Tiểu luận Nghiên cứu về cơ sở Triết học về quan điểm của Đảng ta: Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay

Tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực hiện nghiêm minh pháp luật, đáp ứng yêu cầu của với nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hợp tác hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ Quốc trong tình hình mới.

Hướng đến hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của toàn xã hội, nhất là cho tổ chức, hoạt động của nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước, đồng thời có chuẩn mực rõ ràng để đánh giá đúng sai, tăng cường pháp chế trong đời sống nhà nước và xã hội. Một mặt coi trọng hoàn thiện Hiến pháp, các luật điều chỉnh tất cả các lĩnh vực hoạt động của nhà nước và xã hội, mặt khác phải xác định được thứ tự ưu tiên cần thiết và nâng cao tính khả thi, tính hiệu lực và hiệu quả của pháp luật trong cuộc sống. Đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật. Pháp luật về tổ chức hoạt động của nhà nước phải đi liền với pháp luật về phát triển kinh tế, pháp luật về bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, pháp luật về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Pháp luật nội dung phải đi liền với pháp luật hình thức. Pháp luật phải gắn liền với đảm bảo thực hiện pháp luật nghiêm minh. Hoạt động lập pháp muốn vậy phải vừa đảm bảo chất lượng vừa phải theo kịp yêu cầu của sự phát triển. Mặt khác phải đẩy mạnh các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, mở rộng các hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật, dịch vụ và tư vấn pháp lý trong xã hội, xây dựng nếp sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, xây dựng nền văn hoá pháp lý trong đời sống xã hội.

 

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3193 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nghiên cứu về cơ sở Triết học về quan điểm của Đảng ta: Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nam thực sự là nhà nước của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đoàn kết dân tộc mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân - nông dân - trí thức do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đó là, Nhà nước đảm bảo tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà  nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đó là, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tăng cường pháp chế, xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi vi phạm pháp luật nhằm thực hiện và bảo vệ được các quyền tự do dân chủ và lợi ích hợp pháp của nhân dân, ngăn ngừa sự tuỳ tiện từ phía cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức nhà nước, ngăn ngừa hiện tượng dân chủ cực đoan, vô kỷ luật, kỷ cương, bảo đảm hiệu lực và hiệu quả hoạt động của nhà nước. Đó là, Nhà nước mà mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức, kể cả tổ chức Đảng, cán bộ, công chức đều phải hoạt động theo pháp luật, tuân thủ pháp luật, chịu trách nhiệm trước nhân dân về các hoạt động của mình. Mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Trong tình hình mới của cách mạng Việt nam, Đảng và nhà nước ta đó sáng suốt khẳng định nhiệm vụ cốt lõi của cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế là xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Nói cách khác việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam là một tất yếu khách quan. Nhận thức này được coi là một thắng lợi của quá trình đổi mới trong tiến trình xây dựng nhà nước XHCN ở nước ta. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là cách thức cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhà nước pháp quyền XHCN Việt nam là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền lực nhân dân. Hiến pháp 1992 khẳng định: Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dõn. Trong thực tế, qua hơn 20 năm đổi mới, thực tiễn đó chứng minh quỏ trình cải cách tổ chức, hoạt động của nhà nước theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn. Đây phải được coi là thành công quan trọng đầu tiên của thực trạng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta. Quá trinh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam gắn liền với quá trình phỏt triển lý luận về nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Ngay từ khi ra đời Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và nay là Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đó là Nhà nước mang bản chất của nhà nước kiểu mới được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tính pháp quyền trong tổ chức, hoạt động của nhà nước đó thể hiện trong nhiều văn kiện Đảng và thể hiện ngày càng rõ rệt hơn phù hợp với từng giai đoạn cách mạng trong các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980. Bản chất này của nhà nước tiếp tục được khẳng định trong các Cương lĩnh, các văn kiện của Đảng trong thời kỳ đổi mới, được thể chế hoá rõ trong Hiến pháp 1992 và Nghị quyết sửa đổi bổ sung Hiến pháp 1992. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam đòi hỏi phải dựa trên hệ thống lý luận phù hợp với chính điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam. Tư tưởng về xây dựng Nhà nước pháp quyền trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt Nam, trong các bản Hiến pháp thể hiện quá trình nhận thức ngày càng đúng đắn, đầy đủ, cụ thể và toàn diện hơn của Đảng, Nhà nước ta về tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử nhân loại cũng như vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản ở nước ta hiện nay. Những nhận thức cơ bản này là một đảm bảo quan trọng cho quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam đạt được kết quả thắng lợi. Ngay từ lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh trên cơ sở kế thừa và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin vào điều kiện hoàn cảnh nước ta. Người đã khẳng định: Nhà nước ta là một nhà nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích là vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử. Tư tưởng về xây dựng nhà nước kiểu mới của dân, do dân và vì dân ngày càng được thể hiện rõ rệt trong các văn kiện của Đảng cộng sản Việt nam, trong các bản Hiến pháp qua các thời kỳ. Tuy nhiên, xét về thời điểm sử dụng thuật ngữ, lần đầu tiên Văn kiện của Đảng sử dụng thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” là Văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII. Tại phần thứ 2 về “Những nhiệm vụ chủ yếu trong thời gian tới” của Văn kiện hội nghị này đó nêu nhiệm vụ thứ 7 là “Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt nam của dân, do dân và vì dân” . Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước pháp quyền XHCN được xây dựng trên cở sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng lãnh đạo. Văn kiện Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khoá VII (1/ 1995) đó nêu ra 5 quan điểm cơ bản cần nắm vững trong quá trình xây dựng kiện toàn nhà nước; một trong 5 quan điểm là xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với gia cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng do Đảng cộng sản lãnh đạo. Gắn xây dựng nhà nước pháp quyền với tăng cường pháp chế XHCN; quản lý xã hội bằng pháp luật đồng thời coi trọng giáo dục đạo đức XHCN. Văn kiện đại hội lần thứ VIII tiếp tục nhắc lại 5 quan điểm và các nhiệm vụ xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước. Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 ban chấp hành TƯ khoá VIII về “phát huy quyền làm chủ của nhân dân tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam trong sạch, vững mạnh” khi đánh giá đã nêu nhận xét đầu tiên là: đó từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên tắc cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Mặt khác khi phân tích nguyên nhân yếu kém trong xây dựng nhà nước, Nghị quyết chỉ rõ: việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện chuyển đổi nền kinh tế là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa làm vừa tìm tòi rút kinh nghiệm. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX khẳng định: Nhà nước ta là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức, cán bộ, công chức, mọi công dân đều có nghĩa vụ chấp hành Hiến pháp và pháp luật. Mặt khác Văn kiện cũng xác định: Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản là nhiệm vụ số một, nhiệm vụ bao trùm, chi phối các nhiệm vụ khác trong nội dung phần thứ IX về “đẩy mạnh cải cách tổ chức, hoạt động của Nhà nước...”. Như vậy, Văn kiện Đại hội IX của Đảng tiếp tục khẳng định rõ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là vấn đề tất yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đồng thời đúc kết tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong quá trình nhận thức, vận dụng và bổ sung vào thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Trong thời gian qua, công tác xây dựng pháp luật được quan tâm hơn, cơ chế xây dựng pháp luật được đổi mới, do đó hệ thống pháp luật đó có những đổi mới quan trọng phù hợp với sự thay đổi cơ chế kinh tế, với tình hình và nhiệm vụ mới của thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế. Hiến pháp được sửa đổi thích ứng với đòi hỏi của tình hình. Các văn bản luật được quan tâm ban hành để điều chỉnh cho hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Hệ thống pháp luật phát triển khá cân đối, điều chỉnh cho các lĩnh vực: tổ chức, hoạt động của nhà nước (Luật Hiến pháp, Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Toà án, Viện kiểm sát...); trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc; trong lĩnh vực kinh doanh (Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư, Luật kinh doanh bảo hiểm...); trong bảo vệ quyền của công dân và các chủ thể... Hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật được tăng cường. Nhà nước đó dần thực sự dựa vào phỏp luật để quản lý nhà nước và quản lý xã hội. Quan điểm chỉ đạo quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN không phải là xây dựng một Nhà nước mới khác về bản chất của Nhà nước XHCN mà Đảng và nhân dân ta đó tiến hành hơn mấy chục năm qua. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân là nhiệm vụ cốt lõi của cải cách tổ chức, hoạt động của nhà nước, là cách cơ bản để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm mọi quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt nam chính là quá trình tiếp tục xây dựng Nhà nước XHCN trong điều kiện hoàn cảnh mới. Dựa trên các văn kiện của Đảng, các quy định của Hiến pháp, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản sau: Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải được thực hiện trên cơ sở nắm vững những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh xây dựng đất nước và các văn kiện của Đảng ta. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam nhưng phải giữ vững bản chất giai cấp, bản chất dân chủ thực sự rộng rãi của Nhà nước XHCN. Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải đảm bảo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, phù hợp với đặc điểm truyền thống về lịch sử, văn hoá Việt Nam, có bản sắc Việt Nam; đảm bảo kế thừa và phát huy truyền thống, kinh nghiệm quản lý đất nước của dân tộc ta qua suốt chiều dài lịch sử, tiếp thu có chọn lọc thành tựu của thế giới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải trở thành yêu cầu cấp bách đối với toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Nói cách khác bất cứ nội dung nào của cải cách tổ chức, hoạt động của nhà nước đều phải thấm nhuần yêu cầu và định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. Xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam là một quá trình từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến ngày càng hoàn thiện, phải tiến hành từng bước vững chắc, phải dựa trên cơ sở thường xuyên tổng kết thực tiễn, kịp thời điều chỉnh bổ sung. Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN gắn liền với quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, phát triển nền dân chủ xã hội XHCN và tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị. Phải chuẩn bị các điều kiện cần thiết và phải đảm bảo ổn định chính trị, ổn định kinh tế-xã hội, ngăn chặn được âm mưu và hành động của các thế lực thù địch và bọn cơ hội. Nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN: Tiếp tục xây dựng hệ thống pháp luật, hoàn thiện hệ thống pháp luật và thực hiện nghiêm minh pháp luật, đáp ứng yêu cầu của với nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hợp tác hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ Quốc trong tình hình mới. Hướng đến hệ thống pháp luật đồng bộ, hoàn thiện tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động của toàn xã hội, nhất là cho tổ chức, hoạt động của nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước, đồng thời có chuẩn mực rõ ràng để đánh giá đúng sai, tăng cường pháp chế trong đời sống nhà nước và xã hội. Một mặt coi trọng hoàn thiện Hiến pháp, các luật điều chỉnh tất cả các lĩnh vực hoạt động của nhà nước và xã hội, mặt khác phải xác định được thứ tự ưu tiên cần thiết và nâng cao tính khả thi, tính hiệu lực và hiệu quả của pháp luật trong cuộc sống. Đảm bảo tính đồng bộ và thống nhất của hệ thống pháp luật. Pháp luật về tổ chức hoạt động của nhà nước phải đi liền với pháp luật về phát triển kinh tế, pháp luật về bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, pháp luật về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Pháp luật nội dung phải đi liền với pháp luật hình thức. Pháp luật phải gắn liền với đảm bảo thực hiện pháp luật nghiêm minh. Hoạt động lập pháp muốn vậy phải vừa đảm bảo chất lượng vừa phải theo kịp yêu cầu của sự phát triển. Mặt khác phải đẩy mạnh các hoạt động tổ chức thực hiện pháp luật, mở rộng các hoạt động tuyên truyền giáo dục pháp luật, dịch vụ và tư vấn pháp lý trong xã hội, xây dựng nếp sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật, xây dựng nền văn hoá pháp lý trong đời sống xã hội. Tiếp cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước. Kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường công tác lập pháp, xây dựng chương trình dài hạn về lập pháp, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật, hướng dẫn thi hành luật. Quốc hội phải làm tốt chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước. Đẩy mạnh cải cách hành chính. Xây dựng nền hành chính nhà nước dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại hoá. Điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức hoạt động của Chính phủ theo hướng thống nhất quản lý vĩ mô việc thực hiện các nhiệm vụ trong cả nước bằng hệ thống pháp luật, chính sách hoàn chỉnh. Định rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ theo hướng quản lý đa ngành, đa lĩnh vực trên phạm vi toàn quốc, cung cấp dịch vụ công. Phân công, phân cấp nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý theo ngành và theo lãnh thổ; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; tổ chức hợp lý hội đồng nhân dân; kiện toàn các cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân và bộ máy chính quyền cấp cơ sở. Đẩy mạnh cải cách tư pháp, xây dựng một nền tư pháp trong sạch, công tâm, khách quan, độc lập trong hoạt động nghiệp vụ đồng thời chịu sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ của cơ quan có thẩm quyền. Cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Sắp xếp lại hệ thống toà án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền của tòa án các cấp. Tổ chức lại cơ quan điều tra theo hướng gọn đầu mối. Thành lập cảnh sát tư pháp. Phát huy dân chủ, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế. Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu hội đồng nhân dân, hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn đại biểu, các quy định về bầu cử, ứng cử trên cơ sở thật sự phát huy dân chủ. Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, thảo luận quyết định những vấn đề quan trọng. Chăm lo con người, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của con người. Tôn trọng các cam kết quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đó ký kết hoặc tham gia. Quan tâm giải quyết kịp thời  khiếu nại, tố cáo của công dân. Phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức chấp hành pháp luật. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực. Hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế cán bộ, coi trọng cả năng lực và đạo đức. Có kế hoạch, chính sách đào tạo cán bộ, công chức và sắp xếp đội ngũ cán bộ công chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn. Định kỳ kiểm tra, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức, kịp thời thay thế cán bộ, công chức thoái hoá, yếu kém. Tăng cường cán bộ cho cơ sở. Có chế độ, chính sách đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ đối với cán bộ xã, phường, thị trấn. Đấu tranh chống tham nhũng. Tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở. Gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, chống buôn lậu. Bổ sung hoàn thiện các cơ chế chính sách, không để sở hở, lợi dụng. Xoá bỏ các thủ tục hành chính phiền hà. Tăng cường kiểm tra, thanh tra, kiểm kê, kiểm soát. Cải cách cơ bản chế độ tiền lương nâng cao đời sống, chống đặc quyền đặc lợi. Phát huy vai trò của đảng viên, tổ chức đảng, mặt trận tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin đại chúng và toàn xã hội trong đấu tranh chống tham nhũng. Có chính sách khen thưởng đối với người có thành tích. Thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức. Xử lý nghiêm theo pháp luật và theo Điều lệ Đảng những cán bộ, đảng viên vi phạm ở bất cứ cấp nào, lĩnh vực nào. Xem xét trách nhiệm hình sự hoặc có hình thức kỷ luật thích đáng đối với những người đứng đầu cơ quan, đơn vị nơi xảy ra những vụ tham nhũng lớn, gây hậu quả nghiêm trọng. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là yêu cầu cấp bách. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là bảo đảm cho việc giữ vững bản chất XHCN của nhà nước và cho sự thành công của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Trong quá trình hiện nay sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước thể hiện ở việc đề ra chủ trương, đường lối và các chính sách lớn định hướng cho sự phát triển trong từng thời kỳ; lãnh đạo nhà nước thực thi Hiến pháp, pháp luật; xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất, có trí tuệ, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng; kiểm tra việc quán triệt và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; củng cố nâng cao chất lượng và hoạt động của các tổ chức Đảng và đảng viên trong bộ máy nhà nước. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một quan điểm quan trọng của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Để thực hiện tốt quan điểm chỉ đạo của Đảng, cần tập trung phân định rõ chức năng của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; đồng thời, để thiết thực tạo lập cơ sở thiết yếu của sinh hoạt dân sự cần: bố trí khoa học đội ngũ công chức thực thi công vụ; minh bạch hóa công tác xây dựng đội ngũ công chức; xây dựng rành mạch các chế tài liên quan đến trách nhiệm của quản lý hành chính nhà nước; coi trọng hiệu quả chức năng phục vụ xã hội của cả đội ngũ công chức và của nhà nước. Xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta là phù hợp với tiến bộ xã hội. Ý tưởng về một nhà nước quản lý xã hội vì sự công bằng cho mọi người thường được bắt đầu từ thực trạng của những bất bình đẳng trong xã hội. Trong điều kiện nước ta, khi đó có nhà nước của dân, do dân, vì dân, có Hiến pháp và hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện nhưng vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền vẫn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng và toàn xã hội. Chính vì lẽ đó Đại hội X của Đảng một lần nữa tái khẳng định: Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam với những trọng tâm cụ thể là: tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, đẩy mạnh cải cách hành chính; đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng hệ thống cơ quan hành pháp thống nhất, thông suốt, hiện đại; xây dựng hệ thống cơ quan tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, quyền con người; nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân; thực hiện các giải pháp nhằm chấn chỉnh bộ máy và quy chế hoạt động của cơ quan, cán bộ, công chức. Một câu hỏi đặt ra, trong bối cảnh hiện nay, chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện những khía cạnh nào của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam? Từ thực tiễn hoạt động quản lý của Nhà nước ta cũng như đòi hỏi của đời sống xã hội, câu trả lời được đưa ra là: Phải phân định rõ chức năng của các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, nổi lên các quan hệ giữa lập pháp và hành pháp; giữa hành pháp và tư pháp. Chức năng của nhà nước là khái niệm chỉ rõ thuộc tính hoạt động quản lý và cai trị của nhà nước; trong đó, nổi bật nhất là chức năng của nhà nước trong các hoạt động sản xuất vật chất của một quốc gia. Đối với một nhà nước, hoạt động cai trị bên trong lãnh thổ gọi là đối nội và hoạt động bên ngoài lãnh thổ gọi là đối ngoại. Nhận thức về chức năng của nhà nước như thế ngày nay vẫn giữ nguyên giá trị và nó vẫn là cơ sở để xem xét các hoạt động cụ thể của nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Bố trí khoa học đội ngũ công chức lãnh đạo và công chức thực thi theo hướng chuyên nghiệp hóa đội ngũ công chức thực thi công vụ và nâng cao năng lực thực thi, hoạch định chính sách đối với đội ngũ công chức lãnh đạo: chẳng hạn, quan hệ giữa giám đốc sở, vụ trưởng với đội ngũ chuyên viên thành thạo công việc; giữa những người đứng đầu với đội ngũ viên chức chuyên nghiệp: ví như viện trưởng và nghiên cứu viên, trưởng khoa và các bác sỹ... Minh bạch hóa trong công tác xây dựng đội ngũ ngay từ giai đoạn tuyển dụng. Muốn vậy, nguyên tắc công khai phải trở thành yếu tố căn bản trong các khâu của hoạt động xây dựng nguồn lực. Minh bạch là một yêu cầu như một nguyên tắc ứng xử công vụ. Xây dựng rành mạch các chế tài liên quan đến trách nhiệm là một trong những đặc trưng của quản lý hành chính nhà nước. Thông thường, tính bảo thủ và thoái thác trách nhiệm là những thuộc tính luôn có trong con người. Ở đâu có sự nêu cao trách nhiệm, đề cao tự giác và tự trọng chức vụ thì ở đó những nhược điểm này sẽ mất đi. Những sai sót trong quản lý không được minh định trách nhiệm là một điều không phù hợp với nguyên tắc của nhà nước pháp quyền. Theo đó, mỗi công chức (kể cả công chức lãnh đạo và công chức thực thi) được trao một chức vụ với những quyền hạn và nhiệm vụ rõ ràng, có giới hạn, có phạm vi rành mạch - nghĩa là chỉ được làm những gì pháp luật cho phép. Một khi không có sự rành mạch trách nhiệm, sẽ gây sai sót, nhập nhằng và tất yếu dẫn đến tình trạng mất đoàn kết nội bộ, bất ổn, rối loạn, đơn thư khiếu kiện kéo dài... Coi trọng hiệu quả phục vụ xã hội trên mọi phương diện nhu cầu cá nhân trong kinh doanh, sinh hoạt dân sự là một trong những tiêu chuẩn của cải cách và đổi mới trong tổ chức và hoạt động của nhà nước. Tình trạng phiền hà, sách nhiễu công dân đang là vấn đề bức xúc, khi giải quyết triệt để trong quản lý và điều hành xã hội hiện nay. Điều đó giải thích tại sao sự khởi xướng cải cách hành chính bắt đầu bằng cải cách thủ tục hành chính đó được tiến hành từ những năm 90 của thế kỷ trước nhưng đến nay vẫn còn hàng loạt các rào cản đối với các sinh hoạt kinh doanh, sản xuất và dân sự (cư trú, xây dựng, cải tạo nhà cửa, học hành...). Để tiếp tục hoàn thiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm thiết thực xây dựng cơ sở cho sinh hoạt dân sự, Đại hội X của Đảng yêu cầu cần: "Đẩy nhanh công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên các mặt: hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy; cán bộ, công chức; phương thức hoạt động. Định rõ việc Nhà nước phải làm và bảo đảm đủ điều kiện để làm tốt; khắc phục tình trạng buông lỏng hoặc làm thay, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan của Đảng và cơ quan nhà nước; hiện đại hóa nền hành chính nhà nước". Kế thừa và phát huy những tư tưởng tiến bộ của nhân loại, Đảng ta cho rằng việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân phải phù hợp với chế độ sở hữu, chế độ quản lý và chế độ phân phối của nền kinh tế thị trường với định hướng XHCN. Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân phải phù hợp với tính chất xã hội hoá theo hướng phát huy cao độ sáng kiến của cá nhân, tạo điều kiện cho mỗi cá nhân tự do sáng tạo trong mọi hoạt động của mình. Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của đảng Đảng ta chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một trong những điều kiện và môi trường tiên quyết của một quốc gia tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một xã hội phát triển tiên tiến. Nội dung quan trọng của Nhà nước pháp quyền là khẳng định cội nguồn quyền lực nhà nước là ở nhân dân. Để bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, trong đó nhà nước là của nhân dân chứ không phải nhân dân là của nhà nước, Nhà nước pháp quyền đề cao tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, nhà nước chỉ được làm những điều pháp luật cho phép, còn nhân dân được làm tất cả những điều pháp luật không cấm, pháp luật bảo đảm cho sự phát triển tự do tối đa của nhân dân. Vai trò của pháp luật trong việc xây dựng và duy trì một xã hội trật tự ổn định, trong đó không chỉ mỗi công dân, mỗi cá nhân, mà bản thân nhà nước và những người đứng đầu chính quyền cũng phải tôn trọng pháp luật đã được khẳng định. Hai mặt dân chủ và pháp luật trong Nhà nước pháp quyền

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu_luan_phat_huy_dan_chu_xd_va_hoan_thien_nn_pqxhcn_0384.doc