Mục lục
Lời nói đầu 1
Phần I. Nguồn gốc - bản chất của lợi nhuận 2
&1. Những quan điểm về nguồn gốc và bản chất lợi nhuận 2
1.Các quan điểm kinh tế thời cổ đại và trung cổ 2
2. Học thuyết kinh tế của phái cổ điển 2
&2. Học thuyết của Mác về nguồn gốc và bản chất lợi nhuận 3
&3. Các hình thức biểu hiện của lợi nhuận 4
1. Lợi nhuận công nghiệp 4
2. Lợi nhuận nông nghiệp 4
3. Lợi nhuận thương nghiệp 5
4. Lợi nhuận ngân hàng 5
5. Lợi nhuận độc quyền 5
6. Lợi tức cho vay 5
7.Lợi nhuận siêu nghạch 5
Phần II. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường 6
&1. Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế 6
1. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất phát triển 6
2.Lợi nhuận thúc đẩy hoạt động kinh doanh quốc tế 6
3. Vai trò của lợi nhuận và đời sống xã hội 6
&2. Vấn đề lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 7
1. Chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế định hướng xã hội chủ nghĩa 7
2. Sự phân chia sản phẩm thặng dư ở Việt Nam 8
3.Xây dựng và hoàn thiện hệ tư tưởng văn hoá 8
Kết luận 9
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2749 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nguồn gốc – bản chất – vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
òi hỏi chung ta phải giải quyết nhanh chóng để đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế – kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.Vấn đề nàycó tầm quan trọng rất lớn. Quá trình nghiên cứu nó phải xuất phát từ các học thuyết kinh tế, quan điểm kinh tế của các nhà kinh tế nổi tiếng trong lịch sử. Đặc biệt là quan điểm của Mác kết hợp với thực tiễn hiện nay. Quá trình nghiên cứu sẽ giúp giải đáp được những câu hỏi đặt ra trong lý luận cũng như trong thực tiễn về sự phát triển công nghiệp,nông nghiệp những biến đổi xã hội... Để thấy được quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam.
Phần I
Nguồn gốc – bản chất của lợi nhuận
I.Các quan điểm về nguồn gốc và bản chất lợi nhuận
1.Quan điểm kinh tế thời cổ đại và trung cổ
Aristoleles
( Hy Lạp cổ đại, 384-322 TCN )đã đưa ra tư tưởng về 3 loại thương nghiệp và 2 loại kinh doanh. Ông chia hoạt động thương nghiệp thành 3 loại là: Trao đổi tự nhiên H – H; trao đổi thông qua tiền tệ H – T – H; trao đổi nhằm mục đích làm giàu T – H – T’. Đồng thời ông chia hoạt động kinh doanh ra làm 2 loại:
ã Thứ nhất: “kinh tế”. Loại kinh doanh này nhằm mục đích là giá trị sử dụng. Trao đổi chỉ là phương tiện để làm tăng thêm giá trị sử dụng.ã Thứ hai: “sản xuất của cải”. Mục đích của loại hoạt động kinh doanh này là làm giàu. Loại này có quan hệ với trao đổi làm giàu T – H – T’.
Carton ( La Mã cổ đại,234-149 TCN ) coi lợi nhuận là số dư thừa ngoài giá trị mà giá trị được ông hiểu là những chi phí sản xuất. Chẳng hạn trong việc sử dụng công nhân tự do, Carton cho rằng tất cả giá trị là chi phí về vật tư và tiền trả cho công thợ. Vì vậy để có lợi nhuận cao, ông khuyên hãy “Yên tâm chờ đợi giá cao”.
Thomasd Aquin ( Italia 1225-1274 ) bảo vệ kinh tế tự nhiên, chống lại hoạt động thương mại và cho vay nặng lãi. Ông sử dụng quan điểm của Aristoleles về 3 loại thương nghiệp và cho rằng đại thương nghiệp có thể theo đuổi một mục đích chân lý hay cần thiết. Vì vậy, thu lợi nhuận không mâu thuẫn với lòng từ thiện. Theo ông, địa tô, lợi nhuận thương mại là sự trả công cho lao động gắn liền với việc quản lý tài sản ruộng đất. Việc thu địa tô là hoàn toàn hợp lý, vì địa tô thu từ ruộng đất, mà ruộng đất là tặng phẩm của “thượng đế ban cho vua chúa”.
2.Các học thuyết của phái cổ điển:
a.Học thuyết kinh tế của trường phái trọng thương
Trường phái này ra đời từ giữa thế kỷ 15 đến giữa thế kỷ 17 trong điều kiện chế độ phong kiến bị tan rã và chủ nghĩa tư bản thực hiện tích luỹ nguyên thuỷ của tư bản. Họ là những nhà kinh tế học đầu tiên đi tìm nguồn gốc, đi tìm lợi nhuận trong lưu thông. Họ đã sống trong thời đại tư bản tư nhân và ngoài tư bản tư nhân ra, họ không biết một hình thái tư bản nào khác, họ cũng không biết một hình thức lợi nhuận nào khác ngoài lợi nhuận thương nghiệp. Vì tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lưu thông nên không thấy làm lạ gì họ chỉ chú ý đến lưu thông. Theo họ lợi nhuận thương nghiệp là kết quả do lưu thông, mua bán trao đổi sinh ra, là do kết quả của việc mua rẻ bán đắt mà có.
b- Học thuyết kinh tế của trường phái trọng nông
Đánh giá cao vai trò của nông nghiệp. Coi nó là lĩnh vực duy nhất trong xã hội tạo ra của cải. Chỉ có lao động trong nông nghiệp mới là lao động có ích, lao động sinh lời, vì nó tạo ra sản phẩm thuần tuý cho xã hội. Sản phẩm thuần tuý là số chênh lệch giữa tổng sản phẩm và chi phí sản xuất. Nó là số dôi ra ngoài chi phí sản xuất. Nó được tạo ra trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, còn công nghiệp không tạo ra sản phẩm thuần tuý.
c.Học thuyết kinh tế tư sản cổ điển
- Lý thuyết về địa tô, lợi tức và giá cả ruộng đất của William Petty:Lý thuyết địa tô của William Petty được xây dựng trên cơ sở lý thuyết giá trị lao động. Ông coi địa tô là giá trị nông sản phẩm sau khi đã trừ đi các chi phí sản xuất mà chi phí này gồm chi phí về giống và tiền lương. Về thực chất, địa tô là giá trị dôi ra ngoài tiền lương tức là sản phẩm của lao động thặng dư. Gắn với địa tô là lợi tức, theo ông người có tiền có thể sử dụng nó bằng hai cách để có thu nhập. Thứ nhất, là dùng tiền mua đất đai, nhờ đó có địa tô. Thứ hai là mang gửi vào ngân hàng để thu lợi tức. Muốn xác định lợi tức phải dựa vào địa tô, mức cao hay thấp của lợi tức phụ thuộc vào điều kiện sản xuất nông nghiệp quyết định.
- Học thuyết kinh tế của Adam Smith
Adam Smith cho rằng giá trị hàng hoá do người công nhân tạo ra, anh ta chỉ nhận được một phần tiền lương, phần còn lại là địa tô và lợi nhuận của nhà tư bản. Lý thuyết tiền lương, lợi nhuận, địa tô của ông được xây dựng trên cơ sở lý thuyết giá trị lao động. Theo ông, địa tô là khoản khấu trừ đầy tiên vào sản phẩm lao động. Nó là số dôi ra ngoài tiền lương công nhân và lợi nhuận của nhà tư bản. Lợi nhuận là khoản khấu trừ thứ hai vào sản phẩm của người lao động. Ông chỉ ra lợi tức là một bộ phận của lợi nhuận mà nhà tư bản hoạt động bằng tiền đi vay trả cho chủ nó để được sử dụng tư bản. Ông đã nhìn thấy xu hướng bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận và xu hướng tỉ suất lợi nhuận giảm sút do khối lượng tư bản đầu tư tăng lên.
II.Học thuyết của Mác về nguồn gốc và bản chất lợi nhuận
Mác và Ănghen là những người đầu tiên: đã xây dựng nên lý luận về giá trị thặng dư một cách hoàn chỉnh. Lý luận thặng dư của Mác đã được Lênin đánh giá là “hòn đá tảng của học thuyết kinh tế của Mác.” Qua nghiên cứu ông nhận thấy: Nếu tư bản bỏ ra một lượng tiền lương là T đưa vào sản xuất và lưu thông hàng hoá thì sau một thời gian họ sẽ thu về một lượng tiền là T’(T’>T) hay T’ = T + DT. DT là số tiền trội hơn so với số tiền ứng ra, Mác đã gọi là giá trị thặng dư. Số tiền ứng ra ban đầu chuyển hoá thành tư bản. Mục đích của lưu thông T – H – T’ là sự lớn lên của giá trị, là giá trị thặng dư, nên sự vận động T – H – T’ là không có giới hạn, công thức này được Mác gọi là công thức chung của tư bản.
Nghiên cứu nguồn gốc tạo nên giá trị thặng dư, Mác chia tư bản thành hai bộ phận là tư bản khả biến và tư bản bất biến. Tư bản bất biến là tư bản biến thành tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm, tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất. Tư bản khả biến thông qua lao động trừu tượng của công nhân làm thuê tăng lên. Giá trị hàng hoá được biểu diễn bằng công thức : Giá trị = C + V + m. Sự phân chia này đã vạch rõ thực chất bóc lột tư bản chủ nghĩa.
Sự bóc lột tư bản chủ nghĩa về mặt lượng; tỷ suất giá trị thặng dư và khối lượng giá trị thặng dư. Tỷ suất giá trị thặng dư là tỷ số tính theo phần trăm giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến cần thiết để sản xuất ra giá trị thặng dư đó: m’ = m/V.100%. Tỷ suất giá trị thặng dư phản ánh trình độ bóc lột công nhân. Thực chất đây là tỷ lệ phân chia ngày lao động thành thời gian lao động cần thiết và thời gian lao động thặng dư. Tuy nhiên, tỷ suất giá trị thặng dư không biểu hiện lượng tuyệt đối của sự bóc lột tức là khối lượng giá trị thặng dư. Khối lượng giá trị thặng dư là tích số giữa tỷ suất giá trị thặng dư và tổng tư bản khả biến(V). Gọi M là khối lượng giá trị thặng dư thì:
M = m’.V
Mục đích của nhà tư bản là sản xuất ra nhiều giá trị thặng dư. Những phương pháp cơ bản để đạt được mục đích đó là tạo ra giá trị thặng dư tuyệt đối và giá trị thặng dư tương đối. Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách kéo dài ngày lao động trong điều kện thời gian lao động không cần thiết, không thay đổi gọi là giá trị thặng dư tuyệt đối. Giá trị thặng dư được tạo ra bằng cách rút ngắn thời gian lao động càn thiết trong điều kiện độ dài ngày lao động không đổi nhờ độ kéo dài tương ứng thời gian lao động thặng dư, gọi là giá trị thặng dư tương đối. Ngoài ra, cạnh tranh giữa các nhà tư bản buộc họ cố gắng tăng năng suất lao động trong các xí nghiệp của mình để giảm giá trị cá biệt của hàng hoá. Nhà tư bản sẽ chiếm số chênh lệch giữa giá trị xã hội và các giá trị cá biệt chừng nào năng suất lao động xã hội còn chưa tăng lên để số chênh lệch đó không còn nữa. Phần giá trị thặng dư phụ thêm xuất hiện khi giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị xã hội, được Mác gọi là giá trị thặng dư siêu ngạch.
Để làm rõ hơn vấn đề trên ta phân tích chi phí xã hội và chi phí tư bản chủ nghĩa xuất phát từ giá trị hàng hóa (C + V + m). Sản xuất hàng hoá phải chi phí cho mua tư liệu sản xuất C gọi là lao động quá khứ và lao động tạo ra giá trị mới(V + m). Đứng trên quan điểm người lao động thì đó là chi phí thực tế để tạo ra giá trị hàng hóa (C + V + m). Nhưng đối với nhà tư bản thì họ không hao phí lao động sản xuất ra hàng hoá nên nhà tư bản chỉ xem hết bao nhiêu tư bản. Thực tế họ chỉ ứng ra số tư bản mua tư liệu sản xuất (C) và mua sức lao động (V) – chi phí lao động chủ nghĩa. Như vậy chi phí tư bản chủ nghĩa nhỏ hơn chi phí thực tế khối lượng m và khi bán hàng hoá, nhà tư bản thu về một khoản lời đúng bằng giá trị thặng dư m, số tiền này gọi là lợi nhuận: giá trị = K + P.
Về mặt lượng P có nguồn gốc là kết quả lao động không công của công nhân làm thuê. Về mặt chất, P như là toàn bộ tư bản ứng trước đẻ ra do sự che dấu quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa, che dấu nguồn gốc chủ yếu của nó.
Mác cho rằng, sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân(p’ = ồm/ ồ(C + V).100%) và lợi nhuận bình quân đã che dấu hơn nữa thực chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Khi đó giá trị của hàng hoá được chuyển hoá thành giá cả sản xuất. Tiền đề của giá cả sản xuất là sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân. Giá cả hàng hoá xoay quanh giá cả sản xuất. Về mặt lượng giá cả sản xuất và giá trị có thể không bằng nhau. Chính trong mối quan hệ này, giá trị vẫn là cơ sở là nội dung bên trong của giá cả sản xuất, giá cả thị trường. Thực chất của quy luật giá cả sản xuất là sự biểu hiện hoạt động của quy luật giá trị trong thời kỳ cạnh tranh của chủ nghĩa tư bản.
III.các hình thức biểu hiện của lợi nhuận
1.Lợi nhuận công nghiệp
Trong công nghiệp, ,các nhà sản xuất và kinh doanh mong muốn chi phí cho các đầu vào ít nhất, và sản xuất ra nhiều hàng hoá nhất, bán hàng với giá cao nhất để thu được lợi nhuận tối đa. Lợi nhuận ở đây chính là phần chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí. Vì vậy, các doanh nghiệp không ngừng nghiên cứu để tăng lợi nhuận, giảm chi phí sản xuất.
2.Lợi nhuận nông nghiệp(Địa tô) :
Tư bản không chỉ hình thành và thống trị trong lĩnh vực công nghiệp mà còn mở rộng cả trong nông nghiệp. Địa chủ có nhiều ruộng đất còn nhà tư bản cần ruộng để kinh doanh. Nhà tư bản kinh doanh ruộng đất phải thu thêm một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tương đối ổn định và lâu dài và nhà tư bản phải trả cho chủ ruộng đất dưới hình thái địa tô TBCN. Như vậy, địa tô TBCN là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất.
3.Lợi nhuận thương nghiệp
Thương nghiệp tư bản chủ nghĩa thực hiện giá trị và giá trị thặng dư. Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư được sáng tạo trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp. Nhà tư bản thương nghiệp là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của tư bản công nghiệp, nó không tạo ra giá trị và giá trị thặng dư. Nhà tư bản thương nghiệp đã giúp nhà tư bản công nghiệp một khâu trong quá trình sản xuất, đó là khâu bán hàng.
4.Lợi nhuận ngân hàng
Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tư bản tiền tệ,.Là môi giới giữa người đi vay và người cho vay. Ngân hàng có hai nghiệp vụ là nhận gửi và cho vay.Lợi tức nhận gửi nhỏ hơn lợi tức cho vay. Chênh lệch giữa lợi tức cho vay và lợi tức nhận gửi trừ đi những khoản chi phí cần thiết về nghiệp vụ ngân hàng, cộng với các khoản thu nhập khác về kinh doanh tiền tệ hình thành nên lợi nhuận ngân hàng.
Ngân hàng cho các nhà trực tiếp kinh doanh vay, nhà tư bản lấy số tiền đó sản xuất ra giá trị thặng dư, hoặc thực hiện giá trị thặng dư. Sau đó đem một phần giá trị thặng dư làm thành lợi tức trả cho ngân hàng. Do đó, bản chất của lợi nhuận ngân hàng là một phần của giá trị thặng dư.
5.Lợi nhuận độc quyền
Do tư bản độc quyền, nhất là tư bản tài chính, giữ vị trí thống trị trong sản xuất và lưu thông nên nó có thể không chỉ sử dụng các phương pháp sản xuất giá trị thặng dư, cạnh tranh, tỷ suất lợi nhuận bình quân, lợi nhuận bình quân và giá cả sản xuất vốn là những phạm trù kinh tế quen thuộc trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh mà nó sử dụng phương pháp cưỡng bức siêu kinh tế để thu lợi nhuận cao lợi nhuận độc quyền. Nó bao gồm lợi nhuận bình quân cộng với lợi nhuận siêu ngạch độc quyền, chủ yếu do địa vị thống trị của độc quyền thu được. Nguồn gốc và cơ cấu của lợi nhuận độc quyền là giá trị thặng dư của công nhân làm việc trong các tổ chức độc quyền, do người sản xuất hàng hóa nhỏ, do xuất khẩu tư bản, do sản xuất hàng hoá cho các nước, do lợi dụng việc quân sự hoá nền kinh tế.
6.Lợi tức cho vay
Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển vốn của tư bản công nghiệp, luôn có số tư bản tiền tệ tạm thời nhàn rỗi. Ví dụ, tiền trong quỹ khấu hao tư bản cố định, tiền dùng để mua nguyên vật liệu nhưng chưa đến thời kỳ mua, tiền lương cho công nhân chưa tới thời kỳ trả…Số tiền này, nhà tư bản cho người khác vay để kiếm lời. Trong thời gian đó có những nhà tư bản rất cần tiền để mở rộng sản xuất. Từ hai mặt trên tất yếu nảy sinh sự vay mượn lẫn nhau. Nhờ có quan hệ này mà tư bản nhàn rỗi trở thành tư bản cho vay. Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho một người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một số lời nào đó. Số lời đó được gọi là lợi tức.
7.Lợi nhuận siêu ngạch
Là phần thu giá trị thặng dư thu được trội hơn giá trị thặng dư bình thường nhờ giá trị cá biệt của hàng hoá thấp hơn giá trị của xã hội.Vì vậy các doanh nghiệp luôn cải tiến kỹ thuật để tăng NSLĐ tạo nên giá trị cá biệt.
Phần II
Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường
&1.Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế
1.Lợi nhuận thúc đẩy sự phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
Lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu mà mỗi con người trong xã hội tìm kiếm, đặc biệt là các nhà tư bản. Các doanh nghiệp luôn fải đặt ra câu hỏi: Sản xuất cái gì? cho ai? Và sản xuất như thế nào?Chi phí và lợi nhuận thu được là bao nhiêu? Các nhà tư bản đầu tư ngày càng nhiều vào nghiên cứu khoa học để cải tiến kỹ thuật nhằm tăng năng suất lao động, cạnh tranh bằng chất lượng và giá cả của sản phẩm vì vậy nó đã đưa lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng.Thu hút lực lượng lao động lớn mạnh cả về số lượng và trình độ. Đặc biệt là trong các ngành công nghiệp.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất đòi hỏi về nhu cầu trao đổi về hàng hoá, trang thiết bị , vật tư, nguyên liệu và kỹ thuật công nghệ vì vậy kéo theo sự phát triển về quan hệ sản xuất cũng như sự phân công lao động xã hội.Lực lượng sản xuất phát triển thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển theo và ngược lại. Xuất phát từ mục tiêu ổn định và phát triển có kế hoạch, phân bố lực lượng lao động hợp lý, cân đối trong nền kinh tế để khai thác tốt nguồn tài nguyên, kết hợp chặt chẽ và thích đáng lợi ích xã hội, tập thể người lao động, giáo dục quan điểm, thái độ và kỹ thuật cho người lao động. Tất cả những vấn đề đặt ra đều xuất phát từ lợi nhuận và chính nó cũng thúc đẩy quá trình phân phối lao động diễn ra mạnh mẽ. Trong thời quá độ ở nước ta hiện nay còn xuất hiện hình thái phân phối theo vốn và tài sản dưới hình thức công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn.
Lợi nhuận đã làm chuyển đổi từ kinh tế tư nhiên sang kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường. Theo quá trình phát triển của lịch sử nền kinh tế đã trải qua rất nhiều hình thức khác nhau từ hình thức lạc hậu tới hình thức tiên tiến hiện đại, đi từ kinh tế tự nhiên tới kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Quá trình này song song với mục đích thu được lợi nhuận ngày càng cao, nhằm đảm bảo nhu cầu tốt hơn về cuộc sống.
.
2.Lợi nhuận thúc đẩy hoạt động kinh doanh quốc tế.
Lợi nhuận là lý do chính làm xuất hiện và phát triển kinh tế thị trường. nó thúc đẩy quá trình mở rộng trao đổi hàng hóa và khoa học kỹ thuật. Mở cửa nền kinh tế nhằm thu hút nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về trình độ công nghệ trong nước, cấu thành ngành và sản phẩm, mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết hợp tác, là cơ sở tăng cường tính độc lập và phụ thuộc lẫn nhau trên nguyên tắc bình đẳng và cùng có lợi.
3.Vai trò của lợi nhuận trong đời sống xã hội..
Lợi nhuận góp phần cảI thiện đời sống nhân dân:
Trong nền kinh tế thị trường, các nhà sản xuất kinh doanh ngoài phần thu nhập là tiền lương, còn khoản thu nhập khác, đó là lợi nhuận và phần này ngày càng tăng lên, chiếm ưu thế trong tổng thu nhập. Tổng thu nhập là mỗi người lao động nói chung, mỗi nhà sản xuất kinh doanh nói riêng có được vừa phản ánh kết quả lao động của mỗi người, vừa phản ánh kết quả lao động của tập thể với tư cách là một chỉnh thể. Để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế cần phải phát huy tối đa sức sáng tạo của các nhà sản xuất kinh doanh giỏi và thạo với cơ chế thị trường. Muốn vậy, cần không ngừng nâng cao thu nhập (trong đó có lợi nhuận) của họ.
Thực tế cho thấy đời sống của người công nhân ở các nước tư bản phát triển đã được cải thiện nhiều hơn thời Mác sống. ở những nước này, lực lượng sản xuất rất được quan tâm, thúc đẩy góp phần tăng năng suất lao động xã hội. Do đó, giá cả tư liệu sinh hoạt giảm xuống. Với đồng lương cố định, người công nhân có thể mua được nhiều vật phẩm tiêu dùng hơn, do đó đời sống của họ được cải thiện hơn. Ngoài ra do khối lượng thặng dư thu được quá lớn, với tốc độ nhanh để tránh sự phản ứng của người lao động và quần chúng nhân dân, và để che đậy sự bóc lột tàn bạo ấy, các nhà tư bản cũng phải bỏ ra một phần giá trị thặng dư thu được để lo cho đời sống dân sinh xã hội.
Như vậy, lợi nhuận góp phần nâng cao mức sống cho người dân phải hăng say lao động, nâng cao hiệu quả công việc hơn nữa hay nói cách khác đây chính là điều kiện để tái sản xuất ra sức lao động trong điều kiện nền sản xuất hiện đại.
Ngoài những người có sức đang làm việc và được trả công theo lao động, những người có vốn và tài sản đóng góp vào quá trình sản xuất được nhận lợi tức và lợi nhuận thì trong xã hội còn có những người vì lẽ này lẽ khác không thể tham gia vào lao động được. Đời sống của những người này do gia đình họ và xã hội đảm bảo. nó đảm bảo mọi thành viên xã hội có mức sống bình thường tối thiểu, nó còn có tác dụng kích thích lao động sản xuất, kích thích sự phát triển toàn diện của mọi thành viên trong xã hội.
Khi nền kinh tế phát triển sẽ là nền tảng cho việc củng cố quốc phòng an ninh, giáo dục. Quốc phòng trang bị những vũ khí hiện đại tối tân. Chúng ta cần nắm bắt được khoa học kỹ thuật và phải có một sự đầu tư để nhập các thiết bị quân sự và giáo dục. Khi lợi nhuận cao sẽ có điều kiện phát triển nhân tố con người cả về lý luận lẫn thực tiễn.
&2.vấn đề lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1.Chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trước năm 1986, nước ta ở trong thời kỳ bao cấp, thời kỳ này các doanh nghiệp chưa hoạt động trong mối quan hệ thực sự với thị trường. Đó là cơ chế tập trung chỉ huy, làm mất khả năng sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh thủ tiêu cạnh tranh, thiếu động lực để đầu tư cho khoa học kỹ thuật phát triển làm nền kinh tế tăng trưởng chậm và hiệu quả thấp. Bên cạnh đó, cơ chế hình thành và phân phối nói chung, phân phối lợi nhuận không phù hợp tạo ra sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp và người lao động, họ phải cống hiến sức lao động của họ vào việc tạo ra lợi nhuận mà họ chỉ được hưởng một phần thông qua hàng hoá và dịch vụ do nhà nước cung cấp. Trong hệ thống phân phối, sự phân phối thu nhập không dựa trên các nhân tố kích thích được xác định thông qua thị trường mà dựa trên hệ thống định mức, đánh giá sự cống hiến của mỗi tập thể và cá nhân tương ứng với vị trí và quyền lực của nó trong hệ thống phân phối. Quan hệ thị trường phát triển một cách tự phát, thường nảy sinh những ảnh hưởng bất lợi của hệ thống phân phối làm cạn kiệt mọi nguồn lực hiện có để đáp ứng nhu cầu của dân cư để tiêu dùng. Một thời kỳ chưa chú ý đúng mức tới đòn bẩy lợi nhuận, lợi nhuận chưa được coi là động lực chi phối hành động sản xuất kinh doanh, chưa thực sự gắn lợi nhuận với kết quả sản xuất.
Như vậy trong một thời kỳ dài lợi nhuận chưa được coi với tư cách là hình thức thu nhập đối với người sản xuất kinh doanh.
Hậu quả của cơ chế kế hoạch hoá tập trung, xu hướng phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường trên thế giới, tính năng động của cơ chế thị trường là những yếu tố khách quan dẫn đến sự chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam. Cuộc cải cách kinh tế năm 1986 đem lại một số thành tựu: nâng cao đời sống nhân dân, tăng tính năng động của nền kinh tế, xoá bỏ bao cấp trì trệ, kìm chế đẩy lùi lạm phát. Từng bước thực hiện với sự quản lý vĩ mô của nhà nước, tự do hoá thương mại, tự do giá cả là nhân tố trung tâm từng bước đột phá để tiến tới cơ chế thị trường đích thực. Cơ chế thị trường đã góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy tính tự chủ của hộ kinh tế với chủ doanh nghiệp..
2.Sự phân chia sản phẩm thặng dư ở Việt Nam.
Kinh tế thị trường phụ thuộc vào hình thức sở hữu mà trong đó nó phụ thuộc vào chế độ sở hữu thống trị. Không có kinh tế thị trường chung chung thuần tuý trừu tượng tách khỏi các hình thái kinh tế xã hôi, tách rời chế độ xá hội. Tính tích cực hay tiêu cực của kinh tế thị trường còn phụ thuộc vào chế độ xã hội, vai trò của nhà nước, chính sách pháp luật của Nhà nước.
Mục đích của kinh tế thị trường là lơi nhuận. ở nước ta khi theo nền kinh tế thị trường thì cũng nhằm mục đích lợi nhuận, nhưng không theo đuổi mục đích lợi nhuận một cách đơn thuần. Xuất phát từ đặc điểm nước ta là một nước xã hội chủ nghĩa. Ngay từ đầu chúng ta đã khẳng định định hướng xã hội chủ nghĩa là không thay đổi. Về nguyên tắc sản phẩm thặng dư thuộc về người sáng tạo ra nó, tức là thuộc về cá nhân chủ sở hữu sức lao động, đồng thời là thành viên sở hữu về tư liệu sản xuất. Cá nhân là một thành viên của xã hội, sống và hoạt động trong một xã hội cụ thể, nên phải làm nghĩa vụ của mình tốt. Một phần sản phẩm thặng dư được đóng góp vào quỹ xã hội được dùng vào các việc như những chi phí về quản lý, chi phí đảm bảo cuộc sống cho những người không có khả năng lao động, những chi phí để thoả mãn nhu cầu chung …
ở chủ nghĩa xã hội vẫn phải tăng cường đầu tư mở rộng phát triển sản xuất bằng cách phát triển nhân tố tư liệu sản xuất. Đó trước hết là trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với tương lai của cá nhân đó, tiếp đó là trách nhiệm của “người cha hiền”.
Phần còn lại được dùng cho cá nhân với mục tiêu nâng cao năng lực của bản thân và nâng cao đời sống.
Nhà nước ta thực hiện chính sách thiết lập nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, có sự quản lý và điều tiết của nhà nước là hợp lý với chế độ chính trị và quy luật kinh tế.Vấn đề là cần có các phương pháp giám sát việc thực hiện này trong thực tế đi đúng con đường đã vạch ra để tránh tiêu cực xã hội
3-Xây dựng và hoàn thiện hệ tư tưởng văn hoá:
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập và mở rộng hợp tác đối với các nước trên thế giới . Chấp nhận nền văn hoá đa dạng là sự thực hiện chính sách hoà hợp dân tộc, nhằm động viên mọi thành phần dân cư đoàn kết, phục vụ công cuộc chấn hưng dân tộc cùng xây dựng tổ quốc Việt Nam trở thành một quốc gia giàu mạnh và văn minh, sánh vai với các dân tộc trên thế giới. Nền văn hoá đa dạng không có nghĩa là văn hoá du nhập ngoại lai bị đồng hoá mà chấp nhận đa dạng văn hoá là nhằm động viên cao nhất sự phong phú, muôn vẻ của văn hoá, kích thích sáng tạo, khai thác tốt nhất tiềm năng con người phục vụ phát triển.Tiếp thu và học hỏi từ bên ngoài những thành tựu khoa học kỹ thuật để áp dụng trong nhiều lĩnh vực, phát huy sáng tạo trong lao động sản xuất. Bài trừ tư tưởng phản động phá hoại nền văn hoá chính trị quốc gia.
Kết luận
Tiểu luận trên đã phần nào làm rõ được bản chất và nguồn gốc của lợi nhuận, cũng như vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường. Chúng ta thấy rằng việc theo đuổi lợi nhuận là một điều tất yếu trong quá trình phát triển kinh tế, vì nó là động lực thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên thực chất của quá trình tạo ra lợi nhuận còn nhiều mâu thuẫn nảy sinh. Vấn đề hết sức quan trọng đã nảy sinh là sự tiêu cực trong văn hoá - xã hội lối sống của người dân trong cơ chế mới, là sự chạy theo lợi nhuận cá nhân mà bắt chấp tác hại đối với cộng đồng cũng như sự sống của toàn trái đất ….Những vấn đề trên đặt ra một yêu cầu là tất cả chúng ta phải cùng cố gắng để đưa nền kinh tế phát triển, xã hội lành mạnh văn minh.
Chúng ta không thể đứng nhìn những mâu thuẫn này nảy sinh trong quá trình chuyển đổi, mà chúng ta hãy nỗ lực hơn nữa trong học tập và lao động để có thể góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc xây dựng đất nước. Chúng ta mong đợi và tin tưởng quá trình phát triển kinh tế của đất nước sẽ đi đến thắng lợi.
Qua quá trình nghiên cứu ta thấy lợi nhuận là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp, là cơ sở mọi hình thức kinh tế và cùng với những hiểu biết về vai t
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 111099.doc