc vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.Tính khách quan được biểu hiện thông các mặt sau đây:
_Khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền, tiếp quản nền kinh tế chủ yếu dựa trên chế độ tư hữu về Tư liệu sản xuất. Thực tế có hai loại tư hữu lớn gồm có nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, . . . của các chủ tư bản trong và ngoài nước - đó là kinh tế Tư bản chủ nghĩa; Tư hữu nhỏ gồm nông dân, buôn bán nhỏ - đó là sản xuất nhỏ cá thể.
Thái độ của chính quyền mới đối với hai loại tư hữu trên là khác nhau. Đối với tư hữu lớn - kinh tế tư bản tư nhân chỉ có phương pháp duy nhất là quốc hữu hoá. Đối với tư hữu nhỏ thì có con đường hợp tác hoá theo các nguyên tắc mà V. I . Lênin đã vạch ra là tự nguyện, quản lý dân chủ, cùng có lợi, . . . đồng thời tuân theo quy luật khách quan.
_Sự phát triển kinh tế mỗi quốc gia do đặc điểm lịch sử, điều kiện chủ quan, khách quan, nên tất yếu có sự phát triển không đồng đều giữa Lực lượng sản xuất và các ngành ,vùng, doanh ngiệp . . . . Chính sự phát triển không đồng đều đó quy định Quan hệ sản xuất, trước hết là hình thức, quy mô và Quan hệ sở hữu phải phù hợp với nó, nghĩa là tồn tại Quan hệ sản xuất không giống nhau đó là cơ sở hình thành các thành phần kinh tế khác nhau.
_Để phát triển kinh tế, củng cố Kinh tế - Chính trị - Xã hội, Nhà nước xây dựng những cơ sở kinh tế mới, hình thành thành phần kinh tế Nhà nước. Mặt khác, trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế thông qua hợp tác và đầu tư nước ngoài, Nhà nước cùng các nhà Tư bản, công ty trong và ngoài nước hình thành kinh tế Tư bản Nhà nước.
_Bước vào thời kì quá độ,nền kinh tế nước ta còn ở trình độ kém phát triển,lực lượng sản xuất tồn tại ở nhiều thang bậc khác nhau,do đó chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất sẽ có nhiều hình thức,tức là nền kinh tế có nhiều thành phần.Các thành phần kinh tế không tồn tại biệt lập với nhau mà có quan hệ hữu cơ với nhau,tạo thành cơ cấu kinh tế.
_Một số thành phần kinh tế do xã hội cũ để lại ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.Các thành phần kinh tế này vẫn có vai trò quan trọng để phát triển kinh tế,có lợi ích cho đất nước trong việc giải quyết việc làm,tăng sản phẩm,huy động các nguồn vốn…
_Một số thành phần kinh tế mới xuất hiện trong quá trình cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội như kinh tế nhà nước,kinh tế tập thể,kinh tế tư bản nhà nước.
Các thành phần kinh tế cũ và mới tồn tại khách quan và có quan hệ với nhau,tạo thành cơ cấu kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần không những tồn tại khách quan mà còn có vai trò to lớn trong thời kì quá độ ở Việt Nam.
Để đạt được Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, điều quan trọng là phải có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản kiên định, sáng tạo, cách mạng. Sau đó là hệ thống chính trị phù hợp mà hạt nhân của nó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.Vai trò của Đảng và nhà nước là yếu tố không thể thiếu trong công cuộc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần:
Vận dụng quy luật quan h ệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất , " Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa"
Đảng Cộng sản Việt Nam với truyền thống cách mạng được nhân dân tín nhiệm đã trở thành thế lực nắm quyền lãnh đạo đất nước. Đảng lãnh đạo, trước hết là xác định mục tiêu chính trị, định hướng cho sự phát triển xã hội bằng cương lĩnh, đường lối, chiến lược, bằng nguyên tắc và chính sách lớn, bằng công tác tổ chức cán bộ, kiểm tra cán bộ trong việc thực hiện đường lối của đảng.
Yêu cầu của sự phát triển kinh tế nhiều thành phần theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa đòi hỏi Đảng phải có bản lĩnh vững vàng, có trí tuệ, năng động, sáng tạo.
Vấn đề đặt ra là phải tiếp tục đổi mới lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, với xã hội mà khâu quan trọng là đối với Nhà nước và nâng cao phẩm chất Đảng viên trong cơ chế thị trường.
Một Nhà nước của nhân dân vững mạnh, trong sạch, quản lý kinh tế xã hội ngày càng có hiệu quả. Sự hình thành và phát triển Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa không thể thiếu vai trò bà đỡ, khởi xướng và nuôi dưỡng của Nhà nước. Vai trò quản lý của Nhà nước càng trở nên cực kỳ quan trọng với các chức năng sau:
+) Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát triển.
+) Khởi xướng, hướng dẫn và hỗ trợ nỗ lực phát triển thông qua các công cụ như P
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35744.doc