Tiểu luận Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước

Khi nghiên cứu về tổ chức thị tộc ở Hy Lạp ở châu Âu thì Ph.Ăngghen cũng có một nhận định trong tổ chức thị tộc bộ lạc Iroqua ở châu Mỹ ở rất xa cả về không gian và thời gian so với thị tộc Hy Lạp ở châu Âu nhưng cũgn có tổ chức tương tự như nhau; nó cũgn có những tính ưu việt tương tự như tổ chức thị tộc Iroqua. Cụ thể là trong xã hội ấy cũng chưa có giai cấp, chưa có nhà nước và mọi thành viên trong xã hội đều có quyền bình đẳng, tự do nhưng tổ chức thị tộc Hy Lạp đã phát triển cao hơn so với xã hội thị tộc Iroqua mà cụ thể là quyền bình đẳng ấy "đã phát triển lên đến mức trở thành một đại hội thực sự của nhân dân". Đại hội này cũng do một hội đồng là cơ quan quyền lực thường trực triệu tập để "quyết định những công việc quan trọng. Quyết định được thông qua bằng cách giơ tay hoặc bằng cách hoan hô. Đại hội nhân dân có quyền tối hậu quyết định" [Sđd, tr.159]. Song thị tộc ấy cũng tất yếu bị diệt vong theo quy luật.Ăngghen đã phân tích một loạt các nguyên nhân làm tan rã của xã hội thị tộc Hy Lạp đó.

 

doc36 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6405 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nguồn gốc của gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể cả trong môi trường đạo thiên chúa hay đạo Tin lành thì hôn nhân trong chế độ tư sản "... đều dựa trên địa vị giai cấp của đôi bên, vì vậy hôn nhân luôn l uôn là hôn nhân có tính toán... hôn nhân có tính toán đó thường thường biến thành sự mãi dâm tư liệu nhất - có khi là của cả đôi bên, nhưng thông thường nhất là về phía người vợ. Nếu ở đây người đàn bà có khác với gái đĩ thường thì chỉ là vì người đó không bán thể xác mình từng thời gian một như người nữ công nhân làm thuê bán sức lao động của mình, mà là bán mãi mãi, như một nữ nô lệ" [Sđd, tr.112]. Ngay trong đạo thiên chúa cha mẹ vẫn tìm vợ cho con, lựa chọn người vợ xứng đáng và vì thế đã dẫn đến kết quả "làm cho mâu thuẫn chứa đựng trong chế độ một vợ một chồng phát triển đầy đủ nhất: chế độ hệ ta-ia về phía người chồng là chế độ hệ ta-ia bừa bãi, về phía vợ là ngoại tình lu bù" [Sđd, tr.111]. Hoặc như trong đạo Tin lành, việc người con trai ít nhiều đều lựa chọn vợ trong cùng giai cấp thì chế độ hệ ta-ia của người chồng được thực hành ít kiên quyết hơn, và tệ ngoại tình của vợ cũng ít thành lệ hơn song "cũng chỉ mang lại cho cuộc sống chung một nỗi buồn nặng chĩu mà người ta gọi là hạnh phúc gia đình" [Sđd, tr.112]. Theo quan niệm của giai cấp tư sản, hôn nhân là một hợp đồng, một công việc có tính pháp lý. Không chỉ lên án xã hội tư sản và những thối nát của giai đoạn do chế độ tư bản sinh ra, Ph.Ăngghen còn nêu ra những quan điểm về tình yêu, hôn nhân và gia đình trong xã hội tương lai "... lần đầu tiên... chúng ta có được tình yêu cá thể, hiện đại giữa trai và gái trước kia chưa hề thấy trên thế giới" [Sđd, tr.120]. Tình yêu ấy là sự tự nguyện của cả người đàn ông và người đàn bà. Đó chính là điều kiện cho sự bình đẳng nam nữ trong mối quan hệ này. "Về mặt này người đàn bà là người ngang hàng với người đàn ôgn" [Sđd, tr.109]. Tình yêu nam nữ ấy phải được thử thách qua thời gian và nó tạo ra sức mạnh vượt qua những khó khăn cản trở trên con đường đi tới hôn nhân. Và một khi không tiến hành được hôn nhân thì đó "là một điều đau khổ lớn" [Sđd, tr.120]. Với bản chất không chia sẻ, tình yêu là cơ sở cho hôn nhân một vợ một chồng, và cũng chỉ có hôn nhân như vậy thì tình yêu mới được duy trì và tình yêu như thế, hôn nhân như thế mới là hợp đạo đức. Trong xã hội tương lai ấy, thế hệ mới sẽ lớn lên, họ được tự do yêu đương chính đáng, tự lựa chọn bạn đời: "Một thế hệ đàn ông không bao giờ phải dùng tiền hoặc dùng những phương tiện quyền lực xã hội khác để mua sự hiến thân của người đàn bà, và một thế hệ đàn bà không bao giờ phải hiến mình cho đàn ông vì một lý do nào khác ngoài tình yêu chân chính, hoặc phải từ chối không dám hiến mình cho người yêu vì sợ những hậu quả kinh tế của sự hiến thân đó" [Sđd, tr.120]. Thế hệ mới ấy sẽ vứt bỏ tất cả những điều mà theo quan niệm của xã hội cũ buộc họ phải làm bởi họ tự biết cần phải làm thế nào để chọn lựa người bạn đời để tạo ra một gia đình một vợ một chồng đúng với nghĩa của nó. Như vậy, rõ ràng là kết hôn và tình yêu là quyền của con người, hơn nữa không những là quyền của đàn ông mà còn là quyền của đàn bà - sự bình đẳng trong hôn nhân giữa nam và nữ. Trong quá trình phân tích bản chất tình yêu và gia đình một vợ một chồng xây dựng trên cơ sở tình yêu chân chính, Ph.Ăngghen cũng có quan điểm tán thành giải quyết ly hôn khi hạnh phúc gia đình thật sự không còn nữa. Ông coi đó là điều cần thiết cho cả người đàn ông và người đàn bà và cho cả xã hội, là biểu hiện của đạo đức và là một quy tắc trong quan hệ vợ chồng mới: "Nếu tình yêu đã hoàn toàn phai nhạt hoặc bị một tình yêu say đắm mới át đi, thì ly hôn sẽ là điều hay cho cả đôi bên cũng như cho xã hội. Chỉ cần tránh cho người ta khỏi sa chân vô ích vào vũng bùn kiện tụng để ly hôn mà thôi" [Sđd, tr.128]. Để xây dựng một chế độ hôn nhân gia đình trong xã hội mới, Ph.Ăngghen chỉ ra rằng những điều kiện kinh tế xã hội cần thiết tất yếu làm cơ sở cho chế độ một vợ một chồng được thực hiện trọn vẹn. Ông viết "hiện nay chúng ta đang tiến tới một cuộc cách mạng xã hội, trong đó các cơ sở kinh tế từ trước tới nay của chế độ một vợ một chồgn cũng như cơ sở của điều bổ sung cho nó là nạn mại dâm đều nhất định sẽ bị tiêu diệt. Các tư liệu sản xuất mà được chuyển thành tài sản xã hội thì độ lao động làm thuê, giai cấp vô sản cũng sẽ biến mất và đồng thời cũng sẽ không còn tình trạng m ột số phụ nữ... cần thiết phải bán mình vì đồng tiền nữa. Tệ mại dâm sẽ mất đi và chế độ một vợ một chồng không những không suy tàn mà cuối cùng lại còn trở thành một hiện thực - ngay cả đối với đàn ông nữa" [Sđd, tr.118]. Ph.Ăngghen phân tích rằng cùng với việc xóa bỏ chế độ tư hữu, thực hiện công hữu hóa các tư liệu sản xuất và sự phát triển của nền đại công nghiệp sẽ tạo điều kiện giải phóng người phụ nữ, xây dựng quan hệ gia đình bình đẳng hòa thuận. Ông viết: "... đại công nghiệp đã giật được người đàn bà ra khỏi nhà, đem họ ra thị trường vận động và vào công xưởng, và thường biến họ thành cột trụ của gia đình, thì trong gia đình người vô sản, những tàn tích cuối cùng của quyền thống trị của người đàn ông đã mất mọi cơ sở..." [Sđd, tr.115]. Thật vậy , chỉ có nền công nghiệp hiện đại là nền công nghiệp không những thu nhận vận động của phụ nữ trên quy mô lớn mà còn trực tiếp đòi hỏi phải có vận động phụ nữ và ngày càng có xu hướng biến vận động tư nhân của gia đình thành vận động ngành công nghiệp công cộng. "Cái sẽ biến mất đi một cách rất chắc chắn trong chế độ một vợ một chồng chính là tất cả những đặc trưng mà những quan hệ tài sản đẻ ra nó, đã ăn lên nó. Những đặc trưng đó là: thứ nhất là sự thống trị của người đàn ông, và thứ hai là tính ràng buộc vĩnh viễn của hôn nhân" [Sđd, tr.130]. Khi gia đình một vợ một chồng phát triển hơn nữa sẽ là một bước tiến đến gần sự hoàn toàn bình đẳng về quyền lợi giữa nam và nữ, giống như điều Moóc gan đã viết: "Gia đình một vợ một chồng đã được cải tiến ngay từ khi bắt đầu thời kỳ văn minh và được cải tiến rất rõ rệt trong thời kỳ cận đại... hình thức đó còn có thể được cải tiến thêm nữa, cho tới khi đạt đến sự bình đẳng giữa nam và nữ" [Sđd, tr.132]. Quan điểm tiến bộ này của Moóc gan đã được Ph.Ăngghen tiếp nhận để phát triển quan điểm tình yêu, hôn nhân và gia đình. Hai là: Nguồn gốc ra đời và tiêu vong của chế độ tư hữu và giai cấp Trong tác phẩm "Nguồn gốc gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước". Ph.Ăngghen đã chỉ ra nguyên nhân cơ bản của quá trình ihình thành phát triển của chế độ tư hữu và giai cấp là do sự phát triển của sản xuất và sự phân công lao động xã hội. "Việc thuần dưỡng súc vật và việc chăn nuôi các bầy gia súc đã toạ ra những nguồn của cải chưa từng thấy và đã toạ ra những quan hệ xã hội hoàn toàn mới" [Sđd, tr.90]. Để chăn nuôi và phát triển đàn gia súc, người ta cần nhiều người hơn và trong lúc này những tư lệnh bắt buộc sau các cuộc chiến đã là những món "của cải" có ích. "Những của cải ấy, một khi trở thành sở hữu riêng của các gia đình riêng rẽ và một khi đã tăng lên nhanh chóng thì đánh một đòn rất mạnh vào xã hội dựa trên chế độ hôn nhân cặp đôi và trên thị tộc mẫu quyền" [Sđd, tr.92]. Chế độ phụ quyền thay thế chế độ mẫu quyền. Sản xuất phát triển, năng suất vận động tăng lên, phânghiên cứu ông lao động xã hội thay đổi, sự trao đổi sản phẩm đã làm nảy sinh tư tưởng muốn giữ làm của riêng mộtphần sản phẩm mà bản thân làm ra, muốn chiếm đoạt của cải của thị tộc và của người khác. Chế độ tư hữu ra đời, Ph.Ăngghen viết: "Chính những lợi ích thấp hèn nhất - tính tham lam tầm thường, lòng khao khát hưởng lạc thô bạo, tính bủn xỉn bẩn thỉu, nguyện vọng ích kỷ muốn ăn cắp của công báo hiệu sự ra đời của xã hội văn minh mới, xã hội có giai cấp" [Sđd, tr.150]. Sự ra đời của chế độ tư hữu làm xuất hiện tình trạng bất công về của cải giữa cácthành viên trong cộng đồng thị tộc. Trong thị tộc sinh ra những lớp người giầu nghèo khác nhau và địa vị của mỗi lớp người trong thị tộc cũng khác nhau. Sự bất công về tài sản đã tác động trở lại chế độ xã hội, tạo ra những mầm mống đầu tiên của các tầng lớp quý tộc, hình thành sự phân biệt giữa kẻ giầu và người nghèo, giữa chủ nô và nô lệ: "Sự chênh lệch về tài sản đã ảnh hưởng trở lại đến tổ chức xã hội bằng cách tạo ra những mầm mống đầu tiên của giới quý tộc thế tập và vương quyền thế tập; chế độ nô lệ, lúc đầu chỉ thi ihành đối với tù binh, đã mở ra cái triển vọng nô dịch ngay cả những thành viên cùng một bộ lạc và thậm chí cả những thành viên của chính ngay thị tộc mình nữa" [Sđd, tr.168]. "Chia toàn thể nhân dân không phân biệt thị tộc, bào tộc hay bộ lạc ra làm 3 giai cấp... quý tộc... người làm ruộng... người làm nghề thủ công và... trao cho bọn quý tộc được độc quyền đảm nhiệm những chức vụ công cộng" [Sđd, tr.172]. Xã hội đã phân chia thành giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột. Sự phân chia ấy cứ tồn tại suốt trong thời đại văn minh. Thực tiễn lịch sử đã cho thấy quá trình hình thành và phát triển của giai cấpgắn liền với quá trình hình thành và phát triển của chế độ tư hữu. Tư hữu làm nảy sinh giai cấp và đồng thời cũng có cùng một nguồn gốc với giai cấp. Tư hữu và giai cấp đã sinh ra khi xã hội phát triển đến một giai đoạn nhất định thì tư hữu và giai cấp cũng sẽ cùng mất đi khi xã hội phát triển tới một giai đoạn phát triển nhất định. Như vậy, ta thấy trong tác phẩm Ph.Ăngghen đã vạch ra nguồn gốc sự phát triển của chế tư hữu và giai cấp mà còn khẳng định rằng chế độ tư hữu và giai cấp cúng nhất định sẽ mất đi. Khi xã hội phát triển đến một giai đoạn mà lực lượng sản xuất đạtt ới trình độ cao, sự tồn tại của chế độ tư hữu cùng với sự tồn tại của giai cấp trở thành kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Ông viết: "Bây giờ chúng ta đang bước nhanh đến gần một giai đoạn phát triển sản xuất, trong đó sự tồn tại của những giai cấp nói trên không những không còn là một sự tất yếu nữa mà còn trở thành một trở ngại trực tiếp cho sản xuất. Những giai cấp đó sẽ không tránh khỏi biến mất, cũng như xưa kia chúng đã không tránh khỏi sẽ xuất hiện" [Sđd, tr.257-258]. Như vậy, Ph.Ăngghen đã chỉ ra xã hội có giai cấp không tồn tại vĩnh cửu mà chỉ là một giai đoạn tất yếu của lịch sử loài người. Song đến khi nào thì không còn chế độ tư hữu, không còn giai cấp thì đó là cả một thời kỳ lịch sử lâu dài, rất lâu dài và phải trải qua nhiều bước trung gian quá độ hết sức phức tạp. Ba là: Điều kiện ra đời của nhà nước và vấn đề nhà nước tiêu vong Trong tác phẩm: "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước", khi nghiên cứu về nguồn gốc ra đời của nhà nước, trước hết ông đã tìm hiểu và mô tả chi tiết về tập tục, tục lệ tổ chức của các xã hội nguyên thủy, phân tích một cách khách quan quá trình phát sinh, phát triển của các tổ chức xã hội thị tộc Iroqua (chương 3) và tổ chức xã hội thị tộc Hy Lạp (chương 5). Ph. Ăngghen đã có những nhận định về tính ưu việt của xã hội cộng sản nguyên thủy. Đó là xã hội chưa biết tới nhà nước và uy quyền của nhà nước đối với đời sống con người, mọi người đều bình đẳng với nhau. Ông viết: "Với tất cả tính ngây tơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao. Không có quân đội hiến binh và cảnh sát, không có quý tộc, vua chúa, tổng đốc, trưởng quan, quan tòa, không có nhà tù... Tất cả đều bình đẳng và tự do kể cả phụ nữ" [Sđd, tr.147-148]. Tuy xã hội thị tộc l à một xã hội tốt đẹp song bằng sự nghiên cứu về sự vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài người Ph.Ăngghen đã khẳng định sự tan rã của các xã hội thị tộc và sự ra đời nhà nước là một tất yếu lịch sử - một hình thức tổ chức của xã hội mới. Khi viết về chế độ thị tộc Iroqua ở châu Mỹ, ông đã nói viết: " tổ chức ấy nhất định phải đi đến chỗ diệt vong, nó không vượt xa hơn bộ lạc được; liên minh những bộ lạc đã đánh dấu bước đầu của sự suy tàn của tổ chức ấy" [Sđd, tr.146]. Ông chỉ ra nguyên nhân của hiện tượng đó là vì: "ở chỗ nào không có một hòa ước rõ ràng thì ở đó, chiến tranh xảy ra liên miên giữa các bộ lạc, và chiến tranh đó được tiến hành với một sự tàn bạo... và chỉ về sau này, do lợi ích vật chất sự tàn bạo đó mới giảm đi đôi chút" [Sđd, tr.149]. Như vậy bằng những nghiên cứu phân tích một cách biện chứng, Ăngghen đã chỉ ra nguyên nhân tan rã của xã hội thị tộc Irôqua chính là sự phát triển của chính bản thân xã hội thị tộc đó. Một xã hội chỉ có thể tồn tại được khi nó có sự phù hợp giữa nội dung và hình thức tồn tại của nó. Tức là sự vận động và phát triển của xã hội về kinh tế, xã hội, văn hóa đó chính là nội dung và hình thức là tổ chức xã hội thị tộc. Khi mà nội dung vượt quá sức chứa của hình thức tất yếu sẽ dẫn tới phát sinh mâu thuẫn và dẫn tới sự phá vỡ hình thức tồn tại cũ để chuyển sang hình thức tồn tại mới, một giai đoạn phát triển cao hơn của xã hội mà cụ thể đó là khi nền kinh tế, xã hội phát triển vượt ra ngoài khuôn khổ tổ chức của một xã hội thị tộc dưới dạng xã hội cộng sản nguyên thủy thì nó sẽ tự phá vỡ hình thức tồn tại cũ, chật hẹp đó để xây dựng một tổ chức xã hội mới, cao hơn phù hợp với nội dung mà nó có. Khi nghiên cứu về tổ chức thị tộc ở Hy Lạp ở châu Âu thì Ph.Ăngghen cũng có một nhận định trong tổ chức thị tộc bộ lạc Iroqua ở châu Mỹ ở rất xa cả về không gian và thời gian so với thị tộc Hy Lạp ở châu Âu nhưng cũgn có tổ chức tương tự như nhau; nó cũgn có những tính ưu việt tương tự như tổ chức thị tộc Iroqua. Cụ thể là trong xã hội ấy cũng chưa có giai cấp, chưa có nhà nước và mọi thành viên trong xã hội đều có quyền bình đẳng, tự do nhưng tổ chức thị tộc Hy Lạp đã phát triển cao hơn so với xã hội thị tộc Iroqua mà cụ thể là quyền bình đẳng ấy "đã phát triển lên đến mức trở thành một đại hội thực sự của nhân dân". Đại hội này cũng do một hội đồng là cơ quan quyền lực thường trực triệu tập để "quyết định những công việc quan trọng.... Quyết định được thông qua bằng cách giơ tay hoặc bằng cách hoan hô. Đại hội nhân dân có quyền tối hậu quyết định" [Sđd, tr.159]. Song thị tộc ấy cũng tất yếu bị diệt vong theo quy luật.Ăngghen đã phân tích một loạt các nguyên nhân làm tan rã của xã hội thị tộc Hy Lạp đó. 1. Do sự phát triển liên kết các bộ lạc thành những bộ tộc gần như là một dân tộc có địa dư rộng, dân số tăng vượt ra ngoài phạm vi tổ chức của một thị tộc và sống trong các thành thị có thành quách bảo vệ tức là liên quan tới vấn đề biên giới và cai quản biên giới. 2. Kinh tế phát triển nhanh nhờ có sự phân công lao động, chăn nuôi tách ra khỏi trồng trọt, thủ công tách ra khỏi nông nghiệp và như thế, của cải sản phẩm trong xã hội tăng nhanh dẫn tới sự chênh lệch về thu nhập của cải giữa các thành viên trong xã hội và sau đó dần hình thành giai cấp quý tộc trong nội bộ thị tộc và manh nha hình thành giai cấp trong xã hội, đó chính là nguyên nhân thứ hai làm tan rã chế độ xã hội thị tộc. 3. Chiến tranh liên miên giữa các bộ lạc nhằm mở rộng bờ cõi, đất đai, cướp chiếm của cải và tù bình. Tù binh lúc đầu bị giết, bị dùng vào các cuộc tế lễ nhưng về sau quy mô chiến tranh lớn hơn, tù binh nhiều hơn và hơn nữa là do ý thức đạo đức trong xã hội phát triển hơn nên tù binh được giữ lại để phục dịch cho người bắt được và đây chính là nguyên nhân làm hình thành giai cấp mới trong xã hội tức là manh nha hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ. 4. Về mặt tổ chức, trong bộ lạc có một cơ quan thường trực với những hoạt động tập thể và việc hình thành các quyết nghị có hiệu lực như những luật lệ chung tức dần hình thành pháp luật. Tất cả những nguyên nhân trên đã tác động vào tổ chức xã hội thị tộc, dần làm thay đổi kết cấu của tổ chức xã hội thị tộc vốn có để hình thành một tổ chức xã hội mới phát triển cao hơn buộc xã hội thị tộc phải tan rã nhường chỗ cho một thời đại mới thích ứng với một tổ chức xã hội mới mà theo Ăngghen thì: "Chỉ còn thiếu một điều thôi: đó là một thiết chế không những bảo vệ những của cải mà các cá nhân vừa mới có được, chống lại những truyền thống cộng sản của chế độ thị tộc, một thiết chế không những thần thánh hóa sở hữu tư nhân rất bị khinh rẻ, trước đây và tuyên bố sự thần thánh hóa đó là mục đích tối cao của mọi xã hội loài người, mà còn in dấu ấn của sự công nhận của xã hội nói chung lên những hình thức mới phát triển nối tiếp nhau của việc kiếm được tài sản, nói một cách khác là của việc tích lũy của cải ngày càng nhanh; một thiết chế không những kéo dài mãi sự phân chia xã hội thành giai cấp, sự phân chia này hiện mới chớm nở, mà còn kéo dài mãi mãi quyền của giai cấp có của bóc lột giai cấp không có của và quyền thống trị của giai cấp có của đối với giai cấp không có của, và thiết chế đó đã xuất hiện. Nhà nước đã được phát minh ra" [Sđd, tr.163-164]. Cùng với các nghiên cứu hết sức công phu và lập luận chặt chẽ. Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng những nguyên nhân làm tan rã xã hội thị tộc chính là những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước. Song để khẳng định một cách chắc chắn và lôgíc hơn về những nguyên nhân làm xuất hiện nhà nước, Ăngghen đã tiếp tục tìm hiểu, phân tích về sự ra đời và phát triển của ba hình thức nhà nước cổ là nhà nước Aten, nhà nước La mã và nhà nước Giéc manh. Theo Ăngghen, sự ra đời của nhà nước Aten: "là một ví dụ đặc biệt điển hình về sự hình thành nhà nước nói chung" [Sđd, tr.180]. Ông cho rằng đó là kết quả ra đời tất yếu khách quan của những điều kiện kinh tế - xã hội ngay trong lòng xã hội thị tộc. Đó hoàn toàn là sự phát triển tiến lên một bước cao hơn từ xã hội cộng sản nguyên thủy sang chế độ chiếm hữu nô lệ bởi vì như Ăngghen kết luận về sự phát sinh ra nhà nước Aten: "Một mặt vì nó diễn ra dưới một dạng thuần túy, không có sự can thiệp của bạo lực ở bên trong hay bên ngoài... mặt khác vì trong trường hợp này, một hình thức phát triển rất cao của nhà nước tức là chế độ cộng hòa dân chủ đã trực tiếp xuất hiện từ xã hội thị tộc..." [Sđd, tr.180]. Còn sự ra đời của nhà nước La mã thì lại hoàn toàn khác, như trên đã trình bày, tổ chức xã hội thị tộc ở La mã đã phát triển một cách tự nhiên và thuần túy đặc biệt là tính dân chủ trong xã hội đã phát triển rất cao, điều đó thể hiện ở chỗ là các cơ quan đứng đầu thị tộc có quyền hành chính đặc biệt, đều do đại hội nhân dân bầu ra và đại hội nhân dân có quyền bãi miễn, vì thế tổ chức xã hội thị tộc của người La mã được tổ chức một cách hết sức chặt chẽ và dần trở thành một thị tộc hùng mạnh và khi đó họ bắt đầu mở các cuộc chiến tranh để mở rộng bờ cõi và đây chính là những nguyên nhân sâu xa làm xã hội thị tộc Rô ma bị phá vỡ bởi vì như Ăngghen viết: "Trong lúc đó thành La mã và lãnh thổ La mã được mở rộng ra nhờ các cuộc xâm chiếm, số dân cư đã tăng dần lên, một phần do người ta di cư đến, một phần do dân cư ở các miền bị chinh phục, chủ yếu là các miền Latinh..." [Sđd, tr.192]. Tất cả những người dân mới này đều ở ngoài các thị tộc và bộ lạc cũ và họ không phải là nhân dân La mã chính cống mà họ là những người tự do về thân thể, có thể có ruộng đất, có nghĩa vụ nộp thuế và làm các nghĩa vụ quân sự nhưng họ không được nắm một chức vụ gì và cũng không được tham gia đại hội, các Curies, cũng không được tham gia việc cấp phát đất đai do nhà nước đã chiếm được trong các cuộc chinh chiến. Họ hợp thành một lớp người bình dân không có mọi quyền lợi chính trị. Song vì: "Do dân số của họ ngày càng tăng, do đó họ được huấn luyện quân sự, được vũ trang nên họ trở thành một thế lực đáng sợ đối lập với Populus cũ (tức dân La mã bản địa) là cái mà nay đã đóng hẳn cửa lại không dung nạp thêm bất cứ một người nào vào nữa" [Sđd, tr.193]. Thêm vào đó là số lượng tù binh bắt được ngày càng nhiều thông qua các cuộc chiến tranh và họ cũng không có bất cứ quyền lợi gì. Cả hai nhóm người này, người bình dân và người nô lệ hợp thành một lực lượng mới, lực lượng "ngoại lai" và lực lượng này ngày càng lớn mạnh lên trở thành lực lượng đối trọng với dân bản xứ. Khi đó tất nhiên sẽ dẫn tới xuất hiện các mâu thuẫn mà theo quy luật thì khi có mâu thuẫn tất có đấu tranh dẫn tới cuộc cách mạng mà theo Ăngghen thì: "Người ta chỉ có thể khẳng định một cách chắc chắn rằng những cuộc đấu tranh giữa người bình dân và Populus là nguyên nhân cuộc cách mạng đó" [Sđd, tr.193]. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp cho ra đời nhà nước La mã. Tổ chức nhà nước La mã đã ra đời phá vỡ tổ chức xã hội thị tộc cũ, thành lập xã hội mới bằng một đại hội nhân dân mới, không có sự phân biệt dân ngoại lai với dân bản địa. Trong đại hội nhân dân mới đó người ta căn cứ vào số tài sản mà mỗi người đàn ông có nghĩa vụ cầm vũ khí có để phân chia họ thành 6 đẳng cấp trong xã hội. Trong 6 đẳng cấp đó thì 5 đẳng cấp đầu là đẳng cấp hữu sản, còn đẳng cấp cuối là đẳng cấp vô sản. Đẳng cấp vô sản được miễn thuế và các nghĩa vụ. Mỗi đẳng cấp đó cung cấp những Centurie với quân số 100 người thành một đơn vị biểu quyết và như thế quyền lực tối cao của nhà nước Rô ma là đại hội của các Centurie. Với cách tổ chức lại chặt chẽ như thế, nhà nước Lamã đã phát triển rất nhanh và thực sự trở thành một đế quốc hùng mạnh thời bấy giờ. Cuối cùng, kết luận về sự ra đời của nhà nước La Mã, Ăngghen viết: "Vậy là ở La Mã cũng thế, trước khi phá bỏ cái gọi là vương quyền, người ta đã phá vỡ cái trật tự xã hội cũ dựa trên sự liên hệ cá nhân và huyết thống, và thay vào đó, người ta lập ra một cơ cấu nhà nước mới thật sự dựa trên cơ sở phân chia địa vực và trên sự chênh lệch về tài sản" [Sđd, tr.194]. Khi nhà nước "Cộng hòa La mã đã trở thành một nước hùng mạnh thì nó có một sức mạnh ghê gớm, nó tổ chức các cuộc chiến tranh xâm chiếm lớn và Ăngghen nói: "... Nền thống trị thế giới của La mã giống như một cái bào, đã lướt qua khắp các nước vùng ven biển Địa trung hải trong nhiều thế kỷ" [Sđd, tr.219]. Nền cai trị đó đi tới đâu là quét sạch các tập quán địa phương, phá hủy những tổ chức thị tộc cổ xưa, đồng thời cũng hủy hoại luôn cả những vết tích cuối cùng của sự độc lập của địa phương và của dân tộc để đồng hòa những dân tộc đó trở thành những người La mã. Với lãnh thổ rộng lớn và dân số đông đảo như thế thì việc gắn kết họ lại là một trách nhiệm lớn của nhà nước La mã. Nhưng "Nhà nước này ngày càng trở thành một kẻ thù và một kẻ áp bức độc ác nhất... Nhà nước La mã trở thành một bộ máy khổng lồ, phức tạp chỉ được dùng để bóp nặn thần dân". Thuế má, khổ dịch và đủ các loại đmả phụ đã dìm quần chúng nhân dân vào cảnh bần cùng ngày càng trầm trọng, ách áp bức bị những hành vi nhũng inhiễu của các viên thống đốc, bọn thu thuế và lính tráng đẩy tới mức khiến người ta không thể chịu nổi được nữa" [Sđd, tr.220]. Trong xã hội đó, tệ bóc lột tăng, quan lại nhũng nhiễu và nguy hại hơn là có sự chia rẽ nội bộ trong các quan lại trong khi đó sản xuất lại đình đốn và cuối cùng như Ăngghen nhận xét "bần cùng hóa phổ biến: sự suy tàn của thương nghiệp, của thủ công nghiệp , của nghệ thuật, tình trạng giảm sút dân số, sự suy tàn của thành thị, tình trạng nông nghiệp quay trở lại mức thấp trước kia - Đó là kết quả cuối cùng của sự thống trị có tính chất thế giới của La mã" [Sđd, tr.221] và khi mà nhà nước La mã suy yếu, bất lực thì nó trở thành miếng mồi ngon cho "những người dã man Giéc manh". Sự ra đời của nhà nước Giécmanh là sự ra đời trong trường hợp đặc biệt, không phải là kết quả tất yếu của những biến đổi kinh tế - xã hội mà là kết quả của những hành động bạo lực. Thị tộc người Giécmanh sống ở ven sông Đannuy - Ranh, phía Bắc biển Ban tích. Các dân tộc này có sự tiến hóa chậm hơn so với các dân tộc La mã. Thị tộc người Giéc manh được tổ chức theo chế độ mẫu quyền. Nền kinh tế được tổ chức thành những công xã gia đình lớn bao gồm nhiều thế hệ và canh tác trên những vùng đồng bằng rộng lớn với tài sản là những đàn gia súc đông nhưng giống xấu và bé. Trang phục còn thô sơ, tập quán giết người tế lễ vẫn còn thậm chí có một số bộ tộc còn có tục lệ ăn thịt người. Tóm lại, khi nhận xét về người Giéc manh, Ăngghen viết ở đây chúng ta thấy đó là một dân cư vừa mới tiến từ giai đoạn giữa lên giai đoạn cao của thời đại dã man. Tuy nhiên các nghề tiểu thủ công nghiệp như luyện kim, đúc đồng, chế tạo vũ khí bằng kim loại của họ lại phát triển cao và dần vượt hẳn người La mã. Về tổ chức thị tộc người Giécmanh cũng có cách quản lý giống như tổ chức quản lý đã phát triển của người Hy Lạp. Đó là tổ chức quản lý phát triển mà chế độ thị tộc có thể tạo nên là cách tổ chức kiểu mẫu của giai đoạn cao của thời đại dã man. Người Giéc manh có tổ chức vũ trang được chú trọng và phát triển. Cùng với đặc tính dã man của họ, người Giécmanh liên tục tiến hành các cuộc chiến tranh mở rộng bờ cõi xuống phía nam và khi mà nhà nước La mã đã đi vào chỗ suy tàn như đã nêu ở trên thì các bộ tộc Giécmanh lớn mạnh không ngừng đã dần thiết lập chế độ vương quyền thay thế dần và cuối cùng đã lật đổ nhà nước La mã, thiết lập nên nhà nước Giécmanh. Tóm lại, bằng những nghiên cứu tỉ mỉ công phu cùng những lập luận hết sức lôgíc và biện chứng trong tác phẩm, Ăngghen đã mô tả, đã dựng lại quá trình hình thành 3 nhà nước cổ điển, điển hình. Cuối cùng ông kết luận: "Trên đây, chúng ta đã nghiên cứu riêng rẽ 3 hình thức chủ yếu trong đó nhà nước đã được dựng lên trên đống hoang tàn của chế độ thị tộc. Aten là hình thức thuần túy nhất, cổ điển nhất: ở đây, nhà nước nảy sinh chủ yếu và trực tiếp từ những sự đối lập giai cấp đã phát triển ngay trong nội bộ xã hội thị tộc. ở La Mã, xã hội thị tộc biến thành một tầng lớp quý tộc biệt lập, giữa một đám bình dân đông đảo sống

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTieu luan.doc
Tài liệu liên quan