Người thừa kế do mưu đồ muốn chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản thừa kế mà người thừa kế khác có quyền được hưởng nên đã có hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác (giết người thừa kế khác). Người thừa kế khác ở đây có thể hiểu theo hai hướng:
- Thứ nhất, người thừa kế cùng hàng
- Thứ hai, người thừa kế không cùng hàng – trong trường hợp này buộc phải là người thừa kế hàng phía trên. Vì không có lý do gì giết người ở hàng thừa kế phía sau với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản thừa kế mà người thừa kế đó được hưởng được.
Tuy nhiên cần phải phân biệt ba trường hợp xâm phạm đến tính mạng của người thừa kế khác như sau:
- Cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác – giết người thừa kế khác với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế đó được hưởng: trong trường hợp này, người thừa kế thực hiện hành vi đó sẽ không được quyền hưởng di sản thừa kế
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4272 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Người không được quyền hưởng di sản – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
di chúc
Người không được quyền hưởng di sản – Điều 643 BLDS 2005
Người không được quyền hưởng di sản được quy định tại điều 643 Bộ luật Dân sự 2005. Về vấn đề ngày có hai điểm cần được xem xét đó là: những trường hợp không có quyền hưởng di sản và hiệu lực tình trạng không có quyền hưởng di sản
Những trường hợp không có quyền hưởng di sản
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó (điểm a khoản 1 điều 643)
Điều kiện chính được đặt ra trong trường hợp này đó là phải có một bản án có hiệu lực của pháp luật. Vì vậy, người không bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc không bị kết án Các trường hợp không bị truy cứu trách nhiệm hình sư hoặc không bị kết án dù đã có hành vi phạm pháp được quy định tại điều 89 BLHS 1999:
Người thực hiện hành vi chưa đến tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự
Người mà hành vi phạm tội của họ đã có bản án hoặc quyết định đình chỉ vụ án có hiệu lực pháp luật
Hành vi phạm tội đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự
Tội phạm đã được đại xá
Người thực hiện hành vi đã chết
thì sẽ không bị ràng buộc bởi điều này. Mặt khác, nếu một người đã bị kết án, sau đó được xóa án tích thì vẫn không được quyền hưởng di sản theo quy định tại điều này.
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe của người để lại di sản: người có hành vi cố ý giết người để lại di sản và đã bị kết án về hành vi đó thì không có quyền thừa kế di sản của người để lại di sản. Điều cần lưu ý ở đây đó là hành vi này phải là cố ý hòng tước đoạt sinh mạng của người để lại di sản, và hành vi này phải là hành vi trái pháp luật. Điều đó khẳng định rằng, nếu hành vi tước đoạt tính mạng của người để lại di sản là hành vi không trái pháp luật (người thực hiện hành vi không có lỗi hoặc đang thi hành án tử hình) thì họ vẫn được quyền hưởng di sản. Trong trường hợp, người thừa kế bị kết án về hành vi vô ý làm chết người để lại di sản (lỗi ở đây là lỗi vô ý) thì người thừa kế vẫn được hưởng di sản theo pháp luật của người để lại di sản (mà người thừa kế vô ý làm chết).
Người đã có hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di chúc và đã bị kết án về tội danh này thì cũng sẽ không được quyền hưởng quyền thừa kế của người đã bị ngược đãi, hành hạ sau khi người đó chết. Đây có thể xem là những hành vi trái với pháp luật, đồng thời trái với đạo đức xã hội, bởi lẽ đó, những người này không thể có quyền hưởng di sản của người mà họ đã thực hiện những hành vi sai trái đó.
Người có hành vi cố ý xâm phạm đến nhân phẩm danh dự của người để lại di sản và bị kết án về hành vi đó cũng không có quyền hưởng di sản thừa kế do người bị xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm để lại
Cần lưu ý ở đây, đó là, đây buộc phải là lỗi cố ý, khi hành vi được thực hiện do lỗi vô ý và đã bị kết án với cùng tội danh nhưng là hành vi vô ý, thì người đó vẫn không bị mất quyền hưởng di sản.
Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản (Điểm b khoản 1 điều 643)
Quan hệ nuôi dưỡng trong điều khoản này đề cập tới đó là quan hệ nuôi dưỡng giữa người thừa kế theo pháp luật và người để lại di sản khi người để lại di sản còn sống. Nghĩa vụ nuôi dưỡng ở đây phải được pháp luật quy định một cách chính thức (nghĩa vụ pháp lý) chứ không phải là nghĩa vụ đạo đức thuần túy. Nghĩa vụ nuôi dưỡng ở đây có thể được hiểu rộng ra là: nghĩa vụ nuôi dưỡng, chăm sóc người để lại di sản khi còn sống và nghĩa vụ cấp dưỡng người để lại di sản khi còn sống. Nghĩa vụ nuôi dưỡng phát sinh trong các quan hệ sau: cha mẹ - con, anh chị em ruột với nhau, ông bà nội, ngoại – cháu, vợ - chồng,… trong trường hợp một bên cần nuôi dưỡng.
Người thừa kế phải có nghĩa vụ nuôi dưỡng và cấp dưỡng đối với người để lại di sản trong những trường hợp sau:
Người để lại di sản là cha mẹ hoặc con của người đó
Nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa cha mẹ con là một trong những đạo đức của người Việt Nam, không chỉ vậy, nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa cha mẹ con còn được pháp luật quy định và cụ thể hóa trong Luật Hôn nhân và Gia đình 2000 (sau đây gọi là Luật Hôn nhân và Gia đình) (điều 36) và có chế tài nghiêm khắc nếu vi phạm được quy định tại điều 151 BLHS 1999
Điều 36: Nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng
Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ, đặc biệt khi cha mẹ ốm đau, già yếu, tàn tật; trong trường hợp gia đình có nhiều con thì các con phải cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ
Theo quy định tại điều khoản này thì cha mẹ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con trong hai trường hợp:
+ Con chưa thành niên
+ Con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình
Con có quyền lập di chúc để lại thừa kế trong ba trường hợp:
+ Con đã thành niên, có đầy đủ năng lực hành vi dân sự
+ Con chưa thành niên trên mười lăm tuổi, có tài sản riêng
+ Con đã thành niên nhưng bị tàn tật, tuy nhiên không mất năng lực hành vi dân sự
Có thể thấy, trong ba trường hợp này, cha mẹ chỉ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con trong hai trường hợp sau. Mặt khác, cha mẹ là người đương nhiên được hưởng di sản thừa kế của con bất kể có được con để lại di sản theo di chúc hay không (người thừa kế không phụ thuộc vào nôi dung của di chúc – điều 669) nhưng nếu cha mẹ không thực hiện quyền và nghĩa vụ nuôi dưỡng con trong khi con thuộc trường hợp thứ hai và thứ ba thì cha mẹ cũng sẽ không được hưởng bất kỳ tài sản nào từ di sản thừa kế của con.
Trong khi chỉ có một số trường hợp cha mẹ mới buộc phải nuôi dưỡng con, thì nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ của con là trong mọi trường hợp, bất luận tình trạng sức khỏe của cha mẹ ra sao, tình hình kinh tế của cha mẹ như thế nào!
Người để lại di sản là anh chị em của người đó
Nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa các anh chị em cũng được quy định trong điều 48 Luật Hôn nhân và Gia đình 2000, theo đó thì anh, chị em có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện trông nom, chăm sóc giáo dục con.
Như vậy nghĩa vụ nuôi dưỡng của anh, chị, em (người thừa kế theo di chúc) đối với người để lại thừa kế khi người này nằm trong tình trạng trên, đồng thời họ là người chưa thành niên (tròn mười lăm nhưng chưa đủ mười tám tuổi) hoặc là người bị tàn tật nhưng không bị mất năng lực hành vi.
Người để lại di sản là ông bà của người đó hoặc là cháu của người đó
Theo khoản 1 điều 47 Luật Hôn nhân và Gia đình: Ông, bà nội, ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi dưỡng mình, đồng thời cũng không có cha, mẹ, anh, chị, em có thể nuôi dưỡng được.
Theo khoản 2 điều 47 Luật Hôn nhân và Gia đình cũng đã xác định rằng cháu có nghĩa vụ phải phụng dưỡng ông bà.
Bởi vậy nếu người thừa kế và người để lại di chúc thuộc một trong hai trường hợp này mà người thừa kế lại không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc nuôi dưỡng người để lại di sản thì người thừa kế cũng không được hưởng di sản thừa kế theo quy định của điều luật này.
Trong điều khoản này có quy định rằng người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng với người để lại di sản thì không được quyền hưởng di sản. Vậy như thế nào là nghiêm trọng và căn cứ vào đâu để xác định mức độ nghiêm trọng? Thực chất, tính chất nghiêm trọng này hoàn toàn phụ thuộc vào quyết định của thẩm phán. Vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng ở đây được hiểu là, có khả năng thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng mà không thực hiện làm cho người cần được nuôi dưỡng lâm vào tình trạng khổ sở hoặc nguy hiểm tới tính mạng.
Tuy nhiên, điều khoản này được cho là mang nhiều tính chất đạo đức, bởi lẽ, nếu một người đã không có khả năng tự nuôi bản thân, phụ thuộc hoàn toàn vào sự nuôi dưỡng của người khác, và nếu thiếu sự nuôi dưỡng đó họ sẽ lâm vào tình trạng khổ sở hoặc nguy hiểm tới tính mạng thì không thể có tài sản để để lại thừa kế.
Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng (điểm c khoản 1 điều 643)
Người thừa kế do mưu đồ muốn chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản thừa kế mà người thừa kế khác có quyền được hưởng nên đã có hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác (giết người thừa kế khác). Người thừa kế khác ở đây có thể hiểu theo hai hướng:
Thứ nhất, người thừa kế cùng hàng
Thứ hai, người thừa kế không cùng hàng – trong trường hợp này buộc phải là người thừa kế hàng phía trên. Vì không có lý do gì giết người ở hàng thừa kế phía sau với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản thừa kế mà người thừa kế đó được hưởng được.
Tuy nhiên cần phải phân biệt ba trường hợp xâm phạm đến tính mạng của người thừa kế khác như sau:
Cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác – giết người thừa kế khác với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế đó được hưởng: trong trường hợp này, người thừa kế thực hiện hành vi đó sẽ không được quyền hưởng di sản thừa kế
Cố ý xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác – giết người thừa kế khác nhưng không phải với mục đích chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế đó được hưởng. Trong trường hợp này, người thừa kế thực hiện hành vi giết người thừa kế khác không bị tước quyền hưởng di sản.
Vô ý làm chết người thừa kế khác: dĩ nhiên trong trường hợp này là lỗi vô ý, hoàn toàn không thuộc trường hợp bị tước quyền thừa kế, nên người thực hiện hành vi này vẫn có quyền hưởng di sản.
Điều đáng lưu ý ở đây, cũng giống như ở trường hợp không được quyền hưởng di sản đầu tiên, phải có một bản án có hiệu lực của pháp luật thì người thực hiện hành vi giết người thừa kế khác đó mới bị tước quyền thừa kế.
Ngoài ra, việc áp dụng quy tắc này cũng còn tùy thuộc vào việc có minh chứng được hay không động cơ phạm tội của người thừa kế: hành vi đó có nhằm mục đích để chiếm đoạt một phần hoặc toàn bộ di sản mà người thừa kế có tính mạng bị xâm phạm được hưởng nếu còn sống hay không?
Có hai điều chú ý sau đây:
Thứ nhất, hành vi phạm pháp phải xảy ra trước thời điểm mở thừa kế. Tại sao lại phải xảy ra trước thời điểm mở thừa kế? Bởi lẽ, nếu sau thời điểm mở thừa kế, mỗi người thừa kế đã trở thành chủ sở hữu thực sự phần thừa kế của mình. Nếu người thừa kế đó chết thì phần được thừa kế được để lại cho những người thừa kế của họ chứ không phải là kẻ giết người.
Ví dụ: A và B kết hôn hợp pháp có con chung là C, D, E. C có vợ là M. A chết không để lại di chúc. Sau khi A chết, D giết C. Nhưng thực tế, thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết. Tại thời điểm đó, phần di sản của C được hưởng đã được gộp vào phần tài sản riêng của C. Và người thừa kế của C sau khi C chết là M và B chứ không phải D. Bởi vậy, trong trường hợp này không thể xem hành vi giết người thừa kế cùng hàng của D là nhằm chiếm đoạt một phần di sản của A được.
Trường hợp khác, giả sử, kẻ giết người cũng là một người có quyền hưởng thừa kế của người bị giết, thì các quy tắc thiết lập tại điểm a khoản 1 điều 643 sẽ được áp dụng.
Ví dụ: A và B kết hôn hợp pháp, có ba người con chung là C, D, E. Tháng 7/2010 A chết. Tháng 8/2010, C giết B. Trong trường hợp này có thể thấy, C là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của B. Nhưng C đã có hành vi giết B, nên theo điểm a khoản 1 điều 643, C sẽ không được quyền hưởng di sản của B. Tuy nhiên, C hoàn toàn không ở tình trạng không có quyền hưởng di sản của A.
Người thừa kế thực hiện hành vi xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác với mong muốn làm tăng phần thừa kế mình được hưởng một cách trực tiếp trong di sản của người mà họ và người có tính mạng bị xâm hại được hưởng chung. Sự mong muốn ấy phải có cơ sở trên thực tế.
Nếu như trường hợp như ví dụ sau đây thì có thể xem là mục đích làm tăng thêm phần của mình được hưởng là không có căn cứ:
Ví dụ: A và B kết hôn hợp pháp, có ba người con chung là anh C, anh D và chị E. Anh C kết hôn hợp pháp với chị M và có con chung là cháu K và cháu H. Tháng 5/2009 ông A chết mà không để lại di chúc. Trong trường hợp này, di sản của ông sẽ được chia đều cho bốn người thuộc hàng thừa kế thứ nhất đó là bà B (vợ ông A) và ba người con: anh C, anh D và chị E. Trong trường hợp này, giả sử trước khi ông A chết, anh D có hành vi giết anh C. Tuy nhiên, do anh C có người thế vị, nên dù D có giết C cũng không thể tăng thêm phần di sản mình được hưởng được, mà phần di sản (đáng lý được để lại cho C) thì hai cháu K và H sẽ được hưởng theo nguyên tắc thế vị.
Trái lại, trong trường hợp nếu A có để lại di chúc thì phần tài sản để lại cho anh C sẽ bị vô hiệu và sẽ được đem ra chia theo pháp luật và kẻ giết người – anh D sẽ được hưởng một phần trong đó.
Thứ hai, động cơ phạm tội phải được ghi nhận trong bản án. Do đó, bản án không thể được tuyên trước khi mở thừa kế. Vì sẽ rất bất hợp lý nếu gán cho một người có ý định chiếm đoạt phần tài sản (di sản) không tồn tại ở thời điểm phạm tội và cũng không tồn tại ở thời điểm xét xử. Bản án chỉ có thể được tuyên sau khi mở thừa kế. Trong trường hợp án đã xử xong trước thời điểm mở thừa kế thì có thể được xét xử lại theo thủ tục tái thẩm.
Cũng giống như trong trường hợp nêu tại điểm a khoản 1 điều 643 thì dù người thừa kế phạm tội quy định tại điều khoản này được xóa án tích thì vẫn không được hưởng di sản.
Tuy nhiên, cũng không nên bỏ qua một thực tế rằng người cung cấp bằng chứng về động cơ phạm tội thông thường là người có quyền và lợi ích liên quan đến di sản và không loại trừ trường hợp là người đồng thừa kế. Giả sử người phạm tội và bị tuyên không có quyền hưởng di sản thì chính người cung cấp chứng cứ đồng thời là người thừa kế đó sẽ nhận lấy phần của người phạm tội và phần của người để lại di sản (một phần hoặc toàn bộ).
Cùng xem xét vấn đề này qua ví dụ sau đây: A và B kết hôn hợp pháp và có hai người con chung là anh C và anh D. Ngày 15/8/2008, C giết mẹ của mình là B. Do mang bệnh đã lâu, đồng thời cú sốc về tinh thần quá lớn khi biết tin C giết B nên đến ngày 16/8/2008, A qua đời mà không để lại di chúc. D đâm đơn tố giác C với hành vi giết B nhằm làm tăng phần di sản của mình được hưởng sau khi A qua đời. Tòa tuyên C không được quyền hưởng di sản. Nghiễm nhiên, sau sự kiện này, D được hưởng toàn bộ di sản của ông A (do là người thừa kế duy nhất có quyền hưởng di sản), hưởng toàn bộ di sản của bà B (do là người thừa kế duy nhất có quyền hưởng di sản).
Qua tình huống nêu trên có thể thấy, không thể loại trừ khả năng người cung cấp chứng cứ thúc đẩy vụ án chỉ vì lợi ích vật chất đó. Nếu có đủ bằng chứng về động cơ hành động của người tố giác hoặc khởi kiện thì việc đó có nên hay không áp dụng điều 643 đối với người bị tố giác và khởi kiện. Đây có thể xem là một vấn đề vẫn còn vướng mắc và cần được chú ý thêm qua 20 năm áp dụng quy định về người không được quyền hưởng di sản.
Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm hưởng một phần hặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản (điểm c khoản 1 điều 643)
Di chúc thể hiện ý chí của người có tài sản lập ra, định đoạt phần tài sản đó của mình cho những người thừa kế sau khi người lập di chúc chết đi. Di chúc là một giao dịch đơn vụ, có nghĩa là giao dịch dân sự chỉ thể hiện ý chí của một bên – đó là người lập di chúc. Ý chí của người lập di chúc là hoàn toàn tự do, tự nguyện, tự định đoạt tài sản của mình cho người đã được chỉ định. Pháp luật cũng quy định về điều kiện để lập di chúc (điều 647 BLDS 2005), theo đó, người lập di chúc phải đủ điều kiện về độ tuổi lập di chúc và điều kiện để di chúc hợp pháp (điều 652 BLDS 2005), theo đó người lập di chúc phải trong tình trạng minh mẫn, sáng suốt, hoàn toàn làm chủ được suy nghĩ và hành vi của bản thân, không bị ràng buộc bởi bất cứ tác nhân nào. Người lập di chúc hiểu được mình muốn định đoạt tài sản như thế nào.
Quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của cá nhân chính là quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu khi còn sống. Hành vi cản trở đối với người lập di chúc là hành vi trái pháp luật, do vậy, người có hành vi cản trở sẽ bị tước quyền hưởng di sản do người có di sản để lại.
Điều luật nhắc tới các hành vi lừa dối, cưỡng ép, ngăn cản việc lập di chúc, giả mạo, sửa chữa, hủy di chúc, tuy nhiên còn một số hành vi không được nhà làm luật nêu ra như làm di chúc giả, giấu giếm di chúc,… có thể được xử lý theo nguyên tắc áp dụng pháp luật tương tự.
Có thể thấy, khác với ba trường hợp không được quyền hưởng di sản đã kể trên, trường hợp này được dự kiến trong điều kiện mối quan hệ được bảo vệ là quyền thừa kế theo ý nghĩa vật chất chứ không phải theo ý nghĩa đạo đức. Trên thực tế, nếu người lập thừa kế bị cưỡng ép hoặc ngăn cản trong việc lập di chúc thì người đó vẫn có thể sử dụng quyền truất quyền hưởng di sản của người thừa kế; còn nếu hành vi cưỡng ép, ngăn cản có dấu hiệu bạo lực nghiêm trọng thì có thể áp dụng các quy tắc trong trường hợp đầu tiên đã nêu. Điều đáng lưu ý là, trong trường hợp người thừa kế có hành vi lừa dối người lập di chúc hoặc giả mạo di chúc,… mà không nhằm mục đích hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người lập di chúc thì chỉ áp dụng các biện pháp chế tài thông thường của luật dân sự như bồi thường thiệt hại chứ không áp dụng theo khoản 1 điều 643.
Cũng có một số trường hợp, hành vi bị cấm được thực hiện vẫn với mong muốn được hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người lập di chúc, nhưng lại không trái với đạo đức hoặc trái đạo đức nhưng ít nghiêm trọng hơn so với quyết định của người lập di chúc. Trong các trường hợp đó, việc lựa chọn biện pháp xử lý nên là kết quả của một quá trình xem xét vừa có lý vừa có tình.
Những người thừa kế thuộc một trong các trường hợp đã kể trên vẫn có quyền hưởng di sản
Theo khoản 2 điều 643 BLDS thì: “Những người quy định tại khoản 1 điều này vẫn được hưởng di sản nếu người để lại di sản đã biết hành vi của những người đó nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc”
Theo quy định tại điều khoản này thì người để lại di chúc sau khi biết được các hành vi của người thừa kế, vốn không được quyền hưởng di sản theo khoản 1 điều 643 BLDS nhưng vẫn thể hiện ý chí cho người này hưởng di sản thì người này cũng vẫn được hưởng di sản thừa kế tuy nhiên chỉ được hưởng di sản theo di chúc. Nếu một phần di sản không phát sinh hiệu lực hay người để lại di sản không định đoạt hết phần tài sản của mình, người thừa kế đã nêu trên không có quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật.
Như vậy có thể thấy pháp luật luôn có những quy định tôn trọng quyền tự định đoạt tài sản theo ý chí chủ quan của người để lại di sản, tuy biết được hành vi của người mà nếu theo quy định của pháp luật là bất xứng nhưng vẫn thể hiện ý chí cho họ hưởng di sản thì họ được hưởng di sản theo di chúc. Theo quy định này, pháp luật thừa kế Việt Nam hiện hành đã thể hiện rõ bản chất nhân đạo và phù hợp với quan niệm trong nhân dân ta là tha thứ cho những hành vi theo quy định của pháp luật là phạm pháp nhưng trên phương diện của quan hệ xã hội thông thường, người có hành vi vi phạm pháp luật này vẫn được những người thân thích tha thứ.
Hiệu lực của tình trạng không có quyền hưởng di sản
Người không có quyền hưởng di sản không có quan hệ thừa kế với người có di sản.
Trong pháp luật dân sự của Pháp, tình trạng không có quyền hưởng di sản chỉ có tác dụng thủ tiêu quyền thừa kế theo pháp luật, còn nếu muốn tước bỏ các quyền lợi của đương sự trong di sản di chuyển theo ý chí thì những người có liên quan phải tiến hành hủy bỏ tặng cho và di tặng theo quy định định riêng.
Theo khoản 2 điều 643 BLDS nước ta thì nếu người có di sản đã biết được hành vi của người ở trong tình trạng không có quyền hưởng di sản nhưng vẫn cho họ hưởng di sản theo di chúc thì họ vẫn được hưởng di sản. Trong trường hợp này ta nói rằng, người có di sản có quyền tha thứ. Song, dù muốn tha thứ, người có di sản chỉ có thể loại trừ các hệ quả của tình trạng không có quyền hưởng di sản đối với thừa kế theo di chúc. Còn nếu phần tài sản không được định đoạt bằng di chúc sẽ được chuyển cho những người thừa kế theo pháp luật, mà trong số họ thì không có người ở trong tình trạng không có quyền hưởng di sản.
Có thể thấy, tình trạng không có quyền hưởng di sản chỉ có tính chất tương đối, nhưng nó có thể làm phát sinh hệ quả đối với quyền lợi của một vài người thân thuộc trực hệ của người không có quyền hưởng di sản.
Tính tương đối của tình trạng không có quyền hưởng di sản
Người ở trong tình trạng không có quyền hưởng di sản của một người khác chỉ bị loại ra khỏi một quan hệ thừa kế xác định chứ không bị mất năng lực thừa kế tổng quát.
Xét trong trường hợp sau: A và B kết hôn hợp pháp và có ba người con chung là anh C, chị D và chị E. Chị D kết hôn hợp pháp với anh M. A mắc bệnh ung thu giai đoạn cuối. Với mong muốn làm tăng thêm phần di sản thừa kế mà mình được hưởng từ bố là ông A và tin tưởng rằng có thể lẩn tránh được pháp luật, ngày 22/5/2006, chị D đã bỏ thuốc độc vào cốc nước và cho anh C uống. Cùng ngày đó, anh C chết vì uống thuốc độc. Ngày 14/9/2006, ông A qua đời không để lại di chúc. Chị D bị tuyên án đã thực hiện hành vi giết người cùng hàng thừa kế. Ngày 8/12/2010, anh M qua đời (không để lại di chúc).
Trong trường hợp này có thể thấy, rõ ràng chị D không được quyền hưởng di sản của ông A do thực hiện hành vi xâm phạm tính mạng của người thừa kế khác theo điểm c khoản 1 điều 643 BLDS và cũng không được quyền hưởng di sản của anh C do thực hiện hành vi xâm phạm tính mạng của người để lại di sản theo điểm a khoản 1 điều 643 BLDS, tuy nhiên khi bà B chết, chị D vẫn hoàn toàn được hưởng di sản thừa kế của chồng là anh M.
Vậy, có thể thấy, người không có quyền hưởng di sản đối với một người vẫn bảo toàn quyền lợi của mình trong tất cả các di sản khác, trừ trường hợp cũng do hành vi đó, người thực hiện hành vi ở trong tình trạng không có quyền hưởng di sản của người khác.
Trong một vài trường hợp đặc thù, quy tắc này có thể dẫn tới việc chấm dứt mặc nhiên tình trạng không có quyền hưởng di sản ở một thời điểm thích hợp nhờ kỹ thuật chuyển qua trung gian.
Lấy ví dụ về trường hợp này: ông M và bà N kết hôn hợp pháp và có hai người con là anh Y và anh X. Anh X thực hiện hành vi giết anh Y với mục đích làm tăng phần di sản được thừa kế từ ông M. Sau khi ông M chết, phần di sản thừa kế của ông được để lại hoàn toàn cho người thừa kế duy nhất là bà N. Vài ngày sau bà N chết, và người thừa kế duy nhất của bà là anh C – không bị tước quyền hưởng di sản thừa kế của bà N – phần di sản thừa kế của ông A (trong khối di sản của bà N) lại được thừa kế lại cho anh C. Như vậy, anh C vẫn được hưởng di sản của ông A mặc dù vốn dĩ đã bị tước quyền thừa kế theo điều 643 BLDS do kỹ thuật chuyển qua trung gian.
Quyền lợi của người thân thuộc của người không có quyền hưởng di sản
Trên nguyên tắc, tình trạng không có quyền hưởng di sản không để lại hậu quả cho những người thân thuộc của đương sự: con có hành vi xâm phạm tính mạng của cha thì mẹ vẫn có quyền hưởng di sản của cha với tư cách thừa kế thuộc hàng thứ nhất.
Một trường hợp ngoại lệ, những người chỉ có thể được gọi để nhận di sản bằng con đường thế vị sẽ phải gánh chịu hậu quả của tình trạng không có quyền được hưởng di sản của cha hoặc mẹ người đó. Về mặt kỹ thuật, giải pháp ấy hoàn toàn hợp lý bởi, người ta chỉ thế vị một người để được hưởng phần di sản của người đó nếu còn sống, bởi vậy, nếu phần của người được thế vị không tồn tại thì thừa kế thế vị sẽ không được áp dụng vì không có đối tượng.
Một số nhận xét cùng những ý kiến đề xuất nhằm làm hoàn thiện quy định về những người thừa kế không có quyền hưởng di sản theo pháp luật.
Thứ nhất, trong điều 643 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định người không được quyền hưởng di sản, bao gồm cả người thừa kế theo luật và cả người thừa kế theo di chúc. Đó là những người đáng lẽ được hưởng di sản vì theo quy định của pháp luật thì họ là người thừa kế của người để lại di sản hoặc đã được lập di chúc cho họ hưởng nhưng những người này lại có hành vi trái pháp luật, trái đạo đức nên bị pháp luật tước đi quyền hưởng di sản theo luật cũng như theo di chúc. Tuy nhiên tính trái pháp luật và đạo đức trong hành vi của người thừa kế phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định bằng một bản án hoặc bằng một quyết định. Mặt khác, một bản án chỉ được thi hành khi đã có hiệu lực pháp luật bởi nó có thể bị sai sót và có thể bị một cấp xét xử khác sửa đổi hoặc hủy bỏ. Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định : “ Không ai có thể bị coi là có tội nếu chưa có bản án kết tội dù đã có hiệu lực của tòa án”. Vì vậy, hành vi của người thừa kế dù đã bị kết án bằng một bản án thì vẫn chưa thể kết luận người đó phạm tội. Bản án đó chỉ được coi là căn cứ để tước quyền hưởng di sản của người có tên trong di chúc khi đã có hiệu lực pháp luật. Do vậy, v
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bt k7923 hon ch7881nh.doc