MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
PHẦN NỘI DUNG 2
I.NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA LỢI NHUẬN 2
1.Quan điểm của trường phái trọng thương về lợi nhuận. 2
2. Quan điểm của trường phái trọng nông về lợi nhuận. 2
3.Quan điểm của trường phái kinh tế chính trị học tư sản cổ điển
về lợi nhuận 3
4.Quan điểm của trường phái Samuellson về lợi nhuận . 4
5.Học thuyết kinh tế của C.Mac ( quan đIểm lợi nhuận của Mac) 5
a. Quá trình tạo ra giá trị thặng dư. 5
b. Lợi nhuận. 7
c. Tỉ suất lợi nhuận. 8
d. Quá trình bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận. 9
e. Các hình thức biểu hiện của lợi nhuận. 10
II.VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 12
1.Lợi nhuận trong nền kinh tế . 13
a. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. 13
b. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển. 13
c. Vai trò của lợi nhuận đối với quá trình tái sản xuất xã hội. 15
d. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế. 15
e. Vai trò của lợi nhuận đối với các mặt của đời sống xã hội. 16
f. Những biện pháp, các thủ đoạn để thu lợi nhuận 17.
i. Hậu quả do theo đuổi lợi nhuận gây ra 17
2. Lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường 18
a. Sự chuyển đổi cơ chế cũ sang cơ chế mới ở Việt nam. 18
b. Vấn đề lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường hiện nay. 21
c. Các giải pháp nhằm đạt mục tiêu trên 22.
III. Ý NGHĨA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ Ý KIẾN CÁ NHÂN 22
PHẦN KẾT LUẬN 23
Tài liệu tham khảo 24
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1461 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trong việc tạo giá trị thặng dư. Từ đây ta kết luận :“Giá trị của một hàng hoá bằng giá trị tư bản bất biến mà nó chứa đựng, , cộng với giá trị tư bản khả biến đó (tức là giá trị thặng dư đã được sản xuất ra ). Nó được biểu hiện bằng công thức : Giá trị = c + v + m
Sự phân chia tư bản thành tư bản bất biến và tư bản khả biến đã chỉ ra thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa , chỉ có lao động của công nhân làm thuê mới tạo ra giá trị thặng dư của tư bản (tư bản đã bóc lột một phần giá trị mới do công nhân tạo ra ).Nó được biểu hiện một cách ngắn gọn qua quá trình :
Giá trị = c+v+m
Giá trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm : c
Giá trị lao động của người công nhân (mà nhà tư bản trả cho người công nhân ): v
Giá trị mới do người công nhân tạo ra :v+m
Như thế tư bản bỏ ra một lượng tư bản để tạo ra giá trị là c+v . Nhưng giá trị mà tư bản thu vào là c+v+m. Phần M dôi ra là phần mà tư bản bóc lột của người công nhân.
b.Lợi nhuận.
Quá trình sản xuất ra giá trị thặng dư chỉ là sự biểu hiện qua sản phẩm còn thực tế để thu được tiền thì sự chuyển hoá giá trị thặng dư như thế nào. Vì công thức chung của tư bản là T-H-T’ nên mục đích cuối cùng của nhà tư bản là thu được T’ còn m chỉ là tiền đề là nền tảng để thu được T’ (T>T’). Mac đã giúp ta giải quyết vấn đề này vì ông đã tìm ra một đại lượng biểu hiện giá trị thặng dư đó là lợi nhuận (P) .Vậy:
“Giá trị thặng dư khi được đem so sánh với tổng tư bản ứng trước thì mang hình thức biến tướng thành lợi nhuận ”. Từ đó ta có thể thấy P chính là con đẻ của tổng tư bản ứng trước c+v.
Để hiểu rõ hơn về P chúng ta có thể đi sâu vào phân tích chi phí thực tế xã hội và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa xuất phát từ giá trị hàng hoá c+v+m.
Muốn sản xuất hàng hoá phải chi phí lao động nhất định bao gồm chi phí mua bán tư liệu sản xuất (c) gọi là lao động quá khứ và lao động tạo ra giá trị mới (v+m) .Đứng trên quan điểm toàn xã hội , quan điểm của người lao động thì chi phí đó là chi phí thực tế để tạo ra giá trị hàng hoá (c+v+m) .Nhưng đối với nhà tư bản thì họ không hao phí thực tế để sản xuất hàng hoá nên nhà tư bản chỉ xem hết bao nhiêu tư bản chứ không tính xem chi phí hết bao nhiêu lao động cần thiết .Thực tế họ chỉ ứng ra số tư bản để mua tư liệu sản xuất (c) và mua sức lao động (v). Chi phí đó được Mac gọi là chi phí tư bản chủ nghĩa và kí hiệu là k ( k = c+v ). Như vậy chi phí tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí thực tế .Giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự chênh lệch nhau một lượng đúng bằng m. Do đó nhà tư bản hàng hoá sẽ thu về một phần lời đúng bằng giá trị thặng dư m, số tiền này gọi là lợi nhuận.
Giá trị hàng hoá lúc này bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng sản với lợi nhuận : giá trị =k+ P.
Về mặt lượng , P có nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê.
Về mặt chất P xem như toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra. Do đó P che dấu quan hệ bóc lột TBCN , che dấu nguồn gốc thực sự của nó.
Do chi phí tư bản chủ nghĩa luôn luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thực tế cho nên nhà tư bản có thể bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất TBCN và có thể thấp hơn giá trị hàng hoá. Nếu nhà tư bản bán hàng hoá với giá trị bằng giá trị của nó thì P=m. Nếu bán với giá trị cao hơn giá trị của nó thì P < m. Chính điều này đã làm cho họ cho rằng lợi nhuận là do việc mua bán , do lưu thông tạo ra, do tài kinh doanh của nhà tư bản tạo ra mà có. Điều này dẫn đến sự che dấu thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản.
c.Tỉ suất lợi nhuận.
Tỉ suất lợi nhuận (P) là tỉ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng truớc :
P = m.100%/c+v.
Tỉ suất lợi nhuận không phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản mà nó nói lên mức lãi của việc đầu tư. Nó cho nhà tư bản biết họ đầu tư vào đâu thì có lợi . Do đó việc thu P và theo đuổi P là động lực thúc đẩy nhà tư bản , là mục tiêu cạnh tranh của nhà tư bản.
Do mục tiêu đạt được lợi nhuận cao nhất nên giữa các nhà tư bản luôn luôn diễn ra sự cạnh tranh gay gắt. Các quá trình cạnh tranh của nhà tư bản được Mac phân chia làm hai loại: cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.
Cạnh tranh trong nội bộ ngành là sự cạnh tranh giữa các xí nghiệp trong cùng một ngành , cùng sản xuất ra một loại hàng hoá nhằm mục đích tiêu thụ hàng hoá có lợi hơn để thu lợi nhuận siêu ngạch.
Do bản chất của cạnh trạnh chính là một hình thức đấu tranh gay gắt giữa những người sản xuất hàng hoá dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất nhằm giành giật những điều kiện có lợi nhất của sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Vì vậy cho nên cạnh tranh trong nội bộ ngành buộc các xí nghiệp phải tìm ra cách giảm giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội để giành thắng lợi trong cạnh tranh . Kết quả là do điều kiện sản xuất bình quân trong một nnh thay đổi , giá trị xã hội của hàng hoá giảm xuống .
Cạnh tranh giữa các ngành là cạnh tranh giữa các nhà tư bản ở các ngành sản xuất khác nhau nhằm tìm nơi đầu tư có lợi hơn, ở các ngành sản xuất khác nhau có các điều kiện khác nhau , do đó tỉ suất lợi nhuận cũng khác nhau. Các nhà tư bản chọn ngành có lợi nhuận cao để đầu tư .C.Mac viết “Do ảnh hưởng của cạnh tranh, những tỉ suất lợi nhuận khác nhau đó san bằng đi thành một tỉ suất lợi nhuận chung , đó là con số bình quân của tất cả những tỉ suất lợi nhuận khác nhau. Lợi nhuận của một tư bản có một lượng nhất định thu được , theo tỉ suất lợi nhuận chung đó , không kể cấu tạo hiện có đó như thế nào là lợi nhuận bình quân”.
d.Quá trình bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận.
Quá trình bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận là sự hoạt động của quy luật tỉ suất lợi nhuận bình quân trong xã hội tư bản. Sự hoạt động của qui luật tỉ suất lợi nhuận bình quân là biểu hiện cụ thể của sự hoạt động của qui luật giá trị thặng dư trong thời kì tự do cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.
Sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân và lợi nhuận bình quân đã che dấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Sự hình thành P’ và P không làm chấm dứt quá trình cạnh tranh trong xã hội tư bản , trái lại cạnh tranh vẫn tiếp diễn.
Cùng với sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân ta thấy một bộ phận hàng hoá được bán cao hơn giá trị của chúng , còn bộ phận khác lại bán thấy hơn giá trị của chúng cũng theo một tỉ lệ như thế. Chỉ có bán hàng hoá theo những giá cả đó thì tỉ suất lợi nhuận trong các Công ty mới có thể đồng nhất và ngang với nhau, dù cấu thành hữu cơ của các tư bản đều khác nhau. “Những giá cả có được bằng cách lấy chi phí sản xuất của hàng hoá cộng với lợi nhuận bình quân gọi là giá cả sản xuất”.
Vậy: Giá cả sản xuất =k +P
Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân. Điêu kiện đẻ giá trị biến thành giá cả sản xuất gồm có:Đại công nghiệp cơ khí tư bản chủ nghĩa phát triển ; sự liên hệ đầy đủ giữa các ngành sản xuất ; quan hệ tín dụng phát triển , tư bản tự do di chuyển từ ngành này sang ngành khác.
Trước đây khi chưa xuất hiện phạm trù giá cả sản xuất thì giá cả xoay quanh giá trị hàng hoá. Giờ đây giá cả của hàng hoá xoay quanh giá cả sản xuất. Về mặt lượng , giá cả sản xuất và giá cả có thể không bằng nhau. Chính trong mối quan hệ này , giá trị vẫn là cơ sở, là nội dung bên trong của giá cả sản xuất và giá cả thị trường.
Thực chất hoạt động của quy luật giá cả sản xuất là sự biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong thời kì tự do cạnh tranh của của nghĩa tư bản.
e.Các hình thức biểu hiện của lợi nhuận.
Như ta đã biết , giá trị thặng dư, lợi nhuận hoàn toàn không đồng nhất nhưng chúng đều có chung nguồn gốc từ lao động thặng dư . Giá trị thặng dư là phần giá trị mà nhà tư bản bóc lột không công của người công nhân còn lợi nhuận là số tiền thu được sau khi bán sản phẩm trên thị trường so với số tiền bỏ vào sản xuất. Có thể nói , chính giá trị thặng dư biểu hiện sự bóc lột sản xuất , chứng minh công thức , mâu thuẫn tư bản một cách chính xác và khoa học. Trước Mac ,các nhà kinh tế học đã hình dung ra giá trị thặng dư nhưng họ chưa có đủ lí luận để diễn đạt mà chỉ biểu hiện quan điểm của mình trong vấn đề thu nhập , tiền lương.Chỉ đến Mác ông mới xây dựng lí thuyết giá trị thặng dư một cách hoàn chỉnh , khoa học và các vấn đề liên quan. Có thể nói, lý thuyết giá trị thặng dư là một phát minh vĩ đại của Mac mà như Lenin nói đó là “Hòn đá tảng” trong học thuyết kinh tế.Tuy nhiên , chúng ta phải hiểu rằng Mac không phải là người phát minh ra giá trị thặng dư , càng không phải là người làm ra nó :Chính người tìm ra giá trị thặng dư là nhà tư bản và người lao động thặng dư là công nhân giá trị thặng dư rất rõ ràng nhưng nó được che dấu bởi lợi nhuận và nó tồn tại trong xã hội tư bản bởi các hình thức sau:
-Lợi nhuận công nghiệp:Về bản chất là phần giá trị do công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm không và phần, giá trị này bán trên thị trường thu được một số tiền lời sau khi trừ đi chi phí sản xuất. Ngày lao động của công nhân (giả sử là 8 giờ ) được chia ra làm hai phần :một phần làm ra giá trị tương đương với số tiền lương của anh ta và làm ra giá trị thặng dư. Vì thèm muốn lợi nhuận nên nhà tư bản công nghiệp luôn tìm cách tăng phần thời gian lao động thặng dư như tăng giờ làm , tăng năng suất lao động ( giảm thời gian lao động tất yếu). Thời gian lao động thặng dư càng nhiều thì càng thuộc về nhà tư bản và sẽ thu được lợi nhuận càng cao. Như vậy, lợi nhuận công nghiệp là hình thái gần nhất , dễ thấy nhất với giá trị thặng dư và lợi nhuận công nghiệp là động lực mạnh mẽ nhất để phát triển sản xuất.
-Lợi nhuận thương nghiệp:Trong lưu thông ,trao đổi không tạo ra giá trị nhưng nhà tư bản thương nghiệp làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, làm cho hàng hoá được bán đi nhanh hơn.Vì thế , họ phải thu được một phần lợi nhuận mà nhà tư bản thương nghiệp chiếm được.Về thực chất , lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp. Sở dĩ nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp một phần giá trị thặng dư trong lúc họ luôn khao khát ,thèm muốn nó là bởi vì :Nhà tư bản thương nghiệp rất am hiểu thị trường , khách hàng do đó giúp cho hàng hoá bán đi nhanh hơn , tốc độ chu chuyển nhanh hơn nên nhà tư bản công nghiệp rảnh tay để sản xuất. Do có vai trò quan trọng như vậy, nhà tư bản công nghiệp phải nhường một phần giá trị thặng dư cho nhà tư bản thương nghiệp . Lợi nhuận thương nghiệp là sự chênh lệch giá bán và giá mua hàng hoá .Điều đó không có nghĩa là nhà tư bản thương nghiệp bán giá cao hơn giá trị mà là họ mua hàng hoá thấp hơn giá trị và khi bán thì bán đúng giá trị.
-Lợi tức cho vay : Nhà tư bản muốn hoạt động nhưng bản thân họ không đủ vốn hoặc không có vốn nên họ phải đi vay để làm vốn đem vào sản xuất. Một số nhà tư bản có tiền nhưng chưa đến chu kì sử dụng hoặc chưa sử dụng nên họ cho vay và nhận được một khoản tiền ứng với số tiền cho vay từ tay nhà tư bản đi vay , gọi là lợi tức. Lợi tức cho vay là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay ứng với món tiền mà nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay sử dụng, lợi tức cao hay thấp tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như sự cấp thiết , hoàn cảnh lịch sử, sự thoả thuận giữa nhà tư bản... đối với tư bản thì tiền không thể chết trong két sắt mà nó được đẻ ra liên tục.
-Lợi nhuận ngân hàng: Ngân hàng là cơ quan kinh doanh tiền tệ , làm môi giới giữa người đi vay và người cho vay. Tuy nhiên , tư bản ngân hàng khác tư bản cho vay ở chỗ :Tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động , ngoài nguồn vốn nhàn rỗi còn có các chứng khoán ... Ngân hàng tham gia vào sản xuất với tư bản và cả hai bên chi phí liên quan đến nhau cùng chia lợi nhuận. Lợi nhuận ngân hàng là phần lợi nhuận thu được ứng với số tiền mà ngân hàng chung vốn với nhà tư bản tham gia sản xuất. Một đất nước phát triển thì hệ thống ngân hàng phải phát triển bởi vì vai trò của ngân hàng trong cơ chế thị trường là yếu tố đặc biệt quạn trọnng.
-Địa tô : Tư bản không chỉ hình thành và thống trị trong lĩnh vực công nghiệp mà còn mở rộng sang cả nông nghiệp .Địa chủ có nhiều ruộng đất còn nhà tư bản cần ruộng để kinh doanh. Nhà tư bản kinh doanh ruộng đất phải thu thêm một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài và nhà tư bản phải trả cho chủ ruộng đất dưới hình thái địa tô tư bản chủ nghĩa .Như vậy , địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất.
II.Vai trò của lợi nhuận trong nền Kinh tế thị trường.
lợi nhuận đóng vai trò rất lớn trong nền kinh tế. Nó ảnh hưởng cả đến chính trị xã hội và len lỏi vào mọi mặt của đời sống xã hội trong nền Kinh tế thị trường. Như ta đã biết mọi sự vật hiện tượng đều có tính hai mặt: Mặt tích cực và mặt tiêu cực. Vấn đề đặt ra là ta phải phát triển mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực như thế nào để phát huy được vai trò của nó.
1.Lợi nhuận trong nền kinh tế
a.Lợi nhuận ( P ) thúc đẩy LLSX phát triển
Với mục đích P các nhà tư bản đã tạo ra P ngày càng nhiều. Trước đây
họ có thể tạo ra P bằng cách kéo dài ngày công lao động của công nhân nhưng vì phương pháp đó gặp sự chống cự của giai cấp công nhân vì vậy họ chuyển sang phương pháp bóc lột một cách tinh vi hơn. Nhà tư bản áp dụng kỹ thuật mới vào và bắt buộc người công nhân phải tăng năng suất lao động của mình lên. Nhưng chính mục đích áp dụng kỹ thuật mới đã làm cho các nhà tư bản đầu tư ngày càng nhiều vào vấn đề nghiên cứu khoa học. LLSX phát triển một cách nhanh chóng đặc biệt vào thế kỉ 19 đến 20. Yếu tố này đã giúp cho các nhà tư bản không chỉ thu được lợi nhuận đơn thuần mà còn thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Công nghệ tiên tiến ra đời đòi hỏi phải có một đội ngũ công nhân đủ năng lực, tay nghề, trình độ kĩ thuật cao. Vì vậy quá trình đầu tư cho chiến lược nâng cao trình độ lao động của nhà tư bản và yêu cầu cấp thiết phải nâng cao trình độ của những người công nhân đã diễn ra. Qua đó trình độ của người lao động ngày càng được nâng cao và đó cũng là yêu cầu tất yếu của một xã hội hiện đại ngày nay. Do nhận biết được vai trò quan trọng của những người lao động lành nghề nhưng lại không muốn đầu tư nên hiện nay đang diễn ra tình trạng mua chuộc, lôi kéo nhân tài bằng các biện pháp kinh tế gây nên hiện tượng chảy máu chất xám ở các nước đang phát triển. Hiện tượng này làm thiệt hại rất lớn cho các nước đang phát triển nên cần được ngăn chặn.
b. lợi nhuận thúc đẩy quan hệ SX phát triển
LLSX và QHSX luôn luôn có quan hệ biệ chứng với nhau. Do tác động của lợi nhuận cùng với sự phân chia lợi nhuận dưới nhiều hình thức khác nhau đã làm cho chế độ sở hữu ngày càng được củng cố và phát triển. Quan hệ sở hữu từng bước được thắt chặt hơn, rõ ràng hơn giữa nhà tư bản và người lao động nói riêng, giữa các cá nhân trong xã hội nói chung.
Bên cạnh đó mục đích P luôn đặt các nhà kinh tế, các tổ chức kinh tế trước yêu cầu “hiệu quả”. Làm thế nào để chi phí ít nhất mà lợi nhuận thu được về là lớn nhất. Điều đó đòi hỏi tính chuyên môn hóa cao và sự sắp xếp, tổ chức hợp lý các bộ phận quản lí. Hạn chế bớt một số khâu, bộ phận quản lí rườm rà, cồng kềnh không cần thiết giúp cho các nhà kinh tế giảm bớt được một phần chi phí (tiền lương) đồng nghĩa với việc tăng lợi nhuận.
Xuất phát từ mục tiêu ổn định và phát triển có kế hoạch phân bố lực lượng lao động hợp lí, cân đối trong nền kinh tế tốt để khai thác tốt nguồn tài nguyên, kết hợp chặt chẽ và thích đáng lợi ích xã hội, tập thể và cá nhân người lao động, giáo dục quan điểm thái độ và kỹ thuật cho người lao động. Tất cả những vấn đề đặt ra ở trên đều xuất phát từ lợi nhuận và chính nó đã thúc đẩy quá trình phân phối theo lao động diễn ra mạnh mẽ theo nguyên tắc làm nhiều thì hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Nhưng cùng với sự phát triển của kinh tế thì ngoài phân phối theo lao động còn có sự phân phối ngoài thù lao lao động thông qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội.. Trong thời kì quá độ hiệ nay ở nước ta còn xuất hiện hình thái phân phối theo vốn và tài sản dưới hình thức Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn...
- P làm chuyển đổi kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá và tiếp theo là sang Kinh tế thị trường.
Theo quá trình phát triển của lịch sử nền kinh tế đã trải qua rất nhiều hình thức khác nhau từ hình thức lạc hậu đến hình thức tiên tiến hiện đại. Đi từ kinh tế tự nhiên đến kinh tế hàng hoá rồi đến Kinh tế thị trường gắn liền với quá trình mong muốn được lợi nhuận ngày càng cao. Ham muốn của con người không bao giờ có giới hạn. Quá trình quy đổi diẽn ra khi có hàng hoá thừa, đồng tiền xuất hiện và kinh tế hàng hoá xuất hiện. Nhu cầu ngày càng lớn và thị trường ngày càng được mở rộng. Cơ sở của sự ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá là phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này với người sản xuất khác do các quan hệ sở hữu khác nhau về TLSX quy định.
Khi kinh tế hàng hoá phát triển sẽ làm cho quá trình sản xuất mua bán diễn ra mạnh mẽ và các nhà kinh tế luôn tìm kiếm và năng động hơn trong hoạt động sản xuất cũng như phân phối lưu thông lợi nhuận đã làm cho họ cố gắng đạt được bang nhiều hình thức khác nhau. Cùng một lúc mà có nhiều nhà tư bản cùng tham gia thì vấn đề thời cơ lại trở nên cấp thiết. Lúc này nhà kinh tế sẽ có nhiều hình thức khác nhau để đi đến mức lợi nhuận cao. Sự cản trở ở một khâu nào đó trong quá trình hoạt động sẽ là gián đoạn các bước tiếp theo và lúc này thời cơ không còn nữa. Chính điều này đã làm nảy sinh ra một yêu cầu là cần phải tách ra khỏi sự quản lí vi mô của Nhà nước. Nhà nước chỉ nên có những quản lý điều chỉnh ở tầm vĩ mô để có thể tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các thành phần kinh tế phát triển, tạo hành lang môi trường pháp lí tốt, môi trường chính trị ổn định... Đó cũng chính là để các nhà kinh tế thu được nhiều lợi nhuận nhấtmà không vi phạm đến lợi ích của người khác. Với nền Kinh tế thị trường như trên sẽ thúc đẩy nề kinh tế phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn.
c.Vai trò của lợi nhuận đối với quá trình tái sản xuất xã hội .
Để hiểu được vai trò của lợi nhuận đối với quá trình tái sản xuất xã hội ta cần xem xét đến điều kiện để tái sản xuất diễn ra như thế nào.?Như ta đã biết muốn tái sản xuất mở rộng và ngày càng hiện đại hoá thì phải có nhiều vốn. Muốn có nhiều vốn phải tích luỹ vốn. Do vậy việc tích lũy vốngắn liền với tái sản xuất mở rộng và trở thành quy luật kinh tế chung của các hình thái kinh tế xã hội có tái sản xuất mở rộng.
Tích luỹ vốn nói chung xét về thực chất là sự chuyển hoá một phần giá trị của sản phẩm thặng dư, do lao động thặng dư tạo ra thành vốn phụ thêm để mở rông sản xuất. Do vậy, nguồn tích luỹ vốn là giá trị của sản phẩm thặng dư do lao động thặng dư tạo ra trong quá trình sản xuất (nhờ năng suất lao động cao bảo đảm ngày lao động vượt quá phần giá trị của sản phẩm tất yếu ) và thực hiện được trong quá trình lưu thông , sự tích luỹ này do các chủ thể sở hữu về TLSX hoặc tư nhân hoặc nhà nước tiến hành. Như vậy dù dạng nào thì vốn cũng là một phần lợi nhuận (thực hiện giá trị thặng dư) tạo thành. Và lợi nhuận đóng vai trò quyết định cho quá trình tái sản xuất xã hội.
d.lợi nhuận húc đẩy quan hệ kinh tế quốc tế
Lợi nhuận là lí do làm phát sinh và phát triển nền Kinh tế thị trường. Nó thúc đẩy quá trình mở rộng trao đổi hàng hoá và khoa học kĩ thuật. Mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế nhằm thu hút nguồn lưcjpt từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế rong nước làm thay đổi mạnh mẽ về trình độ công nghệ trong nước, cấu thành ngành và sản phẩm, mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cươngf liên doanh liên kết hợp tác là cơ sở tăng cường tính độc lập và phụ thuộc lẫn nhau trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi.
e.Vai trò của P đối với các mặt của đời sống xã hội .
Phân phối theo lao động và phân phối theo tài sản vốn đều là tất yếu khách quan trong qúa độ hiện nay vì các hình thức đó đều nhằm mục đích thúc đẩy nền sản xuất phát triển cao và tạo lập sự công băngf xã hội giữa mọi thành viên trong xã hội. Nhưng ngoài những người được lao động và được trả công theo lao động, những người có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất để nhận lợi tức và lợi nhuận , thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này hay lẽ khác không thể tham gia lao động và do đó không được trả công theo lao động của xã hội. Mặt khác ngay mức sống của cán bộ, Công nhân viên chức Nhà nước và những người làm việc trong tất cả các thành phần kinh tế không chỉ dựa vào lương mà còn dựa vào các quỹ phúc lợi khác phân phối ngoài thù lao lao động Đây không phải là phân phối heo lao động nhưng cũng chưa phải là phân phối theo nhu cầu như trong giai đoạn cao của. Chủ nghĩa cộng sản mà C. Mác đã dự đoán. Đây là một hình thức phân phối quá độ phù hợp với xu hướng phát triển của xã hội. Nó chảng những bảo dảm cho tát cả mọi thành viên xã hội đều có mức sóng bình thường tối thiểu mà còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển của mọi thành viên trong xã hội.
ở một số nước phát triển , nhà nước có chú ý về tiền lương. Trợ cấp thất nghiệp phúc lợi xã hội nhất là ở các nước châu Âu mà tiêu biểu là ở Thuỵ Sĩ và Pháp... quy định mức lương tối thiểu . Khi nền kinh tế phát triển là nền tảng cho việc củng cố quốc phòng, an ninh giáo dục.. bởi vì với sự phát triển mạnh như vũ bão của khoa học kĩ thuật hiện nay. Quốc phòng trang bị bằng những vũ khí hiện đại tối tân. Yêu cầu đặt ra là chúng ta phải nắm bắt được khoa học kĩ thuật và phải có sự đầu tư để nhập các thiết bị cần thiết phục vụ cho việc sử dụng nghiên cứu trong quân sự và trong giáo dục. Khi lợi nhuận cao trong ta sẽ có điều kiện đầu tư để phát triển nhân tố con người cả mặt lí luận và thực tiễn. Hiện nay hệ thống giáo dục nước ta chưa được đầu tư trang bị , điều này ảnh hưởng trực tiếp đến vấn đề thực hành và áp dụng và áp dụng ngoài thực tế đẫn đến tình trạng sinh viên ra trường thường kém thường kém năng động sáng tạo, không sử dụng được kiến thức của mình vào cuộc sống và công việc một cách sáng tạo.
f.Những biện pháp, các thủ đoạn để thu lợi nhuận .
Để thu được lợi nhuận các doanh nghiệp không ngừng cạnh tranh với nhau trên thi trường bất kể trong nội bộ ngành hay giữa các ngành như chúng ta đã trình bày ở trên . Ngoài ra khi sự cạnh tranh tiến lên một mức cao hơn họ còn cạnh tranh trong khâu sản xuất công nghệ và trong khâu tiêu thụ. Về khái niệm cạnh tranh, cạnh tranh trong nội bộ ngành, cạnh tranh giữa các ngành chúng ta đã có dịp đề cập đến trong phần tỉ suất lợi nhuận bình quân. ở đây chúng ta chỉ nêu ra biện pháp cạnh tranh ở từng loại và kết quả đạt được nó.
Đối với các quá trình cạnh tranh trong nội bộ ngành nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch các nhà sản xuất đã phải cải tiến kĩ thuật, nâng cao cấu tạo hữu cơ tư bản, nâng cao năng suất lao động nhằm làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá xí nghiệp sản xuất ra thấp hơn giá trị xã hội để thu lợi nhuận siêu ngạch.Kết quả của cạnh tranh là hình thành nên giá trị xã hội của từng loại hàng hoá. Cạnh tranh giữa các ngành sử dụng biện pháp tự do di chuyển tư bản từ ngành này sang ngành khác dẫnhưng đến hình thành tỉ suất lợi nhuận bình quân và giá trị hàng hoá chuyển thành gía trị sản xuất .
- Cạnh tranh trong sản xuất là cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong sản xuất.
Biện pháp: Tăng năng suất lao động, cải tiến kĩ thuật...
Kết quả: Hình thành nên giá thị trường từng loại hàng hoá.
i. Hậu quả do theo đuổi lợi nhuận gây ra.
Việc sử dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật đòi hỏi quy mô sản xuất và tư bản phải lớn. Vì vậy đặt ra yêu cầu tích tụ và tập trung sản xuất do đó ra đời các xí nghiệp lớn. Do mục tiêu lợi nhuận dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt làm cho tư bản loại vừa và nhỏ phá sản còn các tư bản lớn thì càng lớn và đến một mức độ cao sẽ dẫn tới sự hình thành các tổ chức độc quyền. Chủ nghĩa độc quyền càng phát triển lợi nhuận của tập đoàn độc quyền càng nhiều nhưng hậu quả như lạm phát, thất nghiệp, khủng hoảng lại chút xuống đầu giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Mâu thuẫn giai cấp càng trở nên sâu sắc.
Số tư bản “thừa” ở các nước phát triển nếu đầu tư trong nước sẽ chỉ có tỉ suất lợi nhuận thấp và việc đem nó xuất khẩu ra các nước đang phát triển rất khát vốn và có tỉ suất lợi nhuận cao hơn nhiều là hành động biểu hiện càng rõ hơn của việc khao khát đến cháy bỏng lợi nhuận.
Tuy có những mặt tích cực nhưng cùng với viẹc xuất khẩu tư bản là việc cạnh tranh khốc liệt giữa các tập đoàn lớn, các tổ chức độc quyền làm ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế các nước xuất khẩu tư bản , phân hoá giầu nghèo càng tăng lên. Còn ở các nước nhập khẩu tư bản , giai cấp vô sản và nhân dân lao động bị bóc lột nặng nề hơn trước. Sự cạnh tranh giữa các ông chủ cũng như trong nội bộ các công nhân cũng càng làm cho điều kiện lao động cũng như mức lương tưởng không thể chấp nhận được. Ngoài ra các nước nhập khẩu tư bản cũng bị phụ thuộc chặt chẽ cả về kinh tế lẫn chính trị vào các nước đế quốc.
Đứng trong tầm vĩ mô của một đất nước lợi nhuận làm mai một dần các ngành nghề cổ truyền, làm lung lay các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34621.doc