MỤC LỤC
Trang
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 1
1.1. Khái niệm 1
1.2. Đặc điểm 1
1.3. Ý nghĩa của việc tham gia tố tụng dân sự của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự 2
II. NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH 2
2.1. Điều kiện tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự 2
2.2. Quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi của đương sự 3
2.2.1. Quyền tố tụng của người bảo vệ quyền lợi của đương sự 3
2.2.1.1. Giai đoạn trước khi mở phiên toà 4
2.2.1.2. Giai đoạn mở phiên toà 4
2.2.1.3. Giai đoạn sau khi kết thúc phiên tòa 5
2.2.2. Nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự 5
2.2.2.1. Nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự 5
2.2.2.2. Nghĩa vụ bảo vệ pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa 6
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 6
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự 6
3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật TTDS về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự 8
3.3. Một số kiến nghị 9
KẾT LUẬN 10
TÀI LIỆU THAM KHẢO 11
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9473 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo pháp luật tố tụng dân sự hiện hành và thực tiến áp dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
pháp của đương sự trong giai đoạn thi hành án dân sự.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ:
1.1.Khái niệm
Theo quy định tại Điều 63 của Bộ luật TTDS 2004, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự của đương sự là “người được đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhận để tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự”.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự bao gồm các luật gia, bào chữa viên nhân dân, những người am hiểu về pháp luật và họ phải là công dân Việt Nam. Một điều cần chú ý hiện nay, với luật sư nước ngoài không được tham gia tố tụng với tư cách là người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam. Họ chỉ được tư vấn pháp lý và các dịch vụ pháp lí khác theo quy định của pháp luật luật sư (Điều 79 Luật luật sư 2006).
1.2.Đặc điểm
Từ định nghĩa, có thể rút ra đặc trưng sau về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là người am hiểu pháp luật. Đây là một đặc trưng hết sức quan trọng. Đây không chỉ là một tiêu chí bắt buộc của một luật sư (Điều 10 Luật luật sư 2006) mà còn đối với cả những người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự khác. Bởi lẽ chỉ khi có sự am hiểu về pháp luật thì họ mới có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình một cách tốt và thành công nhất.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phải có đủ điều kiện tham gia TTDS theo quy định của pháp luật. Các điều kiện này được quy định tại Luật luật sư 2006 (Điều 10) và tại tiểu mục 3.1 Mục III Nghị quyết số 01/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao Hướng dẫn thi hành một số quy định trong phần thứ nhất “Những quy định chung” của BLTTDS năm 2004 và phải được sự cho phép của Tòa án.(sẽ phân tích kĩ hơn ở II.1)
+ Được sự cho phép của Tòa án.
Sự có mặt của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phụ thuộc vào đương sự. Điều này thể hiện ở việc người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự xuất hiện từ khi đương sự nhờ và được Tòa án chấp nhân. Tuy nhiên, đặc trưng này cũng bị hạn chế trong một số trương hợp như: khi nhiều đương sự trong cùng một vụ việc có quyền lợi đối lập nhau cùng yêu cầu một người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; Tòa án không cho phép, v.v..
Mục đích tham gia tố tụng để bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho đương sự.
1.3. Ý nghĩa của việc tham gia tố tụng dân sự của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Ø Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án:
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự giúp đương sự nhận thức đúng quyền, nghĩa vụ của mình và bảo vệ các quyền và lợi ích đó trước Tòa án khi có sự vi phạm. Đó là nhờ các quyền được pháp luật tố tụng quy định cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp: quyền xác minh, thu thập chứng cứ và cung cấp cho Tòa án; nghiên cứu hồ sơ vụ án; giúp đương sự trình bày về yêu cầu của họ và cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh cho yêu cầu đó tại phiên tòa; tham gia hỏi tại phiên tòa; v.v..
Ø Đối với việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án:
Một lợi thế của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là sự am hiểu pháp luật của họ, vì vậy, những chứng cứ họ đưa ra sẽ dễ dàng được chấp nhận, giúp cho quá trình giải quyết vụ việc được nhanh chóng; bảo vệ được lợi ích của đương sự. Không những thế, với sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, quá trình xét xử vụ án của Tòa án được công minh hơn, làm cho người tiến hành tố tụng phải khách quan, tôn trọng pháp luật hơn trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự.
II. NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH
2.1. Điều kiện tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự
Khoản 1 Điều 63 BLTTDS 2005 quy định những người có thể trở tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự gồm: luật sư, bào chữa viên nhân dân và người khác được Toà án chấp nhận. Để được công nhận là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì phải xuất trình các giấy tờ theo hướng dẫn tại tiểu mục 3.1mục 3 Nghị quyết số 01/2005/NQ- HĐTP.
Đối với Luật sư thì phải xuất trình cho Toà án giấy giới thiệu của văn phòng Luật sư nơi họ là thành viên hoặc có hợp đồng làm việc và thẻ Luật sư.
Đối với người bảo vệ quyền và lợi ích khác thì phải xuất trình cho Toà án văn bản có nội dung thể hiện ý chí của đương sự nhờ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, có văn bản của uỷ ban nhân dân xã phường nơi họ cư trú hoặc cơ quan tổ chức nơi họ làm việc xác nhận không có tiền án, không đang bị khởi tố về hình sự, không đang bị áp dụng biện pháp xử lí hành chính, không phải là cán bộ, công chức trong ngành toà án, Kiểm sát, Công an... và xuất trình các giấy tờ tuỳ thân khác: chứng minh nhân dân, hộ chiếu, hộ khẩu... Sau khi nộp cho Toà án hồ sơ giấy tờ và đơn xin cấp giấy chứng nhận bảo vệ.
Tại phiên toà đương sự mới nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, thì Hội đồng xét xử chấp nhận khi người được đương sự nhờ đáp ứng điều kiện nêu trên và việc chấp nhận đó không gây cản trở cho Hội đồng xét xử tiếp tục xét xử vụ án.
2.2. Quyền và nghĩa vụ của người bảo vệ quyền lợi của đương sự
2.2.1. Quyền tố tụng của người bảo vệ quyền lợi của đương sự
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể tham gia tố tụng từ khi khởi kiện hoặc bất cứ giai đoạn nào hoặc tham gia tất cả các giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự(1) Theo Điều 64 – BLTTDS 2004
. Vai trò và hoạt động của người bảo về quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự được thể hiện trong 3 giai đoạn của quá trình tố tụng là: giai đoạn trước khi mở phiên toà, giai đoạn mở phiên toà, giai đoạn sau khi kết thúc phiên tòa.
2.2.1.1. Giai đoạn trước khi mở phiên toà
a. Quyền thu thập chứng cứ
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 64 BLTTDS 2005 thì: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có quyền được xác minh thu thập chứng cứ và cung cấp chứng cứ cho Toà án, nghiên cứu hồ sơ vụ án và được ghi chép sao chụp những tài liệu cần thiết có trong hồ sơ vụ án. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cũng như góp phần làm sáng tỏ nội dung sự thật vụ án thì công việc xác minh thu thập chứng cứ là tiền đề quan trọng và cần thiết, cho nên luật cho phép họ có quyền xác minh thu thập chứng cứ là phù hợp tính chất công việc, tuy nhiên việc xác minh thu thập chứng cứ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phải đảm bảo tuân thủ đúng pháp luật, chứng cứ thu thập phải đảm bảo tính khách quan và liên quan với nhau, phải lựa chọn thời điểm thích hợp để cung cấp cho Toà án, có thể trước khi xét xử hoặc trong quá trình xét xử.
Khi nghiên cứu hồ sơ, có yêu cầu ghi chép, sao chụp tài liệu chứng cứ thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phải làm đơn gửi Toà án thụ lí giải quyết vụ việc đó.
b. Quyền tham gia hoà giải
Theo quy định của BLTTDS có những vụ việc bắt buộc phải tiến hành hoà giải và bắt buộc hoà giải tại toà án cấp sơ thẩm mà không bắt buộc ở cấp phúc thẩm. Luật tố tụng dân sự quy định cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia phiên hoà giải cùng đương sự, nếu không tham gia được thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể gửi văn bản bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp tới phiên hoà giải.
Trước khi tham gia hoà giải người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tư vấn cho đương sự dựa trên cơ sở pháp luật về nội dung chuẩn bị hoà giải, dự liệu cho đương sự những thuận lợi và khó khăn trong vụ việc cần giải quyết. Ngoài ra, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cần phải chuẩn bị các tình huống dự phòng khác nhau cho phiên hoà giải. Trong trường hợp hoà giải không thành, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp phải tiếp tục củng cố chứng cứ và lập luận để chuẩn bị cho phiên xét xử. Cũng thông qua phiên hoà giải không thành, các thông tin mà Toà án có được qua quá trình hoà giải sẽ giúp Toà án áp dụng luật giải quyết tranh chấp một cách rõ ràng.
c, Quyền thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp có quyền thay mặt đương sự yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng khác. Đây là một quyền phái sinh từ quyền của đương sự, mục đích là bảo vệ quyền lợi của đương sự một cách chính đáng nhất.
2.2.1.2. Giai đoạn mở phiên toà
Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được thực hiện ở thủ tục bắt đầu phiên toà, thủ tục hỏi, và thủ tục tranh luận tại phiên toà.
a, Thủ tục bắt đầu phiên toà: Theo quy định của BLTTDS mà cụ thể là Điều 203 ấn định: người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có nghĩa vụ phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án, nếu vắng mặt lần thứ nhất mà có lí do chính đáng thì Hội đồng xét xử cho hoãn phiên toà, nếu được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Toà án sẽ xét xử bình thường và đương sự phải tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Như vậy, tham gia phiên toà theo giấy triệu tập của đương sự vừa là quyền lợi vừa là nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
b, Thủ tục hỏi: Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn trình bày yêu cầu của nguyên đơn và chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố, đề nghị của bị đơn và chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trình bày ý kiến của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đối với yêu cầu, đề nghị của nguyên đơn, bị đơn, yêu cầu độc lập, đề nghị của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và chứng cứ để chứng minh cho đề nghị đó là có căn cứ và hợp pháp.
c, Thủ tục tranh luận: Theo Điều 232 BLTTDS, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và nghĩa vụ liên quan phát biểu ý kiến, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và lợi ích liên quan có quyền bổ sung ý kiên. Khi tranh luận trình bày quan điểm của mình, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự cần nhận định các tình tiết quan trọng của vụ việc, trình bày quá trình đánh giá chứng cứ, khẳng định lại giá trị chứng minh của chứng cứ kết hợp với căn cứ của pháp luật để làm căn cứ pháp lí, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải tôn trọng sự điều khiển của chủ toạ phiên toà và phải tập trung làm sáng tỏ các tình tiết cần chứng minh trên cơ sở đó có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự một cách tốt nhất. Nếu thấy đã tranh luận về các vấn đề nhưng vẫn chưa rõ hoặc chưa khẳng định được những tình tiết của vụ việc thì người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự có thể đề nghị Hội đồng xét xử quay lại thủ tục hỏi.
2.2.1.3. Giai đoạn sau khi kết thúc phiên tòa
Nếu người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự bảo vệ cho đương sự từ cấp sơ thẩm thì tùy thuộc vào diễn biến của phiên tòa mà người bảo vệ quyền lợi của đương sự có thể giúp đương sự kháng cáo ngay khi Tòa sơ thẩm tuyên án. Nếu sau phiên tòa sơ thẩm, đương sự mới nhờ người bảo vệ, để người bảo vệ cần nghiên cứu lại hồ sơ vụ việc thì tùy thuộc vào yêu cầu của đương sự và thực tiễn bản án so với các tình tiết khách quan của vụ án mà người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có thể giúp đương sự chuẩn bị tài liệu, chứng cứ mới để kháng cáo một phần hay toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.
2.2.2. Nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
2.2.2.1. Nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Đương sự uỷ quyền cho người bảo vệ quyền lợi của đương sự bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Cùng với những quyền được quy định tại Điều 64 BLTTDS 2005 và các văn bản pháp luật khác thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự cũng phải có những nghĩa vụ quy định tại các điểm m,q và r khoản 2 Điều 58. Theo đó, họ cần phải có mặc theo giấy triệu tập của Tòa án và chấp hành các quyết định của Tòa án trong thời gian giải quyết vụ án cũng như tôn trọng và chấm hành nghiêm chỉnh nội quy tại phiên tòa.
Ngoài ra, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có nghĩa vụ giúp đỡ đương sự về mặt pháp lý - xuất phát từ đặc điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thường là người có kiến thức pháp luật, trình độ hiểu biết và kinh nghiệm tham gia tố tụng cao. Bên cạnh đó, các đương sự trong vụ án không phải đương sự nào cũng có thể hiểu hết các quy định của pháp luật, đặc biệt là những quy định về trình tự, thủ tục tiến hành việc giải quyết một vụ án dân sự tại toà. Bởi vậy, giúp đương sự về mặt pháp lý xác định là một nghĩa vụ của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự là một quy định cần thiết, phù hợp với mục đích tham gia tố tụng của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Khi nhận nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi cho đương sự, luật sư, bào chữa viên nhân dân hay người khác được Toà án chấp nhận cần phải gánh lấy trách nhiệm là người cố vấn pháp lý cho đương sự trong suốt quá trình tố tụng, hướng dẫn họ các bước thực hiện, giải thích những điều họ chưa hiểu... nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
2.2.2.2. Nghĩa vụ bảo vệ pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa
Ngoài nghĩa vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự còn có nghĩa vụ bảo vệ pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đây chính là hai mặt không tách rời trong hoạt động của người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự. Bởi vì, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự sử dụng pháp luật là công cụ chủ yếu để bảo vệ quyền lợi cho khách hàng và muốn cho lợi ích của khách hàng được đảm bảo thì họ phải bảo vệ sự nghiêm minh của pháp luật. Chính vì thế, khi tham gia tố tụng, ngoài nghĩa vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự phải có trách nhiệm trong việc giúp cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, làm rõ sự thật khách quan của vụ án, giám sát hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, bảo vệ sự nghiêm minh của hoạt động tố tụng. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không được chỉ quan tâm tới lợi ích của khách hàng mà bất chấp sự thật, bất chấp pháp luật; thiếu sự cộng tác, tư vấn gây khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án.
Tóm lại, bên cạnh những quyền tố tụng, pháp luật cũng quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự phải thực hiện một số nghĩa vụ nhất định. Tổng hợp các quyền và nghĩa vụ này tạo nên địa vị pháp lý cho người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của đương sự. Việc quy định như vậy là cần thiết nhằm bảo đảm hoạt động của những người này được thực hiện trên thực tế, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, bảo vệ pháp luật, pháp chế xã hội chủ nghĩa.
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ NGƯỜI BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA ĐƯƠNG SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
3.1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường kéo theo các vấn đề khác nhau của xã hội phát triển theo đặc biệt là trong nhận thức của con người. Do vậy, một số lượng lớn người dân khi tham gia tố tụng đã nhờ người khác bảo vệ quyền lợi của mình trong những năm qua, đặc biệt là kể từ khi BLTTDS có hiệu lực.
Số lượng vụ việc có sự tham gia của luật sư và đương sự được tư vấn về mặt pháp lý tăng lên đáng kể. Với sự tham gia của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thì quyền lợi của đương sự được đảm bảo chắc chắn hơn, đặc biệt là đã thể hiện được vai trò quan trọng của luật sư trong việc tham gia tố tụng để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Nhiều năm trước đây, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự (ngoại trừ luật sư) thường là những người thậm chí chưa hề qua một lớp đào tạo nào về luật mà họ hoạt động nhờ kinh nghiệm và sự học hỏi thực tế vì vậy mà chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân và sự tin tưởng của Tòa án. Nhưng với năng lực hiện nay của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, vấn đề đó đã được khắc phục. Đương sự dần tìm đến các luật sư bởi sự vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ và mối quan hệ tốt với tòa án của họ.
Tuy nhiên ngoài những ưu điểm trên thì việc thực hiện các quy định của BLTTDS có liên quan đến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự còn có những hạn chế nhất định. Cụ thể:
- Thứ nhất: việc gây khó khăn cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không chỉ ở thủ tục cấp giấy chứng nhận bào chữa mà còn ở nhiều vấn đề khác nhau như thu thập tài liệu, chứng cứ. Nhiều trường hợp người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự bị tòa án gây khó khăn với nhiều lý do cho việc tiếp cận hồ sơ để nghiên cứu.
- Thứ hai: tại các phiên tòa, chưa có một cơ chế hữu hiệu để đảm bảo an toàn cho người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Ví dụ như vụ bị đơn Nguyễn Bích Thủy cầm guốc xông vào đánh luật sư Trần Đình Triển ngay trước mặt chủ tọa, thẩm phán, đại diện viện kiểm sát và những người tham dự phiên tòa trong phòng xử án TAND thành phố Hà Nội ngày 1/4/2008.(1)
- Thứ ba: Những quy định tiến bộ của BLTTDS về tranh luận tại một số phiên tòa nhiều khi chỉ mang tính hình thức. Một số thẩm phán quá coi nhẹ sự có mặt của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, nhiều bản án không hề ghi nhận quá trình tranh luận tại phiên tòa và trong nhiều trường hợp yêu cầu của họ cũng không được chấp nhận do tòa cho rằng không có căn cứ và cũng không có giải thích gì thêm.
- Thứ tư: Số lượng luật sư trung bình trên số dân còn quá thấp. hiện nước ta mới có khoảng 4.000 luật sư hành nghề, trung bình 20.000 người dân mới có một luật sư và khoảng 80% vụ án chưa có luật sư tham gia tố tụng. Số lượng luật sư phân bổ không đều trên cả nước, riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội đã tập trung khoảng 2.000 luật sư. Trong số những người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự vẫn có một, phần trong số đó khả năng bảo vệ đương sự còn yếu thậm chí nhiều khi còn gây bất lợi cho chính bản thân do cách bảo vệ vi phạm pháp luật.(2)
3.2. Nguyên nhân của những hạn chế trong quá trình áp dụng các quy định của pháp luật TTDS về người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
- Thứ nhất: từ nhân sự và hệ thống tổ chức tòa án
Trọng tâm của những hạn chế bất cập trong hệ thống cơ quan tiến hành tố tụng thường xuất phát từ phía tòa án là chính. Cụ thể là còn một số cán bộ, thẩm phán thiếu trách nhiệm, sa sút về phẩm chất, ý thức rèn luyện, không hoàn thành nhiệm vụ thậm chí vi phạm pháp luật.
Đội ngũ thẩm phán hiện nay vừa yếu, vừa thiếu. Trong hơn 4.000 thẩm phán các cấp, có khoảng 10% yếu kém về trình độ, năng lực, từng bị hủy hoặc sửa án. Trung bình mỗi thẩm phán một năm phải xét xử khoảng 60 vụ án thì ngành lại thiếu khoảng 2300 người. Nhân lực thiếu nhưng để tuyển và giữ người thì ngành tòa án đang bế tắc bởi hiện tượng chảy máu chất xám. Hệ thống tòa án được tổ chức theo đơn vị hành chính từ trung ương tới địa phương, nhân sự của tòa án chủ yếu là đảng viên, vì vậy sẽ không đảm bảo được sự độc lập của toà án trong quá trình xét xử bởi các thẩm phán không những bị phụ thuộc vào sự lãnh đạo của đảng mà còn bị chính quyền địa phương chi phối.
- Thứ hai: những quy định của pháp luật về người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự
+) Một số tòa căn cứ vào điều 63 BLTTDS đã gây cản trở cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia tố tụng. Nhiều trường hợp khi người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự đã xuất trình đầy đủ các giấy tờ, tài liệu theo luật định nhưng tòa án vẫn từ chối hoặc kéo dài thời gian cấp giấy chứng nhận bảo vệ. Quy định tại điều 63 dường như đã cho tòa án quyền quyết định có cho người bảo vệ đương sự tham gia tố tụng hay không. Do nhận thức của một số tòa án chưa được đầy đủ về ý nghĩa vai trò của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự nên đã gây khó khăn cản trở cho người bảo vệ quyền lợi ích của đương sự trong thực tiễn.
+) Điều 90 BLTTDS chỉ quy định cho thẩm phán có quyền trưng cầu giám định, tuy nhiên các thẩm phán thường không chủ động mà chờ khi có đơn yêu cầu của đương sự. Trong khi đó luật lại không quy định cho đương sự và người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự được trưng cầu giám định mà phải làm đơn tới thẩm phán thụ lý vụ việc. Điều này gây cản trở tới việc xác minh, thu thập chứng cứ của đương sự và người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của đương sự, đặc biệt là trong những vụ việc mà kết luận giám định là chứng cứ quan trọng nếu thiếu sẽ không giải quyết được vụ việc.
+) Điều 64 BLTTDS quy định “người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự được tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm nếu tòa án xét thấy cần thiết”. Như vậy chỉ khi nào tòa án xét thấy cần thiết thì mới cho người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự tham gia thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tuy nhiên trên thực tế rất khó có khả năng này bởi đây là một thủ tục đặc biệt, nhiều khi không cần thiết thì tòa án không triệu tập đương sự đến. Vì vậy quy định này tạo cho tòa án quyền hạn rất lớn trong việc xác định thế nào là cần thiết và là nguyên nhân hạn chế hầu hết sự tham gia giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
- Thứ ba: Xuất phát từ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
Tuy rằng người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có vai trò rất lớn trong vụ việc dân sự, nhưng chúng ta phải thừa nhận rằng vẫn còn tồn tại rất nhiều hạn chế đối với bộ phận tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Một trong những hạn chế lớn nhất là trình độ của luật sư, còn thiếu cả số lượng và chất lượng. Trong 4.000 luật sư thì chỉ có rất ít người đủ tiêu chuẩn tham gia giải quyết các tranh chấp quốc tế nhưng số lượng luật sư ít ỏi này cũng chưa tham gia giải quyết một vụ tranh chấp quốc tế nào. Mặc dù nước ta có cơ sở đào tạo Luật sư nhưng chất lượng đào tạo không thể đảm bảo để người học có thể hành nghề được sau khi tốt nghiệp. Bên cạnh đó, một số luật sư khi tham gia bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự không những không làm tròn nghĩa vụ mà còn vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức nghề nghiệp như sử dụng những biện pháp bất hợp pháp để bảo vệ khách hàng hoặc giao kết hợp đồng với khách hàng nhằm thu lợi bất chính. Chính điều này đã gây bất lợi cho đương sự được bảo vệ và nhiều khi chính luật sư cũng bị xử lý theo quy định của pháp luật.
3.3. Một số kiến nghị
- Thứ nhất: tiếp tục nâng cao chất lượng của thẩm phán và định hướng xây dựng hệ thống tòa án nhân dân theo chiến lược cải cách tư pháp. Theo đó đội ngũ cán bộ tòa án, đặc biệt là thẩm phán phải là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành, cần có chế độ ưu đãi thích hợp với thẩm phán thì sự tận tâm sẽ được nâng lên. Đồng thời cần xử lý nghiêm các hành vi tiêu cực như nhận tiền hối lộ, chạy án. Ngoài ra cần làm tốt việc nâng cao tranh tụng tại tòa, tăng cường hòa giải trong việc giải quyết việc dân sự, thường xuyên kiểm tra công tác xét xử…
Về hệ thống tố chức tòa án phải thực hiện theo tinh thần của nghị quyết 49/2005/NQ – TW là xây dựng đề án thành lập tòa án theo thẩm quyền mà không tổ chức tòa án theo đơn vị hành chính như hiện nay để tránh được sức ép từ chính quyền địa phương và giảm áp lực cho TAND.
- Thứ hai: tăng cường sự giám sát các hoạt động tư pháp của viện kiểm sát trong tất cả các vụ việc dân sự. Với những khiếm khuyết của tòa án về nhân sự và tổ chức như trên đã phân tích là một trong những nguyên nhân dẫn đến những sai phạm trong hoạt động tố tụng của những người tiến hành tố tụng. Do vậy, cần phải quy định cho viện kiểm sát được tham gia tất cả các vụ việc dân sự để cơ quan này thực hiện chức năng giám sát các hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, đặc biệt là tòa án trong việc giải quyết vụ việc dân sự.
- Thứ ba: cần sửa đổi một số quy định của pháp luật TTDS liên quan đến người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
+) Quy định tại điều 63 BLTTDS cần được sửa đổi, bỏ cụm từ “được tòa án chấp nhận” để tránh tâm lý cầu cạnh nơi cửa tòa. Quy định phải được tòa án chấp nhận thì người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự mới được tham gia là không hợp lý bởi dân sự là một ngành luật tư, các quan hệ phát sinh, thay đổi chấm dứt đều do ý chí của các chủ thể.
Cũng theo quy định tại điều này thì những người là cán bộ, công chức trong ngành tòa án, viện kiểm sát, công an không được làm người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự để đảm bảo tính khách quan trong việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên quy định này còn bỏ ngỏ bởi sau khi họ không còn là cán bộ công chức trong các ngành đó thì họ có quyền trở thành người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Để tránh ti
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự.doc