MỤC LỤC
Lời mở đầu
I. Về khái niệm người bào chữa.
II. Các loại người bào chữa theo quy định của BLTTHS.
1. Luật sư.
2. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
3. Bào chữa viên nhân dân.
III. Những người không được bào chữa, lựa chọn thay đổi người bào chữa.
1. Những người không được bào chữa.
2. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa.
IV. Về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong TTHS.
1. Về quyền của người bào chữa trong TTHS.
2. Về nghĩa vụ của người bào chữa trong TTHS.
V. Người bào chữa trong TTHS trong thực tiễn hiện nay.
1. Những yếu tố tích cực.
2. Những yếu tố còn hạn chế.
3. Những giải pháp nâng cao vị trí, vai trò và chất lượng của người bào chữa.
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10357 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Người bào chữa trong luật tố tụng hình sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
pháp lý.
II. Các loại người bào chữa theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 56 của Bộ luật tố tụng hình sự thì, người bào chữa có thể là: Luật sư, Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; Bào chữa viên nhân dân. Hiện nay do trình độ dân trí và ý thức pháp luật của nhân dân ta còn nhiều mặt hạn chế nên khi nói đến người bào chữa là người ta chỉ nghĩ tới luật sư còn những người khác không phải là luật sư thì không được coi là người bào chữa. Trong quá trình soạn thảo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 cũng có ý kiến đề nghị chỉ quy định luật sư mới là người bào chữa, còn những người khác nếu bào chữa thì quyền và nghĩa vụ của họ như đối với luật sư, nhưng ý kiến này không được chấp nhận vì luật sư là khái niệm nghề nghiệp, còn người bào chữa là khái niệm tố tụng.
Luật sư:
Một luật sư La Mã cổ đại đã từng nói về người bào chữa ( Luật sư) như sau: “ Sự cao thượng, tính hào hiệp, danh dự, công lý và lòng rộng lượng là những đặc tính phù hợp nhất với bản chất của nghề luật sư, chứ không phải là sự giàu có, niềm vui hoặc thậm chí chính bản thân cuộc sống”. Trong thời đại hiện nay vị trí vai trò của luật sư ngày càng được nâng cao và được trân trọng thật sự. Ở Việt Nam sau khi Luật Luật sư 2006 có hiệu lực thì đội ngũ Luật sư của chúng ta ngày càng được nâng cao cả về chất và lượng.
Đối với pháp luật hiện hành, Điều 2 Luật Luật sư quy định: “ Luật sư là người có đủ tiêu chuẩn, điều kiện hành nghề theo quy định của Luật này, thực hiện dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức”.
Bên cạnh đó, Luật luật sư cũng đề cập đến vấn đề tiêu chuẩn của một vị luật sư. Theo đó, Điều 10 Luật sư quy định: “ Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc, tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, có phẩm chất đạo đức tốt, có bằng cử nhân luật, đã được đào tạo nghề luật sư, có sức khoẻ bảo đảm hành nghề luật sư thì có thể trở thành luật sư”. Thêm vào đó, về mặt hình thức, người luật sư còn phải đáp ứng được các điều kiện như: Phải có Chứng chỉ hành nghề luật sư, gia nhập một Đoàn luật sư nhất định. Hoạt động bào chữa của luật sư có tính chất chuyên nghiệp. Hoạt động nghề nghiệp của luật sư nhằm góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. (Điều 3 Luật luật sư).
Người bào chữa bao gồm: Luật sư, Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, Bào chữa viên nhân dân. Tuy nhiên, Luật sư và người bào chữa không hoàn toàn đồng nhất với nhau. Theo quy định của pháp luật thì luật sư chỉ trở thành người bào chữa khi họ tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Trong tố tụng hình sự, nếu luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thì họ tham gia tố tụng với tư cách là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
Bào chữa là một chức năng quan trọng không thể thiếu trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Muốn bào chữa đúng đắn, khách quan trên cơ sở các quy định của pháp luật và thực sự có tác dụng, các luật sư phải có năng lực thực sự, trong đó quan trọng là nắm chắc pháp luật, hiểu biết rõ về những người mà họ đứng ra để bảo vệ.
Căn cứ vào khoản 1 và 2 Điều 23 Luật luật sư thì hình thức hành nghề luật sư có hai loại, đó là: Hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc hành nghề với tư cách cá nhân. Đó là quy định hết sức thông thoáng đảm bảo họ phát huy hết khả năng và sự cống hiến cho nghề của mình. Điều mà chúng ta quan tâm là khi luật sư tham gia vào hoạt động tố tụng thì phải tuân thủ những quy định gì khác ngoài những quy định trên? Theo Điều 27 Luật luật sư thì: “
1. Hoạt động tham gia tố tụng của luật sư phải tuân theo quy định của pháp luật về tố tụng và Luật này.
2. Luật sư được cơ quan tiến hành tố tụng cấp giấy chứng nhận người bào chữa, giấy chứng nhận người bảo vệ quyền lợi của đương sự trong vụ án hình sự hoặc giấy chứng nhận người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trong vụ việc dân sự, vụ án hành chính (sau đây gọi chung là giấy chứng nhận tham gia tố tụng của luật sư) khi xuất trình đủ giấy tờ thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư của khách hàng và giấy giới thiệu của tổ chức hành nghề luật sư hoặc của chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề đối với trường hợp luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư;
b) Thẻ luật sư, giấy yêu cầu luật sư của khách hàng và giấy giới thiệu của Đoàn luật sư nơi luật sư đó là thành viên đối với trường hợp luật sư hành nghề với tư cách cá nhân; Thẻ luật sư và giấy giới thiệu của cơ quan, tổ chức nơi luật sư hành nghề với tư cách cá nhân làm việc theo hợp đồng lao động để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó;
c) Thẻ luật sư và văn bản cử luật sư của tổ chức hành nghề luật sư hoặc của chi nhánh tổ chức hành nghề luật sư nơi luật sư đó hành nghề đối với luật sư hành nghề trong tổ chức hành nghề luật sư hoặc Thẻ luật sư và văn bản phân công của Đoàn luật sư đối với luật sư hành nghề với tư cách cá nhân để tham gia tố tụng trong vụ án hình sự theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng”.
Như vậy, pháp luật quy định vừa chặt chẽ vừa thông thoáng trên các phương diện để trở thành một luật sư với tư cách là người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ. bị can, bị cáo:
Người đại diện hợp pháp cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo có thể tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho những người cần họ bào chữa. Tuy nhiên, Bộ Luật TTHS không quy định rõ thế nào là “Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo”. Tuy nhiên, có thể vận dụng điểm a khoản 1 Điều 58 Bộ Luật Dân Sự về giám hộ đương nhiên đối với người chưa thành niên (chưa đủ 18 tuổi) để hiểu người đại diện hợp pháp là: Người chưa thành niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu. Hoặc người đại diện theo pháp luật bao gồm: Cha, mẹ đối với con chưa thành niên; Người giám hộ đối với người được giám hộ (Điều 141 BLDS).
Bào chữa viên nhân dân:
Ở nước ta, trước khi có Pháp lệnh tổ chức luật sư và sau là Luật luật sư 2006 thì việc bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo do Bào chữa viên nhân dân đảm nhiệm. Hoạt động bào chữa của Bào chữa viên nhân dân không phải là chuyên nghiệp mà chỉ mang tính chất nghiệp dư. Cho đến bây giờ, trong hệ thống pháp luật Việt Nam cũng chưa có một văn bản cụ thể nào quy định về hoạt động bào chữa của Bào chữa viên nhân dân nên vị trí vai trò của họ cũng trở nên mờ nhạt. Hay nói cách khác, chức danh Bào chữa viên nhân dân chỉ tồn tại trên phương diện pháp lý. Điều này dẫn đến việc người bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chủ yếu là luật sư và người đại diện hợp pháp của những người đó.
Nói tóm lại, mặc dù họ là ai, pháp luật quy định họ như thế nào thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án phải có nghĩa vụ tạo điều kiện để họ thực hiện nhiệm vụ bào chữa. Tuỳ theo từng giai đoạn tố tụng, Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án Toà án nhân dân hoặc Hội đồng xét xử cấp Giấy chứng nhận người bào chữa để họ thực hiện nhiệm vụ bào chữa.
III. Những người không được bào chữa, lựa chọn và thay đổi người bào chữa:
1. Những người không được bào chữa:
Khoản 2 Điều 56 quy định: “ Những người sau đây không được bào chữa: a) Người đã tiến hành tố tụng trong vụ án đó; người thân thích của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng trong vụ án đó. b) Người tham gia vụ án đó với tư cách là người làm chứng, người giám định hoặc nguời phiên dịch”.
Người đã tiến hành tố tụng có trách nhiệm xác định sự thật của vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ cả về mặt buộc tội và gỡ tội. Trong khi đó, người bào chữa tham gia tố tụng là nhằm gỡ tội cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho những người này. Một bên đứng trên góc độ Nhà nước và một bên lại đứng trên góc độ cá nhân. Thế nên trong cùng một vụ án, một người không thể thủ một lúc hai vai để thực hiện tốt trách nhiệm chứng minh vụ án và nghĩa vụ bào chữa. Bên cạnh đó, người thân của người đã hoặc đang tiến hành tố tụng không được là người bào chữa trong vụ án đó bởi nó sẽ ảnh hưởng đến sự khách quan của trong việc giải quyết vụ án của người tiến hành tố tụng.
Người làm chứng, người giám định, người phiên dịch là những người tham gia tố tụng có nghĩa vụ trung thực, khách quan đảm bảo tính chính xác. Họ không phụ thuộc vào bất kỳ một bên nào, mà chỉ tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Chính vì vậy, họ không thể đồng thời là người bào chữa trong cùng một vụ án.
2. Lựa chọn và thay đổi người bào chữa:
Sự tham gia tố tụng của người bào chữa là rất cần thiết, bằng kinh nghiệm nghề nghiệp và hiểu biết của mình, người bào chữa tham gia vào quá trình giải quyết vụ án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Vì vậy, việc quy định lựa chọn và thay đổi người bào chữa trực tiếp ảnh hưởng đến quyền lợi của các bên tham gia tố tụng. Điều 57 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:
“1. Người bào chữa do người bị tạm giữ, bi can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ lựa chọn.
2. Trong những trường hợp sau đây, nếu bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ không mời người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Toà án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình:
a) Bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật hình sự.
b) Bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất.
…
3. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có quyền cử bào chữa viên nhân dân để bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là thành viên của tổ chức mình”.
Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra.
IV. Quyền và nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự:
Về quyền của người bào chữa trong tố tụng hình sự:
Người bào chữa và người bị tạm giữ, bị can, bị cáo đều là những người tham gia tố tụng hình sự, mặc dù địa vị pháp lý của họ không như nhau nhưng khi tham gia tố tụng họ lại có mối quan hệ ràng buộc “ tương đối” với nhau. Trong đó, người bào chữa thực hiện một lúc hai nghĩa vụ: Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo và nghĩa vụ tôn trọng sự thật, bảo vệ pháp luật. Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là đối tượng của việc điều tra, truy tố, xét xử, là người bị cơ quan có thẩm quyền buộc tội, khi tham gia tố tụng họ có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Một bên cần gỡ tội hoặc giảm tội và một bên giúp bên kia thực hiện mong muốn của mình, có thể họ tìm đến nhau bằng một hợp đồng “ Dịch vụ pháp lý” hoặc bằng cách khác. Vậy người bào chữa thực hiện nghĩa vụ của mình như thế nào để bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của những người nhờ họ bào chữa cũng như bảo vệ sự thật và tôn trọng sự thật khách quan? Do đó pháp luật TTHS đã quy định quyền của người bào chữa để họ thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình.
Theo khoản 1 Điều 58 BLTTHS thì: “ Ngưòi bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra”.
Để tạo điều kiện cho người bào chữa tham gia vào hoạt động tố tụng một cách thuận lợi, khoản 2 Điều 58 quy định về quyền của người bào chữa, cụ thể như sau: Người bào chữa có quyền.
a) Có mặt khi lấy lời khai của người bị tạm giữ, khi hỏi cung bị can và nếu Điều tra viên đồng ý thì được hỏi người tạm giữ, bị can và có mặt trong những hoạt động điều tra khác; xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mà mình bào chữa.
Việc người bào chữa có mặt trong các hoạt động điều tra có ý nghĩa quan trọng. Khi có mặt người bào chữa, người bị tạm giữ, bị can bị cáo sẽ ổn định về mặt tâm lý hơn, những người tiến hành các hoạt động điều tra thận trọng, tuân thủ pháp luật hơn. Người bào chữa thao dõi được quá trình điều tra và tình hình chứng cứ điều đó có ý nghĩa rất lớn cho việc chuẩn bị lời bào chữa và tham gia tranh tụng sau này tại phiên toà. Người bào chữ còn có quyền hỏi người bị tạm giữ, bị can khi Điều tra viên đồng ý để làm sáng tỏ những tình tiết có lợi cho người bị tạm giữ, bị can. Khi tham gia các hoạt động điều tra, xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng có liên quan đến người mà mình bao chữa, nếu phát hiện những vi phạm pháp luật,người bào chữa có quyền khiếu nại đến cơ quan có thẩm quyền.
b) Đề nghị Cơ quan điều tra báo trước về thời gian và địa điểm hỏi cung bị can để có mặt khi hỏi cung bị can”.
c) Đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch theo quy định của Bộ luật này.
Người bào chữa có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch nếu có căn cứ theo luật định và xét thấy việc nhũng người này tiến hành hoặc tham gia tố tụng có thể làm ảnh hưởng không tốt đến quyền và lợi ích hợp pháp của người mà mình bào chữa.
d) Thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của người bị tạm giữ bị can, bị cáo nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác.
đ) Đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu.
Người bào chữa có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu theo hướng có lợi cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Người bào chữa cũng có quyền đưa ra yêu cầu như triệu tập thêm người làm chứng, trưng cầu giám định nếu xét thấy điều đó là cần thiết và có lợi cho người được bào chữa. Cơ quan tiến hành tố tụng phải tôn trọng quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu của người bào chữa.
e) Gặp người bị tạm giữ; gặp bị can, bị cáo đang bị tạm giam.
Người bào chữa phải thường xuyên gặp gỡ, trao đổi, tiếp xúc với người bị tạm giữ, bị can, bị cáo để có thể nắm được đầy đủ các tình tiết của vụ án, các đặc điểm nhân thân và diễn biến tâm lý, tâm tư, nguyện vọng của người được bào chữa. Trên cơ sở đó, người bào chữa mới thu thập được các tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ tội để bào chữa cho những người này. Qua gặp gỡ, trao đổi, người bào chữa giải thích những vấn đề về pháp luật và cũng có thể tác động đến người bị tạm giữ, bị can, bị cáo lam cho họ có thái độ khai báo tốt hơn để có thể được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
g) Đọc, ghi chép và sao chụp những tài liệu trong hồ sơ vụ án liên quan đến việc bào chữa sau khi kết thúc điều tra theo quy định của pháp luật.
Thông qua việc đọc và ghi chép hồ sơ vụ án, người bào chữa nắm được nội dung vụ án, nắm được những chứng cứ buộc tội cũng như gỡ tội đối với người được bào chữa, trên cơ sở đó người bào chữa chuẩn bị cho việc bào chữa, tham gia tranh tụng phiên toà.
Qua việc đọc hồ sơ, tài liệu của vụ án, người bào chữa cũng có điều kiện phát hiện những sai lầm, thiếu sót, vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra trên cơ sở đó đưa ra những yêu cầu, khiếu nại cần thiết đối với cơ quan có thẩm quyền.
h) Tham gia hỏi, tranh luận tại phiên toà.
Tại phiên toà xét xử vai trò của người bào chữa được thể hiện rõ nét nhất. Người bào chữa có quyền hỏi bị cáo và những người khác về vấn đề của vụ án để có được những câu trả lời theo hướng có lới cho bị cáo. Khi tranh luận, người bào chữa phải phân tích, lập luận, đưa ra lý lẽ để bảo vệ bị cáo và bác bỏ những lời buộc tội bị cáo.
i) Khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng.
k) Kháng cáo bản án, quyết định của Toà án nếu bị cáo là người chưa thành niên hoặc người có khuyết điểm về tâm thần hoặc thể chất theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 57 BLTTHS.
Đây là quyền độc lập của người bào chữa, người bào chữa kháng cáo không phụ thuộc vào ý chí của bị cáo cũng như đại diện hợp pháp của bị cáo. Kháng cáo của người bào chữa phải theo hướng có lợi cho bị cáo.
2. Về nghĩa vụ của người bào chữa trong tố tụng hình sự:
Khoản 3 Điều 58 BLTTHS quy định về nghĩa vụ của người bào chữa, cụ thể như sau:
a) Sử dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để làm sáng tỏ những tình tiết xác định người bị tạm giữ, bị can, bị cáo vô tội, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo. Tuỳ theo mỗi giai đoạn tố tụng, khi thu thập được tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án, thì người bào chữa có trách nhiệm giao cho Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Việc giao nhận các tài liệu, đồ vật đó giữa người bào chữa và cơ quan tiến hành tố tụng phải được lập biên bản theo quy định tại Điều 95 của Bộ luật này.
b) Giúp người bị tạm giữ, bị can, bị cáo về mặt pháp lý nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
c) Không được từ chối bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo mà mình đã đảm nhận bào chữa, nếu không có lý do chính đáng.
d) Tôn trọng sự thật và pháp luật; không được mua chuộc, cưỡng ép hoặc xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật.
đ) Có mặt theo giấy triệu tập của Toà án.
e) Không được tiết lộ bí mật điều tra mà mình biếtđược khi thực hiện việc bào chữa; không được sử dụng tài liệu đã ghi chép, sao chụp trong hồ sơ vụ án vào mục đích xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Người bào chữa làm trái pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi Giấy chứng nhận người bào chữa, xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
V. Người bào chữa trong tố tụng hình sự trong thực tiễn hiện nay:
1. Những yếu tố tích cực:
a) Về mặt quy định của pháp luật:
So với BLTTHS 1998 thì BLTTHS 2003 có những tiến bộ rất cơ bản, đó là: Thứ nhất, theo Điều 56 của Bộ luật này thì người bào chữa được tham gia bào chữa từ khi khởi tố vụ án. Trước đây ở BLTTHS cũ cũng đã quy định nhưng cái mới lần này người bào chữa có thể tham gia bào chữa cho người bị tạm giữ, chưa bị khởi tố. Trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt giữ cũng được nhờ người bào chữa. Hai là, BLTTHS lần này có quy định cho người bào chữa được thu thập các tài liệu, chứng cứ từ bị can, bị cáo, từ người thân thích của họ hoặc từ cơ quan nhà nước để cung cấp cho cơ quan tiến hành tố tụng. Những thứ đó nếu đúng với sự thật khách quan thì cũng được công nhận như các chứng cứ khác mà cơ quan tiến hành tố tụng thu thập. Đây cũng là một điểm rất tiến bộ vì trước đây người bào chữa đưa ra các tài liệu, chứng cứ ít được chú trọng, xem xét. Tiến bộ thứ ba là người bào chữa được không những chỉ là ghi chép những điều cần thiết trong hồ sơ như BLTTHS cũ mà còn được sao chụp những tài liệu cần thiết phục vụ cho việc bào chữa của mình. Một tiến bộ nữa của BLTTHS 2003 là việc bắt buộc phải chỉ định người bào chữa. Trước đây có một bất hợp lý là khi toà án xử vị thành niên mà không có người bào chữa tham gia bào chữa thì coi như bản án đó là vô hiệu. Nhưng khi cơ quan điều tra hỏi cung các vị thành niên thì không có ai là người giám hộ, chứng kiến, bào chữa thì bản cung vẫn có giá trị pháp lý. Các bản cung được các cơ quan tiến hành tố tụng coi là căn cứ để buộc tội hoặc gỡ tội. BLTTHS mới quy định rất rõ, kể cả ở ba giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử phải có sự tham gia của người bào chữa đối với ba đối tượng: vị thành niên; người bị ghép vào khung hình phạt có mức án tử hình; những người có khuyết tật về thể chất hoặc tinh thần. Cơ quan điều tra hỏi cung bị can là vị thành niên, người có khuyết tật mà không có luật sư bào chữa, người bảo lãnh, người làm chứng thì coi như bất hợp pháp.
b. Về bản thân người bào chữa:
_ Số vụ án có người bào chữa tham gia ngày càng tăng so với những năm trước đây. Điều này phản ánh được chất lượng của đội ngũ người bào chữa cũng như sự nhận thức tiến bộ của nhân dân.
_ Mặc dù còn nhiều khó nhăn nhưng sự tham gia của người bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, giúp Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án giải quyết các vụ án một cách khách quan, toàn diện và đầy đủ, tránh được việc chỉ chú ý đến chứng cứ buộc tội mà không xem xét chứng cứ gỡ tội
_ Việc tham gia tố tụng của người bào chữa nói chung đã đáp ứng được yêu cầu bào chữa và đạt được kết quả đáng khích lệ, khắc phục được những vi phạm tố tụng, làm rõ sự thật khách quan, đảm bảo cho việc xét xử của Toà án được tiến hành đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, loại trừ dần yếu tố lạm dụng quyền trong việc áp dụng pháp luật và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Cơ quan tiến hành tố tụng hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền vững mạnh.
_ Hơn nữa, sự có mặt của người bào chữa trong hoạt động tố tụng hình sự giúp Cơ quan tiến hành tố tụng sửa chữa những thiếu xót, kịp thời khắc phục những sai lầm.
2. Những yếu tố còn hạn chế:
Bên cạnh những yếu tố tích cực của vấn đề người bào chữa trong tố tụng hình sự vẫn còn tồn đọng những hạn chế, vướng mắc cần tháo gỡ.
Đầu tiên phải nói đến các quy định của pháp luật về người bào chữa. Đó là sự hạn chế trong việc cấp Giấy chứng nhận cho người bào chữa trong BLTTHS. Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra cấp và thời hạn cấp ít nhất là trong 3 ngày phải cấp ( khoản 4 Điều 56). Trong khi đó, những người bị tạm giữ cũng chỉ có trong 3 ngày. Nếu vụ việc phức tạp thì thời hạn tạm giữ có thể gia hạn thêm 3 ngày ( thành 6 ngày). Trong 3 ngày hoặc 6 ngày ầy, người bào chữa có thể tham gia làm chứng, bào chữa, bênh vực cho người bị tạm giữ. Một câu hỏi đặt ra là cơ quan tiến hành tố tụng có nên tạo cơ chế thoáng hơn cho người bị tạm giữ thực hiện quyền của mình một cách thuận lợi hơn? Thêm vào đó, những người tiến hành tố tụng thông thường ngại có sự tham gia của người bào chữa. họ ngại vì mất thời gian chưa kể đến động cơ này, động cơ khác. Hay tình trạng lạm quyền của những người tiến hành tố tụng vẫn còn tồn tại. Xin được đưa ra một ví dụ: Căn cứ vào đơn yêu cầu Văn phòng luật sư Pháp Quyền giúp đỡ pháp lý vào ngày 14/5/2008 của thân nhân 7 bị can: Đặng Tiến Thông, Đỗ Thị Mai, Dương Thanh Trúc, Lưu Quốc Luân, Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Nam Biền, Nguyễn Văn Năng trong vụ án hình sự “ Gây rối trật tự công cộng” xảy ra tại Quận 9, TP Hồ Chí Minh. Văn phòng luật sư Pháp Quyền đã cử 3 Luật sư gồm: Lê Trần Luật, Nguyễn Quốc Minh, Nguyễn Đình Thái Hùng tiến hành các thủ tục tham gia bào chữa cho các bị cáo có tên nêu trên. Vào ngày 28/5/2008, ba người đã đến Nhà tạm giữ CA Quận 9 để xin gặp mặt bị can. Tuy nhiên, Ông Nguyễn Minh Luân là Phó trưởng CA Quận 9 kiêm Trưởng Nhà tạm giữ không chấp nhận họ gặp mặt các bị can và bát buộc họ muốn gặp thì phải có Kiểm sát viên đi cùng. Quyết định của Ông Luân đã vi phạm pháp luật TTHS quy định tại Điều 37 và điểm e khoản 2 Điều 58. Phải chăng đây không phải là sụ lạm quyền của người tiến hành tố tụng?
Không thể phủ nhận quá trình tranh tụng tại các phiên toà trong thời gian qua đã đạt được nhất định, tạo sự công bằng và nâng cao vị thế của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Tuy nhiên, nhìn trên diện rộng thì vấn đề tranh tụng vẫn đang còn ở dạng bỏ ngõ ở cả về phương diện pháp luật, cả về phương diện người bào chữa.
Mặt khác, trình độ pháp luật của người dân đang còn nhiều hạn chế. Họ chưa có thói quen nhờ người bào chữa và chưa thấy rõ vai trò của người bào chữa trong các vụ án hình sự. Cũng có nhiều người biết việc nhờ người bào chữa có lợi cho mình nhưng lại không có tiền hoặc sợ tốn kém.
Về phía những người bào chữa, bên cạnh những thành công đã đạt được, bản thân họ cũng bộc lộ những hạn chế nhất định.
_ Đại đa số những người bào chữa đã tích cực sử dụng những biện pháp được pháp luật quy định để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhưng cũng không ít những người bào chữa đã thực hiện nghĩa vụ của mình một cách hình thức, qua loa đặc biệt là những trường hợp bào chữa chỉ định. Việc không coi trọng bào chữa chỉ định và thiếu trách nhiệm của người bào chữa trong những trường hợp này không mang lại hiệu quả. Ví dụ: Bị cáo Nguyễn Đức Thắng( có nhược điểm về tinh thần) bi truy tố về tội giết người. Luật sư đến muộn đã thao thao bất tuyệt bào chữa cho Thắng phạm tội cướp tài sản ở tuổi chưa thành niên. Khi bị Chủ toạ phiên toà nhắc nhở Luật sư mới biết nhằm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập học kỳ- Người bào chữa trong tố tụng hình sự.doc