Vùng đất này là lợi địa của một thế kỷ rưỡi vương triều và như vậy đã xây đắp những giá trị tập quyền, hình thành những nếp gấp trong suy nghĩ, đời sống, phong cách ăn và mặc, nói năng, ứng xử
Các vương tôn công tử, do giáo dục trong hoàng tộc hoặc từ trong gia đình, thể hiện một phong cách sống lắm lúc không thật sự tự nhiên mà phải luôn giữ kẻ, nhất là khi là khi ra mắt công chúng, phải giữ một vẻ bề ngoài phần nào xa cách, hay cao cách, tối thiểu là kín đáo, ung dung, không bộc trực, bộc phát, và ngay cả đến thất thế, sa cơ vẫn “giấy rách phải giữ lấy lề”. Kinh đô Huế làm nảy sinh nơi người ta nương tình gọi là “đài các”, tức là một vẻ cao sang, mơ hồ nào đó, nhưng các đài các này không khu biệt trong vòng hoàng thành mà còn lan tỏa trong dân gian. Từ ấy các đài các ấy còn rẽ riêng một nét tinh mà người tại chỗ gọi là tính “đài lệ”, có nghĩa là một sự giữ kẻ, giữ ý, và luôn cả một tính cách mà người ta gọi là “đế đô”.
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3244 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ngôn ngữ thể hiện trong văn hóa Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho người dân nơi đây một phong thái thanh tao, cao nhã nhưng rất đằm thắm, nhẹ nhàng, điều này không chỉ có ở những phi tần, mỹ nữ, những vương tôn quý tử trong Hoàng thành mà còn lan tỏa trong tầng lớp nhân dân. Cái phong thái cao nhã ấy nó ẩn hiện ngay từ tiếng “dạ, thưa” mềm mại từ cái dáng đi nhẹ nhàng uyển chuyển trong chiếc áo dài tím thướt tha, để giờ đây Huế như một viên ngọc tím huyền ảo mà ai cũng biết tới.
Những ai đã đến Huế, đã nói chuyện với người dân nơi đây hẳn sẽ thấy ngay được ở họ sự thân thiện, mến khách và rất nhiệt thành. Mặc cho thời gian có qua đi nhưng nghe tiếng “dạ”, tiếng “thưa” nhẹ nhàng dễ nghe thì ai cũng có thể nhận ra giọng Huế - người Huế như lời bài hát “Tình yêu từ chiếc nón Bài Thơ, từ giọng nói ấm trầm sâu lắng lạ”. Và có lẽ thế mà người Huế có tiếng hát cũng mượt mà và đằm thắm hơn ai hết. Lên thuyền Rồng dạo trên sông Hương vào buổi tối mát rượi mùa hè để nghe Nhã nhạc cung đình Huế hẳn sẽ khó lòng quên được cái thiết tha, sâu lắng trong mỗi câu ca.
Con người Huế dù đi đâu về đâu thì hình ảnh khắc sâu trong tâm khảm họ chính là chiếc áo dài. Cho đến những năm 1970, con gái Huế ra khỏi nhà là mặc áo dài, kể cả chị tiểu thương ở chợ hoặc bà bán hàng rong. Áo dài Huế không chấm gót như áo Sài Gòn, cổ áo cao vừa phải, có áo cũng thắt đáy lưng ong, nhưng lại không bó quá, tà cũng không xẻ quá cao.
Mặt khác, tìm hiểu về người Huế ta còn có thể thấy được nét đẹp trong tư chất của họ. Vùng đất kinh đô xưa đã từng là cái nôi nuôi dưỡng những nhân tài như Nguyễn Huệ, Phan Bội Châu, Nguyễn Tất Thành, Tố Hữu…nơi đây vừa đào tạo, rèn luyện con người, vừa là môi trường lí tưởng để hun đúc bồi dưỡng tư chất cho tuổi thanh niên, lập nghiệp. Cho đến bây giờ Huế vẫn là nơi ươm mầm cho những tài năng trẻ, đưa Huế trở thành trung tâm văn hóa lớn của cả nước. Một điều trong tính cách con người xứ Huế mà không thể không nhắc đến đó là sự giao hòa với thiên nhiên cỏ cây. Từ suy nghĩ như vậy nên đa số người Huế chọn cách xây dựng nhà ở của họ là hướng ngoại, trong nhà hay ngoài vườn đều có sự giao hòa với thiên nhiên, điển hình là các nhà vườn truyền thống mà đến Huế chúng ta sẽ có dịp được thưởng ngoạn. Vì vậy, vẻ đẹp tự nhiên của Huế, con người Huế thân thiện, dễ gần, cuộc sống thanh bình, yên tình và điều kiện sống dễ dàng ở Huế chính là những đặc trưng của một thanh phố Việt Nam. Ba yếu tố thiên nhiên, kiến trúc và con người hòa quyện với nhau để tạo thành một trung tâm văn hóa, nghệ thuật đặc thù của dân tộc. Đến Huế, người ta dễ nhận ra được tâm hồn Việt Nam.
CHƯƠNG II :NGÔN NGỮ THỂ HIỆN TRONG VĂN HÓA CỦA HUẾ
2.1 Đặc trưng văn hóa
2.1.1 Lối sống và cách ứng xử
Thừa Thiên Huế từng là một vùng đất định đô của vua chúa suốt nhiều thế kỷ. Về mặt tâm linh và tư tưởng, người dân đa số thấm nhuần Phật giáo và Nho giáo. Trong khi Phật giáo dẫn đạo tư tưởng ở bình diện trừu tượng và siêu hình, thì Nho giáo thâm nhập trực tiếp hơn vào đời sống hằng ngày của người dân và được xem như một ”đạo làm người” hay như một ”thuật xử thế” đi vào phong tục, tập quán. Điều này được thể hiện ứng xử trong gia đình và ứng xử ngoài xã hội. Đối với việc ứng xử trong gia đình, người dân Huế đặc biệt nặng lòng với gia đình, có khi sống khuôn khổ vào gia đình. Hiện tượng “kín cửa” hoặc “kín cổng cao tường” thường bắt gặp ở Huế nơi những gia đình mệnh danh là đại gia và “hoàng phái” khiến cho con gái trở thành cao giá và con trai thiếu thích nghi với xã hội. Tình trạng này nay đã thuyên giảm nhiều. Trong họ hàng, gọi bà con phía nội là chú (em trai của cha), bác (anh trai của cha), cô hoặc o (chị hoặc em gái của cha), còn phía ngoại là dì (chị hoặc em gái của mẹ), dượng (chồng của dì), cậu (anh hoặc em trai của mẹ).
Khi ứng xử ngoài xã hội thì lại khác, con người ở đây có những cảm nghĩ và hành động nhiều khi đối nghịch nhau, ngay trong ăn uống, nói năng hay trong ứng xử. Huế là một trung tâm của lối ăn chay, tức là ăn nhạt, vậy mà người ở đây lại thích ăn cay. Nói năng từ tốn, điềm đạm (thiếu nữ Huế nổi tiếng dịu dàng, e lệ, rụt rè), nhưng lại quả quyết, dứt khoát. Trong ứng xử, phản ứng đầu tiên được thể hiện bằng tiếng “dạ” nghe như bằng lòng, chấp thuận, nhưng tiếp theo đó là cân nhắc, suy tính. Thanh niên Huế tưởng như qua sông Hương lờ đờ, trầm mặc, vậy mà có thể hành động tiên phong, quyết liệt như đã từng chứng tỏ qua các lần nổi dậy chống áp bức của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Dân nghèo nhưng sang (người ta bảo đó là tính “đài lệ”, tính “đế đô”), ít nói nhưng hay bắt bẻ, lý sự, còn trong lòng chất chứa nhiều nỗi giằng co. Đối với khách, con người Huế thường dè dặt, thận trọng trong lời nói, thái độ , có khi như thiếu cởi mở, nói chung hiếu khách nhưng vẫn mực, có khi bảo thủ, vì e ngại ngộ nhận.
2.1.2 Văn hóa cố đô
Tọa lạc bên bờ sông Hương xanh biếc êm đềm vốn xưa nay vẫn chảy lưng lờ qua lòng đô thị chính là quần thể kiến trúc kinh đô Huế được xây dựng dưới thời triều Nguyễn. Các công trình kiến trúc cung đình không gian kiến trúc, văn hóa truyền thống đô thị Huế gồm các yếu tố cảnh quan môi trường sinh thái đặc trưng của sông hương, núi ngự cộng với di sản kiến trúc cố đô Huế…
Các công trình kiến trúc cung đình và dân gian triều Nguyễn, nhà vườn và kiến trúc thời Pháp. Tổ hợp di sản kiến trúc đó hài hòa, liên kết chặt chẽ với nhau thành một thể thống nhất toàn vẹn, tạo nên vẻ đẹp “dịu hiền pha lẫn trầm tư” đặc trưng của Huế, tạo nên cái hồn Huế được kết tinh qua hàng ngàn năm lịch sử với giá trị toàn cầu của di sản văn hóa thế giới. Huế vùng đất mang nhiều dấu ấn văn hóa lịch sử quan trọng, nưi giao thoa và hội tụ các yếu tố văn hóa miền Bắc, miền Nam và Tây Nguyên. Các thế hệ con người xứ Huế đã tiếp thu những tinh hoa giá trị của nhiều vùng, miền và sáng tạo những giá trị văn hóa riêng đậm đà bản sắc.
Đây cũng là nơi duy nhất ở Việt Nam còn giữ lại được diện mạo của thành phố thị dân thời trung đại với bố cục và cấu trúc không gian điển hình. Đặc biệt, quần thể kiến trúc kinh đô như thành quách, hoàng cung, lăng tẩm, kiến trúc tôn giáo đình,chùa, kiến trúc dân gian nhà rừng – vườn… đều được quy hoạch theo kiến trúc phong thủy phương Đông, hiền hòa với môi trường cảnh quan thiên nhiên cũng rất đặc trưng của vùng đất non xanh, nước biếc. Văn hóa Huế nói chung, kiến trúc Huế nói riêng đã góp phần quan trọng đánh dấu một giai đoạn phát triển văn hóa kiến trúc của dân tộc Việt Nam.
Vẻ đẹp của Huế - thành phố bảo tàng đã được ông Amadou Mahatar Mbow, nguyên tổng giám đốc Unesco đánh giá: Cách cấu tạo tượng trưng của các khoảng không gian khác nhau làm cho Huế trở thành thành phố của sự hài hòa tuyệt diệu, Huế thực hiện được sự tổng hợp đạo và đời trong kiến trúc, tổng hợp được cổ xưa và hiện đại, qua đó cố đô cổ kính chung sống hài hòa với thành phố trẻ ngày nay…
Công trình kiến trúc thành nội Huế là một dấu ấn đặc biệt cuối cùng lịch sử nền quân chủ tập quyền Việt Nam. Nó chứa đựng trong lòng một hệ thống các công trình kiến trúc nguy nga tráng lệ như cung điện, đình chùa, miếu mạo, nhà ở truyền thống các khu dân cư trong kinh thành, sản phẩm thành tựu kiến trúc khéo léo tài ba của những người thợ thủ công Việt Nam đầu thế kỷ XIX. Còn khu lăng tẩm các vua triều Nguyễn là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo hoàn hảo, những khuôn viên thơ mộng trữ tình mang vẻ đẹpkiêu sa, lộng lẫy như một tòa lâu đài bí ẩn lôi cuốn hấp dẫn các nhà khoa học cũng như khách du lịch trong và ngoài nước kiến trúc của dân tộc Việt Nam.
Trong những đặc trưng văn hóa lâu đời của Huế thì sự đa dạng cầu kì trong cách chế biến thức ăn góp phần không nhỏ vào việc hình thành nét riêng xứ Huế. Món ăn giản dị, phông phú, mang hương vị đằm thắm của sản phẩm nơi đồng ruộng, đầm phá, núi sông cố đô song cũng không kém phần sang trọng tinh tế với các bài mang tính nghệ thuật của các món ăn cung đình.
Mặt khác, Huế không có sự tương phản, không có sự ồn ào náo nhiệt của công nghiệp và thương nghiệp lớn. Huế là cả một sự hài hòa giữa thiên nhiên và con người. Chính xác riêng biệt này đã làm xiêu lòng bao người đã là nguồn cảm hứng cho bao thi sĩ và cũng là nền tảng cho một nền ca nhạc Huế với dáng vẻ riêng biệt của nó, mà chỉ riêng ca Huế mới có. Ca Huế chú trọng khai thác kỹ năng đàn và hát những lời thơ trong hát ả đào. Ca Huế là một môn nghệ thuật độc đáo bởi vì không phải ai ca cũng đúng giọng điệu, mà phải là người Huế ca. Sắc thái của ca nhạc Huế là vậy. Một sắc thái của riêng Huế “chẳng nơi nào có được” trong tính cách hài hòa của Huế.
2.2 Ngôn ngữ trong văn hóa Huế.
Tiếng Huế, tuy không phải là một thứ tiếng riêng biệt, và tuy chỉ được nói bởi một số dân không đông chừng vài trăm ngàn người trong khuôn khổ của thành phố nhỏ, lại có tầm quan trọng lớn hơn nhiều. Huế nay đã được Liên Hợp Quốc xem như là một phần đáng bảo vệ của di sản văn hóa nhân loại; kiến trúc Huế, áo dài, nón bài thơ Huế, nhạc Huế, ca Huế, món ăn Huế đang được hồi phục ( dù động cơ lắm khi chỉ là thương mại du lịch). Tiếng Huế là sợi dây nối liền mọi khía cạnh tên của Huế xưa. Biết đâu sau này hoặc đã có những học giả tìm về nguồn gốc của những tiếng, từ Huế mà soi sáng thêm nguồn gốc của người Huế và văn hóa Huế, nơi đã là chốn kinh kì trong mấy năm, từ thời là đất chàm, rồi thành thủ phủ Đàng trong chúa Nguyễn và biến thành thủ đô của nhà Nguyễn.
2.2.1 Ngôn ngữ Huế.
Người Huế ảnh hưởng đời sống qua chín đời chúa, mười ba đời vua. Trước năm 1975 người miền Nam gọi Huế là cái rốn văn hóa, tuy nhiên người Huế dùng nhiều thổ ngữ và phát âm nghe khó hiểu. thí dụ như ông:ôn; mẹ: mạ; cô: o, mự; bữa qua: hôm qua; bể mõ: vỡ mồm; chộ: nhìn; chi rứa, làm răng…nhiều từ nghe thật xa lạ. Ngôn ngữ Việt Nam nói chung và Huế nói riêng, rất phong phú, tuy nhiên có một số thổ ngữ khó hiểu nhưng các từ điển tiếng Việt không giảng giải rõ? Phải công nhận Huế có nhiều thổ âm, thổ ngữ rất đặc thù. Điều này cộng với giọng Huế thuộc về một âm vực trọ trẹ khó nghe đối với các miền khác của đất nước, đã dẫn đến hậu quả như người ta thường nói tiếng Huế thật khó, khó hiểu. Người Huế thường biến âm từ ô sang u, từ ôi sang ui, có khi là những từ quen với tại miền khác, nhưng người Huế thường dùng theo kiểu bóng gió thì hiểu hơi mệt. Người Huế, cũng như một số vùng khác, gọi hạt là hột. Ví dụ: hột lúa, hột mè, hột đậu, hột trai. Hai bà già cùng xóm nói chuyện với nhau như thế này:
“- Nghe nói con Chanh có người đi ngó rồi mà còn chưa ưng.
- Xì, bày đặt, có hột, có hạt rồi mà còn làm bộ.”
Không ưng chừ thì mai mốt đem lên tra mà cất. Đi ngó hay đi dòm, trong ngữ cảnh này nên hiểu là đánh tiếng, ngỏ ý. Tra là chỗ cao và kín của ngôi nhà rường nhà dung để cất lúa, các vật quý, các vật ít dung hay không dùng nhưng vất đi thì tiếc. Trong mẫu đối thoại ngắn đó, một bà nói rằng cô Chanh trong xóm có người ngỏ ý muốn cưới nhưng cô ta chưa bằng lòng. Bà kia đáp rằng cô Chanh đã quá lứa, quá tuổi xuân thì rồi, không bằng lòng bây giờ, mai trở thành gái già thì chỉ có nước xếp xó mà thôi. Chỉ có trái đã già thì mới có hột. Bà già kia dung chữ hột theo lối ẩn dụ, bóng bẩy.
2.2.2 Ngôn ngữ qua phong cảnh.
Một vòng cung của dãy núi phía Tây chạy dài từ Bắc xuống Nam với những sắc màu luôn thay đổi, khi thì màu lam đục, khi thì màu trắng sữa, lại có màu tím mờ. Rồi một con sông không dài gối đầu lên dãy núi, nhẹ nhàng chảy dài theo hai bờ phượng vĩ đỏ rực khi trời hè, có lúc men theo đôi bờ màu bích ngọc của cỏ cây, đi qua những nhà vườn – vườn nhà kín đáo. Con sông đó, sông Hương đó lại như một suối tóc dài được cài lên trên đó một chiếc lược ngà màu trắng bạc – cầu tràng tiền – có in hình những tà áo trắng vừa đủ kín đáo và duyên dáng.
Sông Hương đắm mình trong vẻ đẹp nên thơ mờ ảo của sương sớm bồng bềnh, khi chìm, khi khuất trong màu tím của cỏ cây đôi bờ, như mơ như thực, lặng lờ êm ả trôi như còn lưu luyến điều gì chưa muốn trôi xuôi đổ ra các đầm phá mênh mông. Giữa khung cảnh sông núi hữu tình ấy, các lăng tẩm, đền chùa nằm chen vào, như tô điểm thêm cảnh trí tuyệt vời, đưa con người càng đắm mình trong ngọt ngào của cuộc sống, trong âm vang của tiếng chuông chiều, trong những giai điệu tụng kinh của âm nhạc nhà Phật. Một giọng nói Huế nhỏ nhẹ, dịu dàng mà dễ thương của các cô gái, một giọng hò mái nhì man mác làm xao xuyến biết bao lòng người. Phong cảnh Huế rất đẹp trước hết là nhờ con sông Hương, con sông Hương – cái tên của nó cũng đẹp như hình và sắc của nó - ở Huế không như con sông Hồng ở Hà Nội. Con sông Hồng là nguồn gốc thiên tai thủy tạo cho xứ Bắc, trái lại con sông Hương là kho tàng tài nguyên thủy lợi cho đất kinh thành. Có thể ví von con sông Hồng như một bà già cay nghiệt khắc khe mà con sông Hương là một tiểu thư mỹ triều, mơ mộng, hay một thục nữ duyên dáng yêu kiều, quyến rũ su khách bốn phương vậy. Nước con sông Hương cũng không giống với các con sông khác trong nước. Ở đây nước cả bốn mùa, lờ đờ chảy, dịu dàng trôi, không gợn sóng, không có khúc sông nào chảy xiết, du khách đi thuyền ngoạn cânh trên sông Hương chẳng khác nào như đi thuyền trong hồ phẳng lặng, êm đềm vậy. Có những nơi nước trong đến nỗi người ta nhìn thấy đáy sông nữa. Từ phong cảnh như vậy, có người nói: “nếu cố đô Huế mà không có con sông Hương thì cái đẹp của Huế có thể giảm đi mất phần nửa. Mà con người Huế luôn gắn bó với thiên nhiên nên ngôn ngữ nó cũng được tạo ra và chịu sự ảnh hưởng của phong cảnh. Khi bàn tới tiếng Huế, người ta thường quanh quẩn với “mô tê răng rứa” với “hí” hay “hỉ”. Tiếng Huế nhứt là tiếng Huế của mấy cô nhẹ nhàng và dễ mến hơn, “mặn mà có duyên” hơn khi họ mắng nhau: “ đồ tinh le”, “quỷ sứ” hay đồ “con yêu bánh nậm” như tên một tác phẩm của Trần Kiêm Đoàn. Ngay trong tác phẩm nầy của Trần Kiêm Đoàn người ta gặp không ít tiếng Huế như thế: “tinh le”, “tinh đèo đèo”, “đồ yêu”, “đồ quỷ”, “hổ ngươi”, “ốc dộc”, “trổ trời mà lên”, “ác nhơn thất đức”, “làm bộ làm tịch, “làm tang”, “giựt le”, “tội tình chi rứa?, “thiệt là ngụy”, “hiện ngụy” v.v…
Người Huế ít khi nói “nhìn”. Họ gọi là “ngó” (ngó chi tui đồ cỏ dại hoa hèn). Nếu có một anh con trai nào đó, hay nhìn lén hay nhìn lâu một cô gái Huế. Cô ta thấy ốc dộc và “làm đày” mà nói: “Nợ nần chi ai mà ngó dữ rứa?”
Khi yêu ai, họ ít dùng chữ “yêu”. Có lẽ từ thập niên 50, “văn minh” hơn, người ta mới nói “anh yêu em” hay “em yêu anh” hay “hai người yêu nhau’’. Trước đó, họ gọi là “thương”. “Anh thương em” hoặc ngược lại. Chẳng hạn như câu ca dao sau:
« Đường vô xứ Huế quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ
Thương anh em cũng muốn vô
Sợ truồng nhà Hồ, sợ phá Tam Giang. »
2.2.3 Ngôn ngữ qua con người.
Vùng đất này là lợi địa của một thế kỷ rưỡi vương triều và như vậy đã xây đắp những giá trị tập quyền, hình thành những nếp gấp trong suy nghĩ, đời sống, phong cách ăn và mặc, nói năng, ứng xử…
Các vương tôn công tử, do giáo dục trong hoàng tộc hoặc từ trong gia đình, thể hiện một phong cách sống lắm lúc không thật sự tự nhiên mà phải luôn giữ kẻ, nhất là khi là khi ra mắt công chúng, phải giữ một vẻ bề ngoài phần nào xa cách, hay cao cách, tối thiểu là kín đáo, ung dung, không bộc trực, bộc phát, và ngay cả đến thất thế, sa cơ vẫn “giấy rách phải giữ lấy lề”. Kinh đô Huế làm nảy sinh nơi người ta nương tình gọi là “đài các”, tức là một vẻ cao sang, mơ hồ nào đó, nhưng các đài các này không khu biệt trong vòng hoàng thành mà còn lan tỏa trong dân gian. Từ ấy các đài các ấy còn rẽ riêng một nét tinh mà người tại chỗ gọi là tính “đài lệ”, có nghĩa là một sự giữ kẻ, giữ ý, và luôn cả một tính cách mà người ta gọi là “đế đô”. Khi người mẹ mắng con gái “ đừng có đế đô!” thì có nghĩa là đừng có đồi hỏi, đừng với cao, đừng học làm sang. Cái tính “đài lệ” được thể hiện rộng rãi, tràn lan, chẳng hạn ở chiếc áo dài mà có lẽ Huế là nơi được mang mặc nhiều hơn cả. Cho đến những năm 1970, người nữ ở Huế ra khỏi nhà là mặc áo dài, kể cả chị tiểu thương ở chợ hoặc bà bán hàng rong. Thậm chí nhiều bà danh giá đi ngủ vẫn mặc áo dài. Thiếu nữ Huế thường kín đáo, không bộc lộ tâm tình cho người khác biết, có khi là e ấp, có khi là ỡm ờ. Trong hai câu thơ của Đông Hồ nhắc đến cô gái Huế: “gió chiều vương áo nàng Tôn nữ, quai lọng nghiêng vành chiếc nón thơ”, ta cảm thấy các món trang sức như tà áo, chiếc nón, bài thơ trong nón đều góp phần tạo nên nét duyên e ấp của “nàng Tôn nữ” và nàng Tôn nữ ở đây dung để chỉ chung các thiếu nữ Huế. Một tác phẩm chấm phá dung nhan nà như sau: “…Các cô gái Huế kiêu sa và dễ làm ra vẻ khinh khinh, họ là đám hậu sinh của các phi tần không bao giờ quên rằng một giọt máu thiên tử đang chảy truyền trong huyết quản của mình.
Qua con người Huế chúng ta có thể cảm nhận ra được một giọng nói đặc biệt của một vùng đất kinh đô. F.D.Saussure từng nói: “dòng sông ngôn ngữ vẫn không ngừng chảy, còn như nó chảy lờ đờ hay cuồn cuộn thì đó là việc thứ yếu” . Sự biến đổi dẫn đến sự khác biệt trong giọng nói của mỗi vùng. Người Việt Nam dù sinh sống ở Lạng Sơn, Minh Hải hay những hải đảo vẫn có thể giao tiếp với nhau bình thường. Tuy nhiên nếu để ý, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra sự khác biệt trông tiếng nói mỗi vùng miền, thậm chí mỗi địa phương.
Quả thật giọng Huế rất đặc trưng mà không nơi nà có được. Nếu bạn nói giọng Bắc, mọi người chỉ biết bạn ở miền Bắc mà khó xác định chính xác ở đâu. Hay nói giọng Nam cũng thế. Nhưng khi giọng Huế thốt lên thì chắc chắn mọi người sẽ “à” ngay rằng bạn chính là người Huế. Điểm thú vị chính là ở đó.
Một cô bạn tôi sau chuyến bay nhảy ở Huế về đã phán một câu xanh rờn “giọng Huế như một…trái sầu riêng, ở ngoài sần rùi nhưng bên trong thật thơm và ngọt. Tuy không phải ai cũng được ăn sầu riêng hay được nghe giọng Huế, nhưng khi nghe được rùi chắc chắn sẽ kết toàn tập’’. Nghe có vẻ tâm hồn ăn uống phết nhưng cũng có lý đấy chứ. Tới Huế, đi thuyền trên sông Hương, nghe chính cô gái Huế ngân nga những khúc ca mượt mà sâu lắng “sông Hương tấp nập, tìm răng được chừ. Em trao nón đợi và em hẹn hò” sẽ khiến không ít trái tim đập lỡ nhịp và yêu thương hơn một vùng đất bình yên của đất nước này. Tuy giọng Huế khó nghe nhưng rất đặc trưng, từ đó nó còn có thể vang xa. Nếu giọng Bắc là giọng nói chuẩn, tiếng Nam là “trung độ” của Bắc bộ và Trung bộ thì người Huế hiền lành, hiếu khách và không thích ồn ào thế nên giọng nói nghe cũng thật nhỏ nhẹ, mượt mà. Với giọng nói của mình. Người Huế đi đến đâu cũng thật tự hào rằng “Tôi là người Huế” với bạn bè khắp nơi. Ai đã từng nghe cô Tôn Nữ Thị Ninh trò chuyện, phát biểu, đàm phán… chắc chắn sẽ rất ấn tượng về con người và giọng nói ấy. Đi không biết bao nhiêu quốc gia, đến không biết bao nhiêu vùng đất mà cô vẫn giữ được giọng nói rất đặc trưng ấy, để tiếng Huế lại được sang sảng vang lên ở nhiều vùng trời, đại diện cho cả dân tộc trước cộng đồng quốc tế.
Con người Huế yêu thiên nhiên, con người. Huế với sự trầm tĩnh của nội tâm sống trong nghiêm ngặt của lễ giáo các đạo Khổng, Nho, Phật. Một nét vui mà nghiêm trang, một cái phóng khoáng nhưng có chừng mực, một sự dâng tràn nhưng vẫn dè dặt đã tạo nên một cái chừng mực- một nét hài hòa của xứ Huế, của người Huế. Góp thêm cho sắc thái Huế một nét riêng nữa là cuộc sống của hoàng tộc trí thức- “các mệ”, và quan lại- đồ nho trí thức làm nên một tính cách Huế sâu lắng không khoa trương, ồn ào, một nét chân chất, dịu dàng tế nhị, dễ thương và đa cảm.
Một nhà thơ đã viết một cách hình tượng “Em ơi giọng Huế có chi. Mà trong hoa nắng thềm thì cơn mưa”. Bởi vì, người Huế được xem là nói năng nhỏ nhẹ, khác với giọng nói phóng khoáng của cư dân Nam Bộ, giọng nói sắc ngọt của người Miền Bắc, giọng nói dõng dạc của đất Quảng Nam. Huế thuộc phương ngữ Trung nhưng nói năng nhỏ nhẹ hơn ngay chính những vùng khác thuộc phương ngữ Trung như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình.
Đặc trưng nhỏ nhẹ từ yếu tố thiên nhiên, Huế là một vùng sông nước hữu tình, người Huế có tâm hồn đa cảm gần với thi ca nên được ví von người Huế như được “mớm” thơ từ trong sữa mẹ. Vì vậy, nhỏ nhẹ trong lời nói, ứng xử là một phong thá của người dân sống ở xứ Đẹp và Thơ. Đặc trưng nhỏ nhẹ từ yếu tố lịch sử, Huế từng là thủ phủ của xứ Đàng Trong rồi trở thành kinh đô của đất nước thống nhất nên ngoài cung cấm còn có nhiều phủ đệ, quan viên, con vua cháu chúa rất nhiều. Sinh hoạt của tầng lớp quý tộc, trong đó có cách ăn nói của họ đã ảnh hưởng đến lối sống của đất thành kinh. Vua chúa với quyền uy của mình không ăn to nói lớn, quan lại cũng không dám nói mạnh trước đức vua và triều thần. Ở kinh đô, tại vách mạch rừng lời nói phải từ tốn, nhỏ nhẹ, tránh lỡ lời mà mang vạ vào thân. Chốn kinh đô cũng cần sự trang nghiêm, kính cẩn, yên tĩnh cho sinh hoạt của vương triều cũng như cộng đồng xã hội phong kiến nơi đây. Gần 350 năm thủ phủ nửa miền đất nước và kinh đô thống nhất, phong thái ấy đủ để lại dấu ấn trong cộng đồng ngôn ngữ.
Không thể không xét đến các yếu tố lịch sử, địa lí, hoàn cảnh xã hội nhưng cái quan trọng là phải căn cứ vào các đặc điểm của ngôn ngữ. Giọng Huế nghe đều đều, nhỏ nhẹ là do một số đặc điểm về ngữ âm. Khác với các vùng khác của phương ngữ Trung chỉ có 4 thanh điệu trong 6 thanh điệu Tiếng Việt (thanh hỏi, thanh ngã lẫn vào thanh nặng), phương ngữ Huế có 5 thanh điệu (thanh ngã lẫn vào thanh hỏi) giống với phương ngữ Nam. Tuy nhiên, qua phân tích sơ đồ âm phổ, khoảng cách về cao độ trong tiếng Huế nhỏ hơn so với tiếng Sài Gòn và càng nhỏ hơn nhiều so với tiếng Hà Nội. Khoảng cách thấp về cao độ của các thanh điệu tức là cao độ thì không bổng quá mà cuãng không trầm quá dẫn đến âm vực của lời nói dao động không lớn, ngữ điệu cứ đều đều, nhỏ nhẹ.
Đặc trưng về ngữ âm làm hạn chế khả năng diễn đạt của tiếng Huế bởi giọng nói nhỏ nhẹ trong đời thường đi vào lòng người nhưng không phù hợp với cách thể hiện trên các phương tiện truyền thông như phát thanh, truyền hình và các loại hình cần có sự diễn xuất uyển chuyển như kịch nói, điện ảnh. Đặc trưng về ngữ âm còn ít nhiều tác động đến năng lực ứng xử, tình huống của người Huế bởi năng lực ứng xử cần thể hiện bằng lời nói tức là chuỗi phát ngôn có ngữ điệu uyển chuyển. Tuy nhiên, giọng nói nhỏ nhẹ lại phù hợp với loại hình diễn xướng, ngâm thơ bụi ngâm thơ Việt Nam thiên về sắc thái trầm buồn.
Vì vậy, đã hình thành một lối ngâm thơ theo giọng Huế rất riêng làm xúc động người nghe. Và giọng nói nhỏ nhẹ, đều đều đó cũng phù hợp với kinh Phật trầm buồn trong tiếng mỏ nhà chùa và sự tĩnh tâm thiền định của con người. Cùng với sự nhỏ nhẹ trong lời ăn tiếng nói của người Huế, nhất là cô gái Huế tạo một nét văn hóa riêng của vùng đất này, tiếng Huế cũng không ngừng hướng đến Tiếng Việt hiện đại và tác động tích cực lên các phương ngữ xung quanh trong quá trình phát triển của ngôn ngữ. Tiếng Huế đã góp phần tạo nên Huế, một trung tâm văn hóa của miền Trung và cả nước.
Cho nên, khi nói đến phuj nữ Huế, ai ai cũng dùng những từ phong phú để miêu tả đó là nhẹ nhàng, kín đáo, đoan trang, sâu lắng, quý phái, dễ thương, dịu dàng, nữ tính…Đó là do kết tinh của văn hóa Huế, là một phần rất lớn trong vẻ đẹp Huế. Vì vậy, hồi xưa những chàng sĩ tử ở xứ Quảng ra Huế thì đã phải xiêu đổ:
“Học trò trong Quảng ra thi
Thấy cô gái Huế chân đi không đành.”
Cũng từ tiếng Huế, nhà thơ Hoàng Xuân Sơn đã đưa ngôn ngữ Huế vào thơ một cách tài tình. Ông không chỉ dung tiếng Huế, mà còn đưa cả những “thành ngữ Huế” vào thơ. Có làm thơ mới biết được cái tài ấy của nhà thơ họ Hoàng.
Có lẽ một số người còn nhớ bài thơ “Huế Chi Lạ Rứa” sau đây của một cô nữ sinh Đệ Tam Đồng Khánh hồi cuối thập niên 1950:
Chi lạ rứa, chiều ni tui muốn khóc
Ngó chi tui đồ cỏ dại hoa hèn
Nhìn chi tui hình đom đóm trong đêm
Cho thêm tủi bên ni bờ cô tịch
Tui mơ ước có bao giờ tuyệt đích
Tui van xin răng mà cú làm ngơ
Rôi ngói tui chi lạ rứa hững hờ
Cho thêm tủi bên ni bờ cô tịch.
Từ đó, chúng ta có thể khẳng định rằng “vẻ đẹp Huế chẳng nơi nào có được…”
2.2.4 Ngôn ngữ qua ẩm thực
Ẩm thực Huế có một chiều sâu mang đậm nét bản sắc của một vùng đất từng là kẻ chợ, thanh lịch, nhẹ nhàng và tùng tiệm. Người Huế ăn uống gắn liền với ba tiêu chí là: rẻ, ngon và nhất là phải đẹp, người Huế đã chia ăn uống thành ba bậc: khẩu thực, nhãn thực và tâm thực. "Khẩu thực" là cách ăn bằng miệng, để tồn tại, "nhãn thực" là thưởng thức bằng mắt và "tâm thực", nghĩa là ăn bằng cả tấm lòng mình
Rượu Huế
Huế là vùng đất có nhiều của ngon vật lạ, các đặc sản từng nổi tiếng khắp bốn phương trời này không những làm lưu luyến du khách dù chỉ mới một lần đến Huế mà ngay cả trong lòng người dân chốn Thần kinh cũng luôn xao xuyến đến mùi hương của chén rượu ngon, chiếc bánh ngọt - tất cả thể hiện rõ qua những câu ca dao của dân gian và ở câu thơ của những người tương tư Huế. Thường vào những lúc gia đình quây quần sum họp như các dịp Tết, lễ, kỵ, giỗ tổ tiên hoặc lúc bè bạn gặp gỡ liên hoan thân mật đều luôn có chén rượu chung vui. Ở Huế có rất nhiều loại rượu ngon nổi tiếng nhưng người sành điệu lại mê rượu làng Chuồn. Nhà thơ Hồng Nhu đã hân hoan viết: “Rượu Chuồn này chén trăng bơi Uống cùng em với cuộc chơi sang ngày” Đặc sắc của rượu làng Chuồn là khi ta uống vào sẽ cay tê lưỡi, xé họng nhưng lại ngọt lịm tận đáy lòng, nét độc đáo này đã làm cho người xa Huế lâu ngày cứ tơ tưởng mãi về vị ngọt quê nhà: “Nếp làng Chuồn ngọt thơm vò rượu Huế trở lại bình yên nắng mới trong lành.” (Hồ Đắc Thiếu Anh)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Ngôn ngữ thể hiện trong văn hóa huế.doc