Tiểu luận Nghiệp vụ thị trường mở - Thực trạng và giải pháp phát triển ở Việt Nam

Trong NVTTM, NHTƯ là người chủ động lựa chọn người tham gia trên thị

trường. Các đối tác này phải thoả mãn hai điều kiện cơ bản: có tình hình tài chính

lành mạnh và việc giao dịch với các đối tác đó mang lại hiệu quả tích cực đối với

NHTƯ trong việc điều hành CSTT. Căn cứ vào hai điều kiện đó, mức độ quan

trọng của các đối tác được xếp theo trật tự là :

• Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác

• Các tổchức tài chính phi ngân hàng.

• Các khách hàng lớn.

- Các ngân hàng thương mại: là một trung gian tài chính đặc biệt quan

trọng đứng ra nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế, trên cơ sở đó cấp tín

dụng cho các thành phần kinh tế có nhu cầu. Tính chất đặc biệt của

NHTM là mối liên hệ mang tính hệ thống giữa các Ngân hàng và khả

năng tạo tiền gửi thanh toán. Việc mua bán giấy tờ có giá của đối tác này

sẽ có tác động lan truyền mạnh mẽ tới cả hệ thống. Trong điều kiện

nguồn vốn tín dụng là chủ yếu, những ảnh hưởng này còn chi phối hành

vi của các khách hàng của bản thân ngân hàng, từ đó mà tác động tới các

hoạt động của toàn bộ nền kinh tế.

pdf26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6357 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nghiệp vụ thị trường mở - Thực trạng và giải pháp phát triển ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới hình thức chứng chỉ hoặc dưới hình thức ghi sổ trên cơ sở quy định chuẩn mực về mệnh giá và thời hạn. Trong trường hợp này, khối lượng chứng chỉ nợ trúng thầu được hạch toán vào tài khoản lưu ký chứng khoán tại NHTW hoặc trung tâm lưu ký chứng khoán . Các chứng chỉ nợ được phát hành dưới hình thức chiết khấu nghĩa là giá phát hành thấp hơn mệnh giá. Khi đáo hạn người sở hữu nhận được số tiền thanh toán bằng mệnh giá của chứng chỉ nợ. Chênh lệch giữa giá phát hành và mệnh giá là lãi suất phát sinh trên giá phát hành, lãi suất áp dụng đối với chứng chỉ nợ là lãi suất đơn tính theo ngày thực tế với số ngày trong năm là 365 ngày. 1.4 Giao dịch hoán đổi ngoại tệ Tương tự như giao dịch có hoàn lại, giao dịch hoán đổi ngoại tệ, bao gồm 2 giao dịch đồng thời là giao dịch giao ngay và giao dịch có kỳ hạn giữa đồng nội tệ Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ K 46 – Anh 4 – TCQT B 7 và ngoại tệ được chọn để giao dịch. Bằng cách đó NHTW có thể ảnh hưởng đến lượng vốn khả dụng của nền kinh tế trong khoảng thời gian cần thiết tùy thuộc vào thời hạn của hợp đồng kỳ hạn. Theo nguyên tắc của nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ trên thị trường ngoại hối trong mỗi giao dịch hoán đổi ngoại tệ, NHTW là các đối tác thỏa thuận các điểm swap(swap points) để xác định tỷ giá có kỳ hạn từ tỷ giá giao ngay. Nghiệp vụ có thể được sử dụng để tăng thêm khả năng thanh toán cho nền kinh tế mua bán trao ngay và bán có kỳ hạn hoặc hấp thụ khả năng thanh toán bán ngoại tệ trao ngay và mua có kỳ hạn. 1.5 Giao dịch hoán đổi chứng khoán đến hạn Nghiệp vụ này được thực hiện khi NHTW trao đổi các chứng khoán Chính phủ mà nó sở hữu đã đến hạn bằng cách chứng khoán Chính phủ mới phát hành. Nếu giá trị các chứng khoán của Chính phủ đến hạn lớn hơn giá trị chứng khoán Chính phủ mới thay thế thì dự trữ của hệ thống ngân hàng tăng lên và ngược lại dữ trữ của hệ thống ngân hàng giảm xuống khi giá trị các chứng khoán mới thay thế lớn hơn lượng chứng khoán đến hạn. 2.Hàng hoá của nghiệp vụ thị trường mở. 2.1 Tín phiếu kho bạc(TB) Tín phiếu kho bạc là giấy nhận nợ do chính phủ phát hành để bù đắp thiếu hụt tạm thời trong năm tài chính. Thời hạn của tín phiếu thông thường là dưới 12 tháng. Đây là công cụ chủ yếu của Nghiệp vụ thị trường mở của hầu hết NHTW các nước vì: - Tín phiếu kho bạc có tính thanh khoản cao. - Được phát hành định kỳ với khối lượng lớn và vì thế có thể thoả mãn nhu cầu can thiệp của NHTW với liều lượng khác nhau. Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ K 46 – Anh 4 – TCQT B 8 Bộ tài chính là người có vai trò quan trọng trong việc xác định khối lượng phát hành, thanh toán lãi và gốc của tín phiếu. Tín phiếu kho bạc được phát hành hàng tuần để chi trả các khoản nợ ngắn hạn của chính phủ. Vì vậy, khối lượng tín phiếu này thay đổi tuỳ theo nhu cầu vay mượn của chính phủ và sự hạn chế tốc độ tăng trưởng của các nhà chức trách tiền tệ. 2.2 Chứng chỉ tiền gửi. (CD). Chứng chỉ tiền gửi là giấy nhận nợ của Ngân hàng hay các định chế tài chính phi ngân hàng, xác nhận món tiền đã được gửi vào ngân hàng trong một thời gian nhất định với một mức lãi suất định trước. Thời hạn của chứng chỉ tiền gửi thường là ngắn hạn. Sự ra đời của chứng chỉ tiền gửi đánh dấu sự thay đổi căn bản trong cơ chế quản lý ngân hàng: Chuyển từ quản lý tài sản nợ sang quản lý tài sản có vì nó cung cấp một hình thức huy động vốn chủ động cho ngân hàng thay vì phải phụ thuộc vào người gửi tiền. Tình ưu việt của chứng chỉ tiền gửi chính là bảo đảm sự lưu thông của nó và do đó nó được sử dụng như là hàng hoá phổ biến cho Nghiệp vụ thị trường mở. 2.3 Thương phiếu. (CP). Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định. Đây là giấy nhận nợ được phát hành bởi các doanh nghiệp nhằm bổ xung vốn ngắn hạn. Thương phiếu là tài sản có đối với người sở hữu và là tài sản nợ đối với người phát hành thương phiếu. Cơ chế bảo lãnh của ngân hàng làm cho thương phiếu có tính chuyển nhượng cao và vì thế được chấp nhận dễ dàng trong thanh toán. Việc mua bán thương phiếu của NHTW sẽ ảnh hưởng mạnh đến dự trữ của các ngân hàng hoặc tiền gửi của các khách hàng tại NHTM. Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ K 46 – Anh 4 – TCQT B 9 2.4 Trái phiếu chính phủ. Trái phiếu chính phủ là chứng khoán nợ dài hạn được Nhà nước phát hành nhằm bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước. Mặc dù là dài hạn nhưng trái phiếu chính phủ được sử dụng phổ biến trong Nghiệp vụ thị trường mở bởi tính an toàn, khối lượng phát hành, tính ổn định trong phát hành và khả năng tác động trực tiếp đến giá cả trái phiếu kho bạc trên thị trường tài chính. 2.5 Trái phiếu chính quyền điạ phương. Tương tự như trái phiếu chính phủ, những trái phiếu chính quyền địa phương khác về thời hạn và các điều kiện ưu đãi liên quan đến trái phiếu. Thông thường người sở hữu trái phiếu chính quyền địa phương được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập từ trái phiếu. 2.6 Các hợp đồng mua lại. Đây là những món vay ngắn hạn, trong đó tín phiếu kho bạc được sử dụng làm vật đảm bảo cho tài sản có mà người cho vay nhận được nếu người đi vay không thanh toán nợ. 3.Hình thức giao dịch: Các giao dịch trên thị trường mở có thể thực hiện thông qua phương thức đấu thầu hoặc giao dịch song phương. 3.1. Đấu thầu Việc mua hoặc bán các loại giấy tờ có giá giữa NHTW với các NHTM được thực hiện thông qua phương thức đấu thầu khối lượng hoặc đấu thầu lãi suất. Giá của giấy tờ có giá hoặc lãi suất giao dịch trên thị trường mở là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến mặt bằng lãi suất trên thị trường nói chung. Vì vậy, lãi Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ K 46 – Anh 4 – TCQT B 10 suất cũng là một mục tiêu mà NHTW cần quan tâm khi quyết định phương thức đấu thầu trên nghiệp vụ thị trường mở . Đấu thầu lãi suất hay đấu thầu khối lượng trên nghiệp vụ này tuỳ thuộc vào mục tiêu của NHTW . Để có thể can thiệp trực tiếp vào lãi suất thì thực hiện đấu thầu khối lượng, ở đó lãi suất cố định do NHTW chỉ đạo. Khi mục tiêu của chính sách tiền tệ nghiêng về giác độ bơm hoặc rút tiền ra theo một khối lượng mong muốn thì thực hiện đấu thầu lãi suất ở đó lãi suất được thả nổi theo cung cầu thị trường, còn lãi suất trúng thầu sẽ được xác định tại điểm đạt được khối lượng cần bơm hoặc rút tiền khỏi lưu thông. Lãi suất chỉ đạo đối với đấu thầu khối lượng hoặc lãi suất trúng thầu đối với đấu thầu lãi suất là cơ sở để tính giá của giấy tờ có giá. 3.1.1. Đấu thầu khối lượng: NHTW công bố mức lãi suất và khối lượng các loại giấy tờ có giá cần mua hoặc bán. Các ngân hàng dự thầu khối lượng các loại giấy tờ có giá đó theo mức lãi suất niêm yết trước. - Trường hợp tổng khối lượng dự thầu của các ngân hàng bằng hoặc thấp hơn khối lượng NHTW cần mua hoặc bán thì khối lượng trúng thầu của từng ngân hàng là khối lượng dự thầu của từng ngân hàng đó. - Trường hợp tổng khối lượng dự thầu vượt quá khối lượng NHTW cần mua hoặc bán, khối lượng giấy tờ có giá trúng thầu được phân bổ theo công thức nhất định. 3.1.2. Đấu thầu lãi suất NHTW công bố khối lượng giấy tờ có giá cần mua hoặc bán. Các ngân hàng tự đăng ký số tiền ứng với mỗi mức lãi suất do mình chọn. Các đơn dự thầu được xếp theo thứ tự lãi suất dự thầu giảm dần trong trường hợp NHTW cần mua hoặc lãi suất dự thầu tăng dần nếu NHTW cần bán. Nghĩa là khi NHTƯ mua thì những Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ K 46 – Anh 4 – TCQT B 11 đơn dự thầu ứng với lãi suất cao sẽ được phân bổ trước cho đến khi khối lượng phân phối được sử dụng hết và ngược lại. Lãi suất trúng thầu là lãi suất dự thầu thấp nhất trong trường hợp NHTƯ cần mua hoặc là lãi suất dự thầu cao nhất nếu NHTW cần bán mà tại mức lãi suất đó đạt được khối lượng giấy tờ có giá NHTW cần mua hoặc cần bán. Khối lượng trúng thầu của các ngân hàng là khối lượng của các mức dự thầu có lãi suất bằng và cao hơn mức lãi suất trúng thầu với trường hợp NHTW mua giấy tờ có giá hoặc lãi suất dự thầu bằng và thấp hơn lãi suất trúng thầu nếu NHTW bán giấy tờ có giá. Phương pháp xác định giá: Sau khi đã xác định được khối lượng trúng thầu của tổ chức tín dụng, NHTW phải xác định lãi suất áp dụng từng mức trúng thầu cho tổ chức tín dụng làm cơ sở xác định giá bán hoặc mua giấy tờ có giá. Có 2 phương pháp xác định là theo lãi suất thống nhất ( Hà Lan) hoặc theo lãi suất riêng lẻ (Mỹ). 3.2. Giao dịch song phương Thủ tục giao dịch song phương được định nghĩa theo nghĩa rộng là bất cứ thủ tục giao dịch nào mà NHTW trực tiếp giao dịch với một hoặc một số ít các tổ chức không thông qua thủ tục đấu thầu. Xuất phát từ định nghĩa này, có hai loại thủ tục song phương là: 3.2.1. Các giao dịch của NHTW trực tiếp với các đối tác Là hình thức giao dịch mà NHTW trực tiếp giao dịch với một hoặc một số ít đối tác trong nước. Các đối tác này được lựa chọn theo tiêu chí chung về tư cách đối tác. Các giao dịch song phương trực tiếp với các đối tác có thể được áp dụng với các giao dịch có hoàn lại, giao dịch không hoàn lại và giao dịch hoán đổi ngoại tệ. Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ K 46 – Anh 4 – TCQT B 12 3.2.2. Giao dịch của NHTW thông qua sở giao dịch chứng khoán và các đại lí thị trường Đối với các giao dịch này, các đối tác tham gia giao dịch với NHTW là không bị giới hạn và thủ tục giao dịch các công cụ nợ được điều chỉnh theo tập quán thị trường. Hình thức giao dịch song phương được áp dụng khi có những sự biến động tiền tệ cục bộ ở từng đối tác của NHTW trong nghiệp vụ thị trường mở 4. Thành viên của nghiệp vụ thị trường mở Trong NVTTM, NHTƯ là người chủ động lựa chọn người tham gia trên thị trường. Các đối tác này phải thoả mãn hai điều kiện cơ bản: có tình hình tài chính lành mạnh và việc giao dịch với các đối tác đó mang lại hiệu quả tích cực đối với NHTƯ trong việc điều hành CSTT. Căn cứ vào hai điều kiện đó, mức độ quan trọng của các đối tác được xếp theo trật tự là : • Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác • Các tổ chức tài chính phi ngân hàng. • Các khách hàng lớn. - Các ngân hàng thương mại: là một trung gian tài chính đặc biệt quan trọng đứng ra nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế, trên cơ sở đó cấp tín dụng cho các thành phần kinh tế có nhu cầu. Tính chất đặc biệt của NHTM là mối liên hệ mang tính hệ thống giữa các Ngân hàng và khả năng tạo tiền gửi thanh toán. Việc mua bán giấy tờ có giá của đối tác này sẽ có tác động lan truyền mạnh mẽ tới cả hệ thống. Trong điều kiện nguồn vốn tín dụng là chủ yếu, những ảnh hưởng này còn chi phối hành vi của các khách hàng của bản thân ngân hàng, từ đó mà tác động tới các hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ K 46 – Anh 4 – TCQT B 13 - Các tổ chức tài chính phi ngân hàng: Sau NHTM, NHTƯ thường giao dịch với các tổ chức tài chính phi Ngân hàng. Động cơ chủ yếu của họ khi tham gia thị trường mở là sử dụng vốn nhàn rỗi để mua bán chứng khoán có giá ngắn, dài hạn; duy trì khả năng thanh toán; đi vay nguồn vốn cần thiết; cho vay các khoản vốn dư thừa để kiếm lãi. Sự có mặt của tổ chức tài chính phi ngân hàng là rất cần thiết bởi chúng có khả năng thu hút các nguồn vốn tiết kiệm khổng lồ cho nền kinh tế, thúc đẩy sự tăng trưởng trong đầu tư và cùng cạnh tranh với các NHTM. Cho nên, nếu NHTƯ muốn điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông thì rất cần quan tâm tới bộ phận đối tác này. Tuy vậy, giữa các tổ chức tài chính phi ngân hàng không có sự gắn kết mật thiết như hệ thống NHTM, không tham gia vào quá trình tạo tiền bởi nó không được nhận tiền gửi không kì hạn, không làm dịch vụ thanh toán. - Các khách hàng lớn: Đối tác thứ ba có mức độ giao dịch ít hơn cả đối với NHTƯ là bộ phận các khách hàng lớn nhưng riêng lẻ, dân cư có nắm giữ chứng khoán...Chính vì tính nhỏ lẻ, không có sự liên kết và khó kiểm soát của bộ phận này nên sự tham gia của chúng bị hạn chế ở nhiều nước. Như vậy, xét cho cùng, việc mở rộng đối tác là quan trọng bởi nó tạo ra một hình ảnh sôi động trên thị trường mở nhưng điều quan trọng hơn là các đối tác đó có giúp NHTƯ thực hiện được mục tiêu điều hành CSTT hay không. Tại các nền kinh tế vay nợ, vốn của nền kinh tế chủ yếu do NHTM nắm giữ thì việc giới hạn đối tác trong phạm vi hệ thống ngân hàng cũng không làm giảm đi tính hiệu quả của các tác động do NHTƯ tạo ra. Ngược lại, với những nền kinh tế mang đậm nét thị trường, đối tác càng nhiều thì hiệu quả điều tiết càng lớn. Do đó, ta thấy rằng, hiệu quả của NVTTM mạnh hay yếu phụ thuộc vào các kênh truyền dẫn tác động, khả năng kiểm tra giám sát của NHTƯ, chất lượng của đối tác hơn là số lượng đối tác ít hay nhiều. Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ K 46 – Anh 4 – TCQT B 14 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ I .Thực trạng hoạt động thị trường mở ở Việt Nam trong những năm qua Thực hiện quá trình đổi mới hoạt động ngân hàng theo xu hướng hội nhập quốc tế, Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng chuyển sang sử dụng công cụ gián tiếp điều hành chính sách tiền tệ, trong đó có nghiệp vụ thị trường mở. Sau một thời gian nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế và chuẩn bị đủ mọi điều kiện, ngày 12/7/2000, Ngân hàng nhà nước đã chính thức đưa công cụ nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động. Việc thực hiện nghiệp vụ này đánh dấu một sự chuyển biến quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước, từ sử dụng công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp theo tín hiệu của thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế. Đến nay đã có 22 tổ chức kinh doanh tiền tệ được cấp giấy chứng nhận là thành viên nghiệp vụ thị trường mở, tăng thêm 4 thành viên so với khi mới khai trương hoạt động; trong đó có 4 NHTM Nhà nước, 10 NHTM cổ phần, 1 ngân hàng liên doanh, 5 chi nhánh NH nước ngoài, 1 công ty tài chính và Quỹ tín dụngTrung ương. Quy mô và doanh số hoạt động của thị trường mở ngày càng tăng thể hiện sự phát triển ổn định và bền vững của nghiệp vụ mới này. Trong 6 tháng cuối năm 2000, Ngân hàng nhà nước tổ chức được 17 phiên giao dịch với tổng khối lượng giấy tờ có giá mua bán là 1.903,5 tỷ đồng; năm 2001 có 48 phiên giao dịch với khối lượng vốn mua bán là 3.033,8 tỷ đồng. Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ K 46 – Anh 4 – TCQT B 15 Năm 2003, tổng doanh số giao dịch trên thị trường mở đạt 21.183,15 tỷ đồng; trong đó doanh số Ngân hàng nhà nước mua vào là 9.843,15 tỷ đồng, doanh số bán là 11.340 tỷ đồng.Năm 2004, bằng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch là mua có kỳ hạn và bán hẳn. Tính đến nay Ngân hàng nhà nước đã tổ chức được 78 phiên giao dịch thị trường mở, với tổng khối lượng trúng thầu nói trên. Tức là thông qua thị trường này trong gần 9 tháng đầu năm 2004, NHNN đã cung ứng hơn 22.000 tỷ đồng cho các NHTM, tăng đáng kể so với các năm trước đó... Xu hướng đó một mặt nghiệp vụ thị trường mở thực sự có hiệu quả trong việc tác động vào vốn khả dụng của NHNN, chủ động thu hút tiền về hoặc bơm tiền ra lưu thông trên cơ sở cung cầu vốn của thị trường; mặt khác cũng chứng tỏ thị trường mở hấp dẫn đối với các NHTM. Tác động tích cực làm ổn định lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại. Lãi suất trên thị trường mở trong thời gian qua tăng nhẹ phản ánh diễn biến lãi suất trên thị trường tiền tệ và lãi suất ngắn hạn trong nền kinh tế. Trong các phiên giao dịch đầu năm 2004 lãi suất trúng thầu trên thị trường mở xoay quanh mức 3,20%/năm đến 3,50%/năm; các phiên gần đây tăng lên 3,5% - 4,0%/năm; trong khi đó lãi suất trúng thầu của các phiên trong năm 2003 chỉ có 2,29% - 3,0%/năm của các phiên trước đó. Thời gian qua các ngân hàng: công thương, đầu tư & phát triển, nông nghiệp & phát triển nông thôn, ngoại thương thường xuyên đăng ký bán hàng trăm tỷ đồng tín phiếu còn thời hạn ngắn, nhưng 8 phiên gần đây mỗi phiên tổng số chỉ có 200 tỷ đồng trúng thầu. Điều đó chứng tỏ các NHTM đang linh hoạt sử dụng vốn khả dụng của mình. Đây cũng là cơ sở để cho lãi suất huy động vốn tương đối ổn định. Song thông qua hoạt động của thị trường mở từ đầu năm 2004 đến nay cho thấy, một số tồn tại của thị trường này vẫn là hầu như chỉ có các NHTM nhà nước tham gia, các NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ K 46 – Anh 4 – TCQT B 16 doanh vẫn đứng ngoài, mặc dù ngân hàng nhà nước có nhiều nỗ lực để thu hút khối ngân hàng này vào cuộc. 1.Những kết quả đạt được Hoạt động thị trường mở trong thời gian qua đã đạt được những kết qủa sau:  Một là, đã góp phần củng cố thêm vị thế, vai trò quản lý của NHNN trong nền kinh tế thị trường, phù hợp với xu hướng hội nhập và toàn cầu hoá.  Hai là, hoạt động của Nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện tương đối linh hoạt, góp phần thực hiện các mục tiêu NHNN đặt ra, ổn định thị trường tiền tệ và hoạt động NH. Đặc biệt với việc cung ứng vốn qua Nghiệp vụ thị trường mở, đã góp phần thực hiện chủ trương kích cầu của chính phủ, thúc đẩy sản xuất, nâng cao sức mua của xã hội.  Ba là, việc hoàn thiện các văn bản pháp lý cho hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở phù hng Nghiệp vụ thị trường mở phù h hoạt động của thị trường được thông suốt. Việc lắp đặt các trang thiết bị, thiết kế chương trình phần mềm phục vụ cho hoạt động của Nghiệp vụ thị trường mở đã được thực hiện khẩn trương, tạo điều kiện cho các giao dịch diễn ra trôi chảy, đảm bảo đúng quy chế, quy trình an toàn.  Bốn là, công tác điều hành, tổ chức Nghiệp vụ thị trường mở luôn thực hiện đúng quy định, anh toàn và đã dần bám sát được tình hình diễn biến thị trường về vốn khả dụng và lãi suất.  Năm là, doanh số hoạt động không ngừng tăng lên, điều này thể hiện tính ưu việt của thị trường mở trong việc sử dụng nguồn vốn của các tổ chức tín dụng.  Sáu là, trong thời gian vừa qua, các thành viên tham gia và trúng thầu chủ yếu là các NHTM quốc doanh, những lãi suất trúng thầu tại các phiên giao dịch Nghiệp vụ thị trường mở đã phần nào phản ánh lãi suất trên thị trường Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ K 46 – Anh 4 – TCQT B 17 biến động lãi suất hình thành qua đấu thầu Nghiệp vụ thị trường mở giữa các phiên đấu thầu ngày càng thu hẹp, thể hiện sự ổn định dần của thị trường.  Bảy là, công tác thông tin, tuyên truyền, tập huấn về hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở NHNN về phổ biến Nghiệp vụ thị trường mở lên các phương tiện thông tin đại chúng bước đầu đã có những chuyển động tốt. Đạt được những kết qủa trên là do công cụ thị trường mở có ưu điểm sau:  Nghiệp vụ thị trường mở được tiến hành theo sáng kiến của NHTW. NHTW có thể kiểm soát hoàn toàn khối lượng của nghiệp vụ thị trường mở mà không chịu ảnh hưởng của bất kỳ nhân tố nào khác  Nghiệp vụ thị trường mở rất linh hoạt và chính xác. Điều này thể hiện ở chỗ dù NHTW muốn thay đổi 1 mức rất nhỏ hay rất lớn của lượng tiền cung ứng, nghiệp vụ thị trường mở đều có thể đáp ứng được. Hơn nữa nghiệp vụ thị trường mở có thể dễ dàng đảo ngược lại khi có 1 sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành nghiệp vụ. Chẳng hạn NHTW nhận thấy rằng mình đã mua quá nhiều chứng khoán trên thị trường mở khiến cho cung tiền tăng quá nhanh, nó có thể ngay lập tức sửa chữa sai lầm bằng cách tiến hành nghiệp vụ bán trên thị trường mở  Nghiệp vụ thị trường mở được hoàn thành nhanh chóng mà không vướng phải những chậm trễ về hành chính và do đó có thể gây tác động tức thì đến lượng cung tiền tệ  Nghiệp vụ thị trường mở tác động thông qua cơ chế thị trường nên các đối tượng chịu sự tác động thường khó chống đỡ hoặc đảo ngược chiều hướng điều chỉnh của NHTW .Mặc dù nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện,những nhà kinh doanh chứng khoán không bị bắt buộc mua hoặc bán theo mức giá do NHTW Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ K 46 – Anh 4 – TCQT B 18 ấn định nhưng NHTW có thể thực hiện được yêu cầu của mình bằng việc điều chỉnh giá sao cho nó trở nên hấp dẫn đối tác. Nhờ những ưu điểm nêu trên mà nghiệp vụ thị trường mở được coi là công cụ hữu hiệu nhất trong các công cụ của chính sách tiền tệ 2.Những hạn chế của công cụ thị trường mở Bên cạnh những kết quả đã đạt được thì trong thời gian qua nghiệp vụ thị trường mở đã bộc lộ 1 số hạn chế  Thứ nhất, hoạt động Nghiệp vụ thị trường mở là một hoạt động hoàn toàn mới nên 1 số TCTD vẫn còn nhiều bỡ ngỡ khi tham gia giao dịch. Nghiệp vụ thị trường mở ra đời trong điều kiện nền kinh tế còn đang ở trình độ phát triển thấp và chưa ổn định, thị trường tài chính và thị trường tiền tệ chưa phát triển, môi trường hoạt động của các tổ chức tín dụng còn chứa đựng nhiều rủi ro.  Thứ hai, hoạt động của thị trường mở chưa thực sự sôi động. Thể hiện trong mỗi phiên giao dịch của thị trường mở chỉ có từ 1 đến 4 thành viên tham gia, chiếm tỷ lệ thấp (15%) so với tổng số thành viên tham gia Nghiệp vụ thị trường mở và chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số tổ chức tín dụng. Các thành viên tham gia thị trường mở chủ yếu là các NHTM NN. Nguyên nhân là do lượng hàng hoá mà chủ yểu là tín phiếu kho bạc tập trung chủ yếu ở các NH này. Các tổ chức tín dụng khác nhìn chung không có đủ điều kiện cạnh tranh tại các phiên đấu thầu trên thị trường sơ cấp và thứ cấp. Do vậy trong các phiên giao dịch của thị trường mở gần như không có một NHTM cổ phần nào tham gia. Các ngân hàng TMCP ít tham gia thị trường sơ cấp đấu thầu tín phiếu kho bạc vì ít có vốn nhàn rỗi hoặc vốn nhàn rỗi với thời hạn ngắn trong khi đó thời hạn của tín phiếu kho bạc hiện nay chỉ duy Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ K 46 – Anh 4 – TCQT B 19 nhất một loại kỳ hạn 364 ngày. Đồng thời do lãi suất huy động vốn của các NH này thường là cao hơn so với lãi suất huy động vốn của NHTM NN. Mặt khác trong các phiên đấu thầu tín phiếu kho bạc là đấu thầu lãi suất với cơ chế Bộ tài chính chỉ đạo lãi suất cho từng phiên đấu thầu, do vậy lãi suất trúng thầu trong các phiên chưa phản ánh lãi suất thị trường mà thường là thấp hơn lãi suất thị trường. Trong khi các NHTM NN thường có vốn dư thừa, để kinh doanh có hiệu quả các ngân hàng này chấp nhận cả mức lãi suất thấp của tín phiếu, trái phiếu kho bạc còn cao hơn lãi suất tiền gửi tại NHNN. Tại thị trường mua, bán tín phiếu, các tổ chức tín dụng đã nắm giữ tín phiếu, trái phiếu kho bạc chỉ bán ra khi họ thiếu vốn khả dụng hoặc thấy có thể thu lại lợi nhuận hơn là nắm giữ tín, trái phiếu.  Thứ ba, hàng hoá còn nghèo nàn không đa dạng về chủng loại và thời hạn Luật NHNN quy định chỉ có các loại giấy tờ có giá ngắn hạn mới được giao dịch trên thị trường mở , do vậy đã giới hạn phạm vi hoạt động của thị trường mở . Cụ thể là sau 2 năm hoạt động của thị trường mở , NHNN đã đưa vào thị trường mở chủ yếu là 2 công cụ: Tín phiếu kho bạc và tín phiếu NHNN, kỳ hạn của các công cụ này đã được thay đổi trong phạm vi từ 60 ngày đến 364 ngày. Tuy vậy các công cụ khác như chứng chỉ tiền gửi, thương phiếu, chấp phiếu ngân hàng vẫn chưa được đưa vào giao dịch trên thị trường mở.  Thứ tư, các TCTD vẫn chưa quan tâm đúng mức đến công tác đào tạo đội ngũ cán bộ nghiệp vụ trực tiếp, chuuyên sâu thực hiện Nghiệp vụ thị trường mở. Việc đầu tư trang thiết bị, kỹ thuật phục vụ cho Nghiệp vụ thị trường mở còn nhiều bất cập, mặt khác, do các TCTD hiện nay chỉ quan tâm đến các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống, chưa có thói quen kinh doanh trên thị trường tiền tệ, điển hình là thông qua Tiểu luận Tài chính - Tiền tệ K 46 – Anh 4 – TCQT B 20 Nghiệp vụ thị trường mở chẳng hạn khi thiếu vốn khả dụng, các TCTD lại mang tín phiếu đến NHNN để xin chiết khấu, hoặc xin vay vốn bằng cầm cố thế chấp chúng mà không mang chúng đến bán tại thị trường mở.  Thứ năm việc dự đoán chính xác sự biến động hàng ngày của cung- cầu, vốn khả dụng còn gặp những khó khăn nhất định, ảnh hưởng đến mức độ chính xác của dự báo, đặc biệt là chế độ thông tin phục vụ cho công tác dự đoán, từ đó đã hạn chế đến chất lượng của việc dự đoán vốn khả dụng. II Giải pháp phát triển nghiệp vụ thị trường mở ở Việt Nam Hiện nay, Chính phủ Việt Nam đang theo đuổi chính sách phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng ổn định. Do đó NHTW đã sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ nhằm ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất thị trường để từ đó đạt đựoc các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Công cụ chính sách tiền tệ quan trọng nhất là nghiệp vụ thị trường mở do tính chất linh hoạt và chủ động của nó. Vì vậy để đẩy mạnh và hoàn thiện nghiệp vụ này, tạo điều kiện cho thị trường hoạt động ổn định, sôi động để từng bước đưa nghiệp vụ thị trường mở trở thành công cụ chủ yếu và hiệu quả trong chính sách thị trường và mang lại lợi ích cho các tổ chức tín dụng, trong thời gian tới cần phải thực hiện một số giải pháp sau:  Thứ nhất, cần phải tăng cường chủng loại hàng hoá vốn dĩ đang rất nghèo nàn bằng các

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfNghiệp vụ thị trường mở - Thực trạng và giải pháp phát triển ở Việt Nam.pdf
Tài liệu liên quan