Đối tượng phản ánh của phóng sự là sự kiện, hiện tượng hoặc một con người, tập thể người tiêu biểu, điển hình có ý nghĩa xã hội nhất định. Cho nên, ngôn ngữ của nhân vật được sử dụng trong bài phóng sự là hết sức cần thiết, được coi như những bằng chững xác thực, cụ thể, có thể thay lời tác giả khi tác giả “ẩn” đằng sau sự kiện. thành phần ngôn ngữ nhân vật được sư dụng trong bài phóng sự với tỷ lệ lớn so với các thành phần ngôn ngữ khác. Có những bai phóng sự chủ yếu là lời nhân vât – người trong cuộc kể, đánh giá, lý giải về toàn bộ sự việc như: Tôi đi bán tôi, Lời khai của bị can tuy nhiên, lựa chọn và sử dụng lời nói của nhân vật sao cho đúng chỗ, đủ dung lượng và có sức thuyết phục là do cái “tài” của nhà báo.
Tóm lại, các thành phần ngôn ngữ được sử dụng xen kẽ trong bài phóng sự sao cho “đắc địa” dung lương các thành phần ngôn ngữ này tùy theo ý tưởng sáng tạo của nhà báo và tính chất của đối tượng phản ánh. Tuy nhiên, việc cá thể hóa các thành phần ngôn ngữ trong bài phòng sự là yêu cầu hàng đầu đối với người làm phóng sự.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10523 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ngôn ngữ báo chí trong thể loại phóng sự trên báo mạng điện tử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ạt, cấu trúc tin, bài như thế nào để hướng sự liên tưởng của độc giả, khan giả, thính giả theo chủ đích của mình, không tạo ra những liên tưởng có hại cho bài báo. Đối với người nhận tin, quan hệ này có tác động như một người kiểm tra bài báo. Bằng vốn kiến thức, vốn sống của mình người nhận tin bao giờ bao giờ cũng có khát vọng hiện diện trong bài báo.
PHÓNG SỰ
Sơ lược về sự hình thành và phát triển thể loại phóng sự
Trên Thế Giới
Trong các thể loại báo chí, có một thể loại mà ngay từ khi mới ra đời đã thu hút được đông đảo sự quan tâm của công chúng và là mối lo ngại của chính quyền. Đó chính là thể loại phóng sự. Là đứa con của báo chí cho nên không phải ngay từ khi báo chí xuất hiện thể loại phóng sự đã ra đời. Theo các tài liệu nghiên cứu về báo chí và truyền thông thì phóng sự ra đời lần đầu tiên ở Châu Âu vào cuối thế kỉ XIX, gắn liền với sự thắng lợi của cuộc đấu tranh vì tự do báo chí dài suốt 3 thế kỉ và sự phát triển vượt bậc của tư tưởng dân chủ, tiến bộ ở các nước phương Tây.
Ở Việt Nam
Có ý kiến cho rằng vì báo chí xuất hiện ở nước ta khá muộn so với thế giới cho nên thể loại phóng sự cũng xuất hiện cùng với sự xuất hiện của báo chí năm 1865, nhưng phóng sự mới thực sự lộ diện vào những năm 30 của thế kỉ XX với những lý do sau:
Phong trào Duy Tân, du học sang các nước phương Tây đã làm thay đổi bộ mặt báo chí nước nhà, liên tục những cuộc cải cách lớn trên báo chí được thực hiện do các trí sĩ đã được tiếp cận với nền văn hóa phương Tây hiện đại.
Lịch sử dân tộc ta ở thời điểm này đang có nhiều những biến động quan trọng. Bọn Đế quốc liên tục khủng bố cách mạng và đàn áp dân chúng; nhu cầu thông tin liên tục của quần chúng nhân dân làm cho thể loai phóng sự trở thành một thể loại chính của báo chí lúc bấy giờ.
Các trường đào tạo học sinh, sinh viên được xây dựng cả về chất lẫn về lượng. Đây là một lý do quan trọng thúc đẩy sự phát triển của báo chí, đặc biệt khả năng tiếp nhận thông tin của công chúng cũng có nhiều thay đổi quan trọng. Mọi người không còn hứng thú với những câu hỏi hư cấu, lãng mạn nữa mà lối viết tường thuật, kể và miêu tả lại sự kiện làm cho độc giả hứng thú hơn.
Mới chỉ khoảng hơn 70 năm xuất hiện ở Việt Nam nhưng Phóng sự đã có những bước tiến dài về thể loại. Càng ngày Phóng sự càng đi sâu vào những vấn đề thời sự cập nhật, được thể hiện ngắn gọn nhưng nhiều thông tin nhanh, gấp gáp của thời đại.
Thể loại phóng sự
Khái niệm
Phóng sự là kể lại một câu chuện có thật một cách ngắn gọn, chính xác, các chi tiết tập trung trả lời câu hỏi: Cái gì? Xảy ra ở đâu? Xảy ra như thế nào? Tại sao? Mức độ ảnh hưởng như thế nào?.
Ngoài ra, còn có một quan niện nữa về phóng sự đó là coi phóng sự là một thể loại báo chí mang bản chất tổng hợp, kế thừa phong cách sáng tạo của tất cả các thể loại báo chí khác như Tin, Phỏng vấn, Tường thuật, Điều tra và cả văn học.
Khái niệm:
Phóng sự là một thể loại báo chí quan trọng, thông tin cụ thể và sinh động về con người, sự việc, tình huống, hoàn cảnh có thật, có ý nghĩa thời sự, theo một quá trình phát sinh – phát triển, thông qua cái tôi – tác giả và ngôn ngữ, giọng điệu linh hoạt, với bút pháp mô tả, tường thuật kết hợp với nghị luận.
Đặc điểm cơ bản của phóng sự
Đối tượng phản ánh là việc thật, người thật tiêu biểu, có ý nghĩa xã hội.
Ưu thế của phóng sự là đi sâu khám phá số phận một con người, một tập thể người có tính chất điển hình trong hoàn cảnh điển hình.
Cũng là phản ánh “việc thật” nhưng phóng sự không dừng lại ở hình thái phản ánh giản đơn mà còn làm rõ bản chất bên trong của sự kiện, giúp công chúng không những biết nó xảy ra mà còn hiểu nguyên nhân “tại sao” lại xảy ra. Phóng sự luôn bám sát vào một nhân vật hoặc một sự việc cụ thể để từ đó xây dựng nên cấu trúc riêng của mình.
Phản ánh hiện thực khách quan trong quá trình vận động biện chứng phát sinh – phát triển; nguyên nhân – kết quả, lượng – chất.
Cuộc sống bao hàm các sự vật, hiện tượng khác nhau, nhưng chúng luôn nằm trong quy luật của sự vận động, quy luật thống nhất đấu tranh giữa các mặt đối lập. Thể loại phóng sự có khả năng sắp xếp, ngăn ô các dữ kiện, dồn nén thông tin của cả quá trình biến đổi từ lượng sang chất, vận động theo nhiều chiều, nhiều tầng, diễn ra trong một chu kì thời gian nhất định.
Phóng sự sử dụng kết cấu, ngôn ngữ và bút pháp tạo ra sự uyển chuyển trong quá trình tiếp cận thông tin.
Đây được cho là sự kế thừa các tinh hoa của văn học và các thể loại khác. Nó được thể hiện ở một số mặt cụ thể sau:
Kết cấu: Phóng sự được tác giả “nhào nặn” rất linh hoạt phụ thuộc vào đối tượng phản ánh và ý đồ riêng của tác giả. Các kết cấu được sử dụng thường chặt chẽ và logic, hoàn chỉnh và rõ ràng, chất phác và bình dị. Thời gian luôn được sắp xếp theo những trật tự tuyến tính nhất định. Nó chi phối nội dung và sự sáng tạo của tác giả.
Ngôn ngữ: là phương tiện biểu đạt và biểu cảm chủ đề cũng như nội dung của phóng sự. Ngôn ngữ phóng sự phải chính xác, hàm xúc và biểu cảm; phải là ngôn ngữ của nhân dân, đa diện, đa góc độ để tạo sự sinh động cho bài phóng sự.
Các bút pháp thường được sử dụng nhiều nhất đó là mô tả, thuật, kết hợp với bút pháp nghị luận.
Về các biện pháp tu từ: trong thể loại phóng sự các biện pháp như: so sánh, tương phản, ẩn dụ, châm biếm, hài hước… luôn được sử dụng một cách triệt để.
Vai trò của cái tôi trong phóng sự thường xuất hiện với 3 tư cách và 2 vai trò chính:
Tư cách:
Nhân chứng khách quan: người khám phá ra sự kiện, theo dõi, điều tra…
Thẩm định khách quan: kiểm tra tư liệu, nguồn để đảm bảo độ chính xác của thông tin.
Khâu nối dữ liệu, các chi tiết, chi tiết rời rạc thành một tác phẩm phóng sự hoàn chỉnh và sử dụng ngôn ngữ phù hợp.
Vai trò:
Người dẫn chuyện: có thể trực tiếp xuất hiện với chủ thể “tôi”, tác giả cũng có thể lấy mình ra để đối trọng với hiện thực như người trong cuộc để tăng sự sâu sắc của bài phóng sự.
Người định hướng: Lựa chọn, sắp xếp chi tiết, chọn lời nói, ngôn ngữ phù hợp với ý đồ sắp xếp của mình, tạo ra sự khách quan trong nhận thức và sự tiếp thu của công chúng.
NGÔN NGỮ PHÓNG SỰ
Sơ lược về ngôn ngữ phóng sự
Ngôn ngữ là phương tiện biểu cảm và biểu đạt cụ thể chủ đề, chủ đề tư tưởng của tác phẩm Phóng sự. Để lựa chọn, sử dụng ngôn ngữ cho đúng, trúng và hay trong tác phẩm Phóng sự, nhà báo phải xem xét tính chất, quy mô của đối tượng phản ánh, trình độ của đối tượng tiếp nhận thông tin và loại hình phương tiện thông tin đại chúng chuyển tải bài Phóng sự đó.
Đặc tính cơ bản của ngôn ngữ Phóng sự: chính xác và hàm súc biểu đạt nội dung
Phóng sự là phản ánh hiện thực một cách chân thật, khách quan, cho nên, các phương tiện ngôn ngữ được sử dụng trong Phóng sự thường chính xác và khách quan. Tính chính xác thể hiện ở chỗ: ngôn ngữ Phóng sự phải biểu đạt đúng bản chất sự vật, hiện tượng trong từng thời khắc nhất định, trong từng bối cảnh cụ thể, nhằm tạo ra một văn bản đơn nghĩa, dễ hiểu. Mặt khác, Phóng sự phải miêu tả, kể lại câu chuyện một cách cô đọng, logic và hàm súc. Tính hàm súc của ngôn ngữ Phóng sự nảy sinh từ yêu cầu: phải cung cấp một lượng thông tin cao, không có dư thừa về con người và sự kiện trong một diện tích ngôn ngữ hạn hẹp trên trang báo, trên sóng… cho nên cần phải dùng từ sao cho đắt nhất, có giá trị biểu đạt cao nhất. Cung cấp thông tin một cách chính xác và hàm súc, có nghĩa là ngôn ngữ đã thực hiện được chức năng giao tiếp lý trí có hiệu quả cao nhất.
Biểu cảm: Trong phóng sự ngôn ngữ còn có giá thể biểu đạt chân thực những trạng thái tình cảm, cảm xúc tâm lý, thái độ, ý kiếm của đối tượng được miêu tả và của chính tác giả, có thể tác động đến nhận thức, tình cảm của đối tượng tiếp nhận thông tin, khiến cho đối tượng tiếp nhận thông tin cũng nảy sinh cảm xúc, tình cảm, thái độ như “đối tượng được miêu tả” và tác giả. Như vậy, người tiếp nhận thông tin không chỉ được nhận thông tin mà còn như được chứng kiến, tham gia vào sự kiện (vui, buồn, lo âu…) với tư cách của “người trong cuộc”, có nghĩa là, ngôn ngữ đã thực hiện tốt chức năng tác động vào tâm lý tiếp nhận thông tin của người đọc, thông qua tình cảm mà hướng dẫn nhận thức, thôi thúc hành động của con người. Điều này khẳng đinh thế mạnh hơn hẳn của thể loại phóng sự so với các thể loại khác.
Ngôn ngữ của phóng sự phải là ngôn ngữ của nhân dân: đúng, rõ, sinh động, hình ảnh sạch, gon và dễ hiểu.Buêtsgơ đã viết: “ Việc sử dụng từ ngữ cũng hoàn toàn phục vụ cho mục đích là không lên lớp cho người xem, không mớm lời cho nhận thức”.
Ngôn ngữ trong tác phẩm được thể hiện ở các mặt:
Cấp độ từ: Chủ yếu dùng danh từ, động từ và trạng từ, ít sử dụng tính từ, hình dung từ.
Cấp độ câu: Kết hợp giữa câu đơn và câu phức hợp tạo ra câu văn mạnh hoặc trùng điệp, chuyển tải ý tưởng lượn sóng.
Cấp độ văn bản: Thường là một văn bản trọn vẹn, thống nhất giữa nội dung và hình thuéc, đủ các thành phần: đầu đề, giới thiệu vấn đề, giải quyết vấn đề, kết thúc vấn đề, tên tác giả.
Các thành phần ngôn ngữ trong phóng sự:
Căn cứ để phân loại
Xem xét tác phảm phóng sự dưới góc độ là một văn bản hoàn chỉnh thì đã có nhiều cách phân chia thành phần ngôn ngữ khác nhau. Có người căn cứ vào sắc thái ngôn ngữ để chia ngôn ngữ phóng sự thành: ngôn ngữ thông tin và ngôn ngữ biểu cảm; có người lại căn cứ vào tính chất thông tin được chuyển tải trong phóng sự thì chia thành: ngôn ngữ thông tấn, ngôn ngữ hình ảnh, ngôn ngữ lý lẽ. Mỗi cách phân chia đều có lý riêng nhưng cùng có điểm chung khi nhìn nhận vai trò của các thành phần ngôn ngữ trong việc tạo ra một văn bản phóng sự có nghĩa, có hiệu quả cao trong cuộc sống. Ở đây chúng tôi muốn tiếp cận ở một góc nhìn khác để chia thành phần ngôn ngữ phóng sự. Đó là căn cứ vào các chủ thể phát ngôn, có nghĩa là các đơn vị lời nói của các chủ thể “kể” về sự kiện chính từ nhiều góc độ.
Theo Vũ Trọng Phụng “ Phóng sự là một thiên truyện kể mà nhà báo đã từng mắt thấy tai nghe” thì đơn vị lời nói – lời kể về sự kiện của nhà báo là chính, trong quá trình “kể” nhà báo có ửu dụng “đơn vị lời nói” lời kể của các nhân chứng trong và ngoài sự kiện; các chi tiết nguyên dạng về diễn biến chính của sự kiện bản thể - có thể xem đó như lời “kể” của tự thân sự kiện bản thể với cách tiếp cận này thì ngôn ngữ phóng sự gồm 3 thành phần chính: ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ sự kiện. Tất nhiên sự phân chia này chỉ là tương đối bởi các thành phần ngôn ngữ này cũng chỉ là cái “vỏ” là “công cụ để tư duy”, là “phương tiện để giao tiếp” của con người. Tuy nhiên, sự đan xen hòa quyện chặt chẽ giữa các thành phần ngôn ngữ này tạo cho phóng sự có một năng lực phản ánh hiện thực đặc biệt mà không thể loại báo chí nào có được.
Các thành phần ngôn ngữ phóng sự :
Ngôn ngữ sự kiện:
Trước hết, phản ánh được xem là thuộc tình phổ biến của vật chất. Mỗi sự kiện hiện tượng sảy ra trong cuộc sống là khách quan, chúng tự phản ánh như phản chiếu của chiếc gương khi sự kiện bản thể đó được nhà báo nhận thức, phản ánh trong tác phẩm phóng sự thì bản chất khách quan của sự kiện đó vẫn không bị mất đi mà nó chuyển tải nguyên dạng chân thật qua “vỏ ngôn ngữ” chính xác cô đọng và hàm súc. Như vậy, có thể hiểu ngôn ngữ sự kiện chính là phát ngôn vô chủ thể, nói cách khác: là toàn bộ thông tin sự kiện được “vỏ ngôn ngữ” chuyển tải nguyên dạng ( gồm: con số, bảng biểu, hồ sơ…) ngôn ngữ sự kiện chủ yếu được sử dụng dưới dạng biểu đạt thông tin, thường “ trung tính” về sắc thái biểu cảm.
Mặc dù ngôn ngữ sự kiện mang đặc tính thông tin là chủ yếu, vừa chính xác vừa khách quan nhưng khi được chọn, sắp xếp đúng chỗ trong chỉnh thể bài phóng sự thì nó lại mang một nghĩa cụ thể, chuyển tải “cái hồn” của bài phóng sự. Như vậy, ngôn ngữ sự kiện có phát huy được hiệu quả hay không là tùy thuộc vào tài năng tư duy của người viết phóng sự đã chọn và sắp xếp nó vào đúng chỗ cần có.
Ngôn ngữ tác giả:
Trong bài phóng sự, ngôn ngữ tác giả có thể hiểu là ngôn ngữ người kể chuyện đóng một vai trò hết sức quan trọng: vai trò tổ chức và chỉ đạo đối với ngôn ngữ toàn tác phẩm.
Ngôn ngữ tác giả được sử dụng trong tác phẩm phóng sự dưới 2 dạng: trực tiếp và gián tiếp
Trực tiếp: với đại từ nhân sưng ngôi thứ nhât “tôi” vừa mang tính chủ quan vừa mang tính khách quan. Khách quan ở chỗ: cái tôi chỉ đóng vai trò là nhân chứng lịch sử để trình bày lại những gì “ mắt thấy, tai nghe”. Ở vai trò phát ngôn này, ngôn ngữ tác giả tạo ra sự tin cậy về độ chính xác, khách quan của thông tin. Tác giả có thể kể , có thể dẫn dắt, có thể trực tiếp đối thoại cùng nhân chứng trong sự kiện, có khi độc thoại, giễu cợt với chính mình trước một thực tế khách quan nào đó. Cái tôi mang tính chủ quan thể hiện ở cách chọn chi tiết, chọn ngôn từ để biể đạt chính kiến, cách nhìn về sự vật hiện tượng theo cá tính độc đáo của riêng mình. Đó là phong cách sáng tạo riêng, nó tạo cho mỗi bài phóng sự là một thế giới khác biệt.
Gián tiếp: có nghĩa à tác giả ẩn đi, lùi xa như thể đứng ngoài sự kiện để tỉnh táo lý trí dẫn dắt câu chuyện theo mục đích dẫn dắt của mình. Những bài phóng sự không thấy chủ thể phát ngôn – cái tôi tác giả trực tiếp xuất hiên – không có nghĩa là không có ngôn ngữ tác giả.
Thực chất đó chỉ là thủ pháp nghệ thuật để phản ánh hiện thực một cách khách quan. Thông qua việc lựa chọn chi tiết, sắp đặt các tình tiết theo một hệ thống, khâu nối các dữ kiện để bộc lộ thái độ, cách nhìn nhận, đánh giá đúng bản chất của sự vật hiện tượng, mục đích chính của “ cái tôi ẩn” muốn xóa đi mối mặc cảm bị áp đặt nhận thức cho độc giả.
Dù xuất hiện trực tiếp hay gián tiếp, cái tôi – tác giả cũng là chủ thể bộc lộ cá tính sáng tạo trong việc sử dụng “vỏ ngôn ngữ” để chuyển tải mục đích của minhg. Ngôn ngữ tác giả là phương tiện tối ưu đêt “mềm” hóa thông tin, tạo ra sự góc cạnh trong cách tiếp cận hiện thực, tạo ra sự đồng cảm của công chúng tiếp nhận thông tin, tạo ra thông tin có tính chất định hướng mà lại không khiên cưỡng. Chính vì vậy ngôn ngữ tác giả là một ưu thế đặc biệt của thể loại phóng sự.
Ngôn ngữ nhân vật:
Đối tượng phản ánh của phóng sự là sự kiện, hiện tượng hoặc một con người, tập thể người tiêu biểu, điển hình có ý nghĩa xã hội nhất định. Cho nên, ngôn ngữ của nhân vật được sử dụng trong bài phóng sự là hết sức cần thiết, được coi như những bằng chững xác thực, cụ thể, có thể thay lời tác giả khi tác giả “ẩn” đằng sau sự kiện. thành phần ngôn ngữ nhân vật được sư dụng trong bài phóng sự với tỷ lệ lớn so với các thành phần ngôn ngữ khác. Có những bai phóng sự chủ yếu là lời nhân vât – người trong cuộc kể, đánh giá, lý giải về toàn bộ sự việc như: Tôi đi bán tôi, Lời khai của bị can…tuy nhiên, lựa chọn và sử dụng lời nói của nhân vật sao cho đúng chỗ, đủ dung lượng và có sức thuyết phục là do cái “tài” của nhà báo.
Tóm lại, các thành phần ngôn ngữ được sử dụng xen kẽ trong bài phóng sự sao cho “đắc địa” dung lương các thành phần ngôn ngữ này tùy theo ý tưởng sáng tạo của nhà báo và tính chất của đối tượng phản ánh. Tuy nhiên, việc cá thể hóa các thành phần ngôn ngữ trong bài phòng sự là yêu cầu hàng đầu đối với người làm phóng sự.
Về Bút Pháp
Mô tả: dùng từ ngữ hình ảnh để mô tả không gian, thời gian, hình dáng con người, diễn biến câu chuyện, các xung đột trong hành động.
Thuật: kể câu chuyện có thật theo ý đò, góc độ đã chọn hoặc diễn biến trình tự của sự kiện bằng các chi tiết, tình tiết, nhân chứng.
Kết hợp bút pháp nghị luận: khi cần phải có chính kiến, tỏ thái độ trước hiện thực khách quan thì sử dụng lý lẽ để lý giải hoặc khẳng định vấn đề.
Về các biện pháp tu từ
Phóng dự có thể triệt để sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, tưởng phản, ẩn dụ, liên tưởng châm biếm hài hước mà các thể loại báo chí khác rất hạn chế hoặc hoàn toàn không cho phép sử dụng.
Tóm lại kết cấu chặt chẽ, quan hệ logic giữa các bộ bận của tác phẩm; ngôn ngữ gọn sạch mà không quá đơn sơ, giản dị mà không dung tục, tô điểm mà không rườm rà – đó là thế mạnh của phóng sự.
Cái tôi – tác giả trong phóng sự
Với 3 tư cách:
Nhân chứng khách quan: là người khám phá ra sự kiện, theo dõi, điều tra, nghiên cứu, hỏi han các nhân chứng trong sự kiện.
Thẩm định khách quan: kiểm tra tư liệu qua nhiều ngồn để đảm bảo sự chính xác, chân thật, pháp lý hóa chứng cứ thông tin trước khi đưa vào bài để đảm bảo tư cách pháp lý của chứng cứ, tư liệu.
Khâu nối dữ liệu, tình tiết, chi tiêt rời rạc thành một tác phẩm phóng sự hoàn chỉnh và sử dụng ngôn ngữ phù hợp: để tạo giọng điệu phù hợp với tính chất sự kiện và tâm lý của đối tượng tiếp nhận thôi tin.
Với 2 vai trò:
Người dẫn chuyện: có thể xuất hiện trực tiếp với đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất “tôi” cũng có thể ẩn mình trong sự kiện mà dẫn dắt câu chuyện mà mình đã “mắt thấy, tai nghe”. Cũng có thể tác giả lấy mình ra để đối trọng với hiện thực như người trong cuộc, cũng có thể “lùi xa” sự kiện để “nhìn” sự kiện một cách lý trí hơn.
Người định hướng nhận thức cho bạn đọc: lựa chọn, sắp xếp chi tiết, chọn lời noi, nhân chứng phù hợp ý đồ sáng tạo của mình, tạo ra sự khách quan trong nhận thức, tiếp thu sự thật của bạn đọc.
“Hãy làm cho người đọc thú vị nếu đồng thời bạn cũng làm cho mình thích thú”…
Như vậy, người viết phóng sự không chỉ là nhân chứng khách quan để “kể” chuyện người mà đôi khi cũng còn là “người trong cuộc” để xem lại mình trong mối quan hệ chung với xã hội, phải chịu trách nhiệm về chính mình và bài viết của mình trước dư luận xã hội. Điều đó buộc người viết phóng sự phải thật thận trọng khi “nhập cuộc”. Tuy nhiên, phóng sự hiện đại ở Tây – Âu và các nước khác thường không sử dụng cái tôi – tác giả ở ngôi thứ nhất, trực tiếp, thậm chí, tác giả phóng sự cũng rất ít khi bình, bàn, kiến nghị giải pháp, để giải quyết vấn đề thực tiễn như phóng sự nước ta thường làm. Họ thường tỏ ra khách quan bằng cách “ẩn” mình sau sự kiện, để sự kiên “nói” điều cần nói theo ý đồ của tác giả.
KHẢO SÁT NGÔN NGỮ PHÓNG SỰ
(Khảo sát phóng sự trên báo Tienphongonline.com)
Ngôn ngữ viết
Sử dụng ngôn ngữ phản ánh
Bài phóng sự: “Mỗi năm, trăm ngày chạy sóng” – Việt Hương, số ra ngày 04 Tháng 12 Năm 2009
Nội dung: là bài phóng sự phản ánh nỗi lo của người dân ven biển Nhơn Lý – Bình Định, trước hiểm họa thủy chiều xâm lấn đất liền. Họ ngày ngày đối mặt với tử thần mà không biết làm cách nào để thoát khỏi, chỉ còn biết trông chờ ở sự quan tâm của chính quyền tỉnh mong sớm được di dân.
Ngôn ngữ được sử dụng nhiều nhất là ngôn ngữ phản ánh: vấn đề được đưa ra ở nhiều góc độ từ “Nửa đêm cả làng chạy sóng” đến “Hiểm nguy rình rập” . Tác giả khai thác vấn đề ở góc độ và cái nhìn thực tế thông qua những lời tâm sự của người dân nơi đây:
“Ở đây, ai cũng phải tự sắm cho mình một chiếc Radio - vật bất ly thân của mỗi gia đình, để theo dõi thời tiết. Hầu như dân ở đây sợ chết khiếp cảnh triều cường lên, cào luôn cả bờ kè lẫn nhà ở rồi, cứ đến nửa đêm cả làng nhốn nháo bỏ của chạy lấy người”, chị Ngô Thị Thanh Lan, 42 tuổi trú thôn Lý Chánh, xã Nhơn Lý nói.
Chị Ngô Thị Lẹ, 50 tuổi kể: “Ban ngày trông còn đỡ, đêm xuống chưa đêm nào được trọn giấc hết. Cứ mỗi lần triều cường dâng là đêm đó cả làng nhốn nháo, khuân được cái gì bên mình thì khuân, có khi cuống cuồng chỉ kịp vơ vội chiếc áo khoác mà chạy”.
Vấn đề trở nên nổi cộm và khẩn thiết hơn qua những đoạn trích này. Tác giả xoáy sâu vào nỗi lo của những cá nhân đặc biệt là đối tượng trẻ em:
Cháu Nguyễn Thị Bé, học sinh lớp 5 thỏ thẻ: “Nhà cháu luôn bị sóng biển chạy ào vô cả khi cháu ngồi học, còn lúc đêm thì cháu không biết gì cả, ba mẹ bế chạy đi đâu cháu không biết, chỉ biết có lúc sáng dậy cháu thấy mình đang ở trên nhà chùa”.
Tác giả có trích dẫn những số liệu thực tế minh họa cho vấn đề:
Toàn xã có gần 300 hộ dân, thuộc 4 thôn Lý Hòa, Lý Hưng, Lý Chánh và Lý Lương đang có nhà sinh sống ngoài mặt biển, trong đó trên 100 hộ thuộc diện ảnh hưởng trực tiếp cần phải di dời gấp.
Riêng thôn Lý Chánh có trên 30 hộ, Lý Hòa khoảng 25 hộ dân bị đe dọa trực tiếp. Hai thôn này nằm sát vách đá của bờ biển và chia ranh giới bởi con đường kéo dài từ trung tâm xã ra bến đỗ tàu thuyền nên mỗi lần sóng đánh là làm vỡ luôn từng mảng đất đá bên mép núi.
Như vậy, trong tác phẩm này nhờ những thủ pháp biểu đạt ngôn ngữ dưới dạng chữ viết đã làm bật lên vấn đề cấp thiết của một bộ phận người dân tỉnh Bình Định. Tác giả không cầu kỳ, trau chuốt trong sử dụng ngôn từ mà ngôn ngữ chính mang tính chất đại chúng rất cao.
Ngôn ngữ biểu cảm
Bài phóng sự: “Gánh hàng rong vơi, giọt nước mắt đầy” - Phương Hiếu - Hải Yến, số ra ngày 03 tháng 12 năm 2009
Nội dung: Bài phóng sự là câu chuyện của người mẹ có con là những “sát thủ tuổi teen”. NHững giọt nước mắt lăn trên bờ má người mẹ già làm thấm ướt lòng độc giả nỗi cảm thông sâu sắc của người mẹ trẻ.
Ngôn ngữ miêu tả:
Mẹ của cô gái vị thành niên ở Hà Nội đối mặt với tội danh giết người vừa tiếp tế cho con từ trại tạm giam trở về. Trong căn nhà cấp bốn đi thuê ẩm thấp, nấc nghẹn trong tiếng khóc và luôn nhận lỗi lầm về mình.
Đoạn miêu tả ngay ở phần lead này có sức truyền cảm ghê gớm. Nó không chỉ kích thích sự tò mò độc giả mà còn tạo ra chiều sâu của nhân vật phóng sự.
Trong căn phòng trọ cấp bốn ẩm thấp cuối ngõ 75 Trần Khát Chân, chị Xíu đang được hai người phụ nữ cùng bán hàng rong động viên chia sẻ. Khuôn mặt thất thần, mắt đỏ hoe, vừa nói vừa nấc nghẹn, người phụ nữ mệt mỏi và tàn tạ thốt lên: "Tất cả là do lỗi của người làm cha, mẹ đã không dành thời gian dạy bảo con đến nơi đến chốn. Vì lo cuộc sống, mải mê kiếm tiền, mà không lo cho con để con hư hỏng, tôi ân hận lắm...".
Hai bàn tay người mẹ bất hạnh chi chít những nốt sẹo nhỏ do bỏng mỡ, những móng tay đen cáu lại vì nhựa khoai cứ xoắn chặt vào nhau. Chốc chốc, chị lại thốt lên: "Con ơi, con phạm tội mẹ đã đau đớn đến thế này. Vậy nhà người ta mất con còn đau đớn đến mức nào nữa hả con? Các cô ơi, cho tôi gửi ngàn lần xin lỗi đến gia đình người bị hại nhé!" Rồi chị lại khóc nức nở.
Đến đây, tác giả ngoài việc miêu tả chân dung nhân vật mà còn trích kèm những lời tâm sự nghẹn ngào của chính nhân vật. Đây là dụng ý của tác giả nhằm biểu đạt nỗi cảm thông với người mẹ; đồng thời làm tăng 2 lần cảm xúc và sự rung động trong lòng độc giả.
Gạt nước mắt, người phụ nữ thì thào "Vài ngày nữa tôi phải gượng dậy đi bán hàng để tích cóp tiền lo cho gia đình nạn nhân. Con dại, cái mang, lỗi do tôi không dạy dỗ nó nên người. Lúc nãy gặp nó mới thấy nó sợ hãi, khóc lóc và luôn lời xin lỗi tôi. Tôi biết làm sao bây giờ?"
Đoạn kết lại là một câu trích dẫn lời tâm sự của nhân vật, không thể phủ nhận sư âm sâu ra từ cái câu kết nhẹ nhàng này. “Con dại cái mang” làm bạn đọc thấm thía hơn nỗi đau vô vàn của người mẹ nghèo và muốn đồng cảm sẻ chia với họ.
Ngôn ngữ diễn giải
Bài phóng sự: “Từ chuyện 2,1 kg vàng đến truyền thuyết kho báu” - Quang Long - Diễn Hải, số ra ngày 02 tháng 12 năm 2009.
Nội dung: bài phóng sự kể về câu chuyên anh Lô Văn Ối nhặt được cục vàng 2,1kg khi đi làm rẫ. Bỗng chốc từ một người lao động nghèo trở thành triệu phú. Từ đó tác giả liên hệ với câu chuyện truyền thuyết về kho báu trên đỉnh khe Bu.
Ngôn ngữ sử dụng trong bài phóng sự này là ngôn ngữ kể có xen miêu tả và hàm chứa sức gợi, liên tưởng lớn. Ngay từ phần lead tác giả đã muốn hướng người đọc về truyền thuyết kho báu ở khe Bu “Cục vàng nặng 2,1 kg tôi nhặt được trong lúc đi rẫy, chứ không phải đào được”. Việc anh Ối nhặt được vàng khiến nhiều người nhớ đến truyền thuyết về kho báu trên đỉnh khe Bu (Yên Hòa, Tương Dương, Nghệ An).
Dọc theo chiều bài viết là những cung bậc ngôn ngữ giản dị đại chúng nhưng lại có hơi hướng và bản sắc địa phương:
Cúi xuống bên khe suối dùng tay vốc nước lên miệng để uống, Ối thoáng thấy một cục đá to hình cây nấm nở xòe ngả màu vàng xám giữa lòng suối. Anh tiến đến, nhặt lên xem rồi lại vứt xuống.
“Nó nặng khác thường. Biết đâu mình lại nhặt được vàng!”, một tia hy vọng chợt lóe lên trong đầu. Ối tiến đến gần cục đá. Cầm nó trên tay, anh Ối dùng móng tay cào cào trên bề mặt mấy cái.
Hình thức gợi liên tưởng và giải quyết vấn đề mê tín:
Một số người dân bản đã lên đó tìm kho báu và tình cờ phát hiện vài nơi chôn cất vàng. Đem về nhà, chưa kịp mừng vui thì lăn ra ốm chết một cách bí hiểm. Một vài người sau đó cũng gặp tình cảnh tương tự khi đi tìm kho báu!”.
Theo truyền thuyết, trong mỗi chum vàng, các địa chủ thuê thầy mo yểm bù
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ngôn ngữ báo chí trong thể loại phóng sự trên báo mạng điện tử.doc