Đến cuối thế kỷ 20 ở Phương Đông cũng như ở phát triển khoa học - nhân dạng trôi nổi biến tướng nhiều dạng. Xấu nhiều, tốt ít phản khoa học và bị lợi dụng trở thành một công cụ truyền bá mê tín, có lúc phục vụ cho ý đồ và âm mưu chính trị. Khoa học nhận dạng được chuyển thành hai xu hướng:
Một là được người cầm quyền sử dụng làm thành một công cụ thống trị có tác dụng được đề cao trong xã hội.
Hai là bị đào thải vì quá nhiều bọn xấu lợi dụng trở thành nghề bói toán lợi dụng.
Ngày nay khoa học nhận dạng vẫn đang tồn tại trong xã hội, có xu hướng phát triển mạnh hơn, trong xã hội xuất hiện những trào lưu mạnh mẽ hơn. Sở dĩ như vậy bởi con người luôn muốn tìm hiểu những gì quanh mình. Đặc biệt với những nước Phương Đông khoa học nhận dạng tâm linh - tín ngưỡng đã phát triển tới mức rất cao. (Trung Quốc - Nhật Bản.).
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 16231 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nguồn gốc và bản chất của ý thức. Ý nghĩa đối với bản thân trong việc phát huy tính năng động chủ quan của con người. Sự vận dụng của Đảng trong đường lối đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh lý thần kinh của bộ óc người.
Ngày nay sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật hiện đại đã tạo ra những máy móc thay thế cho một phần lao động trí óc của con người. Chẳng hạn các máy tính điện tử, rôbốt “tinh khôn”, trí tuệ nhân tạo. Song điều đó không có nghĩa là máy móc cũng có ý thức như con người. Máy móc dù có tinh khôn đến đâu đi chăng nữa cũng không thể thay thế được cho hoạt động trí tuệ của con người. Máy mcó là một kết cấu kỹ thuật do con người tạo ra, còn con người là một thực thể xã hội. Máy móc không thể sáng tạo lại hiện thực dưới dạng tinh thần trong bản thân nó như con người. Do đó chỉ có con người với bộ óc của mình mới có ý thức theo đúng nghĩa của từ đó.
* Nguồn gốc xã hội.
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc vào xã hội, và ngay từ đầu đã mang tính chất xã hội.
Loài vật tồn tại nhờ vào những vật phẩm có sẵn trong tự nhiên dưới dạng trực tiếp, còn loài người thì khác hẳn. Những vật phẩm cần thiết cho sự sống thường không có sẵn trong tự nhiên. Con người phải tạo từ những vật phẩm ấy. Chính thông qua hoạt động lao động nhằm cải tạo thế giới khách quan mà con người mới có thể phản ánh được thế giới khách quan, mới có ý thức về thế giới đó.
Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu nhận thụ động. Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực, bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác động vào bộ óc người. Ý thức được hình thành không phải chủ yếu là do tác động thuần tuý tự nhiên của thế giới khách quan, làm biến đổi thế giới đó. Quá trình hình thành ý thức là kết quả hoạt động chủ độngu của con người. Như vậy, không phải ngẫu nihên thế giới khách quan tác động vào bộ óc người để con người có thức, mà trái lại, con người có ý thức chính vì con người chủ động tác động vào thế giới thông qua hoạt động thực tiễn để cải tạo thế giới. Con người chỉ có ý thức do có tác động vào thế giới. Nói cách khác, ý thức chỉ được hình thành thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Nhờ tác động vào thế giới mà con người khám phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm phong phú và sâu sắc ý thức của mình về thế giới.
Trong quá trình lao động, ở con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm cho nhau. Chính nhu cầu đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ. Ph.Ăngghen viết: “Đem so sánh con người với các loài vật, người ta sẽ thấy rõ rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ trong lao động và cùng phát triển với lao động,l đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ”.
Ngôn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ vào lao động mà hình thành. Nó là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có hệ thống tín hiệu này - tức ngôn ngữ, thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Ngôn ngữ, theo C.Mác là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức. Ngôn ngữ (tiếng nói và chữ viết) vừa là phương tiện giao tiếp đồng thời là công cụ của tư duy. Nhờ ngôn ngữ con người mới có thể khái quát hoá, trừu tượng hoá, mới có thể suy nghĩ, tách khỏi sự vật cảm tính. Nhờ ngôn ngữ, kinh nghiệm, hiểu biết của người này được truyền cho người kia, thế hệ này cho thế hệ khác. Ý thức không phải là hiện tượng thuần tuý cá nhân mà là một hiện tượng có tính chất xã hội, do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được. Như vậy, ngôn ngữ là yếu tố quan trọng để phát triển tâm lý, tư duy và văn hoá con người, xã hội loài người nói chung. Vì thế Ph. Ăngghen viết: “sau lao động và đồng thời với lao động là ngôn ngữ... đó là hai sức kích thích chủ yếu” của sự chuyển biến bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức.
d) Bản chất của ý thức
Từ việc xem xét nguồn gốc của ý thức ,có thể thấy rõ ý thức có bản tính phản ánh, sáng tạo và bản tính xã hội .
Bản tính phản ánh thể hiện về thế giới thông tin bên ngoài ,là biểu thị nội dung được từ vật gây tác động và được truyền đi trong quá trình phản ánh . Bản tính của nó quy đinh mặt khách quan của ý thức, tức là phải lấy kháh quan làm tiền đề ,bị nó quy định nội dung phản ánh là thế giới khách quan.
Ý thức ngay từ đầu đã gắn liền với lao động ,trong hoạt động sáng tạo cải biến và thống trị tự nhiên của con người và đã trở thành mặt không thể thiếu của hoạt động đó .Tính sáng tạo của ý thức thể hiện ở chỗ nó không chụp lại một cách thụ động nguyên xi mà gắn liền với cải biến ,quá trình thu nhập thông tin gắn liền với quá trình xử lý thông tin .Tính sáng tạo của ý thức còn thể hiện ở khả năng gián tiếp kháI quát thế giới khách quan ở quá trình chủ động ,tác động vào thế giới đó.
Phản ánh và sáng tạo liên quan chặt chẽ với nhau ,không thể tách rời, không có phản ánh thì không có sáng tạo vì phản ánh là điểm xuất phát là cơ sở của sáng tạo. Đó là MQHBC giữa thu nhận xử lý thông tin ,là sự thống nhất mặt khách quan chủ quan của ý thức.
Ý thức chỉ được nảy sinh trong lao động ,hoạt động cải tạo thế giới của con người.Hoạt động đó không thể là hoạt động đơn lẻ mà là hoạt động xã hội. ý thức trước hết là thức của con người về xã hội và hoàn cảnh và những gì đang diễn ra ở thế giới khách quan về mối liên hệ giữa người và người trong quan hệ xã hội.Do đó ý thức xã hội hình thành và bị chi phối bởi tồn tại xã hội và các quy luật của tồn tại xã hội đó …ý thức của mỗi cá nhân mang trong lòng nó ý thức xã hội ,Bản tính xã hội của ý thức cũng thống nhất với bản tính phản ánh trong sáng tạo.Sự thống nhất đó thể hiện ở tính năng động chủ quan của ý thức ,ở qaun hệ giữa nhân tố vật chất và nhân tố ý thức trong hoạt động cải tạo thế giới quan của con người.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
a. Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội àa do những nguyên nhân sau đây:
- Một là, do bản thân ý thức vốn là cái phản ánh tồn tại xã hội. Sự biến đổi của tồn tại xã hội thường diễn ra với tốc độ nhanh mà ý thức xã hội không phản ánh kịp và trở nên lạc hậu. Hơn nữa, ý thức xã hội là cái phản ánh tồn tại xã hội cho nên nó chỉ biến đổi sau khi tồn tại xã hội đã biến đổi.
- Hai là, do tính chất bảo thủ của một số hình thái ý thức xã hội cụ thể và những tư tưởng chứa đựng trong các hình thái đó (thí dụ tư tưởng tôn giáo, những quan niệm và chuẩn mục đạo đức, những tập tục v.v...).
- Ba là, ý thức xã hội luôn gắn với lợi ích của những nhóm, những tập đoàn người, những giai cấp nhất định trong xã hội. Vì vậy những tư tưởng cũ, lạc hậu thường được các lực lượng xã hội phản tiến bộ lưu giữ và truyền bá nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.
b. Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển .
Quan điểm của triết học Mác - Lênin về tính kế thừa của ý thức xã hội có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng nền văn hoá tinh thần của xã hội.
Lênin viết: “Văn học vô sản phải là sự phát triển lôgích của tổng số kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu”.
Chúng ta khẳng định: Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế phải đặc biệt quan tâm gìn giữ và nâng cao bản sắc văn hoá dân tộc, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc, tiếp thu tinh hoa các dân tộc trên thế giới, làm giàu đẹp thêm nền văn hoá Việt Nam.
c. Ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.
Ăngghen viết:” Sự phát triển về chính trị, phát luật, triết học, tôn giáo, văn hoá, nghệ thuật v.v... dựa vào sự phát triển kinh tế. Nhưng tất cdả những sự phát triển đó đều tác động lẫn nhau và cùng tác động đến cơ sở kinh tế”.
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển xã hội phụ thuộc vào những điều kiện lịch sử cụ thể: vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó tư tưởng nảy sinh; vào vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản ánh đúng đắn của tư tưởng trong quần chúng. Cũng do đó ở đây cần phân biệt vai trò của ý thức tư tưởng tiến bộ và ý thức tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển xã hội.
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những đối lập với chủ nghĩa duy tâm trong sự tuyệt đối hoá vai trò của ý thức xã hội, mà còn bác bỏ cả quan điểm của chủ nghĩa duy vật tàm thường (hay chủ nghĩa duy kinh tế) phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội.
Như vậy, nguyên lý của chủ nghĩa duy vật lịch sử về tính độc lập tương đối của ý thức xã hội và của đời sống tinh thần xã hội nói chung, bác bỏ mọi quan điểm siêu hình, máy móc, tầm thường về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
II. Ý NGHĨA, VAI TRÒ CỦA Ý THỨC TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI.
Nhận thấy ý thức con người được phản ánh thông qua những tình thái ý thức xã hội, mà những tình thái đó có tác động trực tiếp tới đời sống xã hội con người. Đặc biệt trong vấn đề về tư tưởng chính trị pháp quyền - tình cảm - tri thức... vì vậy ta hãy xét tới sự tác động hay vai trò những tình thái ý thức xã hội này trong đời sống xã hội con người.
1. Tư tưởng chính trị và pháp quyền.
Tình thái ý thức chính trị xuất hiện trong xã hội có giai cấp và nhà nước nó phản ánh các quan hẹe chính trị, kinh tế xã hội giữa các giai cấp, các dân tộc và các quốc gia. Nó thể hiện thái độ các giai cấp đối với quyền lực nhà nước.
Chiến tranh vùng vịnh, chiến tranh cô xô vô nổ ra cùng tới một con kịch phát chưa từng có của chủ nghĩa hẹp hòi, tôn giáo cực đoan lan tràn khắp nơi và rồi ánh bình mình của thế kỷ XXI đã nhuốm màu bạo lực với sự kiện ngày 11 -9 -2001 và tiếp nối ngay sau đó là cuộc chiến tranh Atgamixtan cuộc chiến tranh Mỹ sắp giáng xuống đầu nhân dân I rắc không chỉ và vấn đền quan hệ song tương giữa một quốc gia dầu lửa bị xếp vào “trục ma quy” với siêu cường duy nhất trên thế giới mà còn là vấn đề thế giới đang phải đối đầu với chủ nghĩa đơn thương độc đoán Mỹ.
Đã từ lâu Mỹ và một số quốc gia trên luôn đặt thế giới vào tâm trạng phập phồng bất an. Nhưng Mỹ và các quốc gia đó không nhận thức được hậu quả hay do cố tình không nhận thấy được hậu quả tất yếu mà Mỹ và các quốc gia đó do áp đặt quân sự và các chính sách kinh tế khác, trên các quốc gia (như GHDCND Triều Tiên, Irắc, Afganixtan).
“135 lịch sử kinh hoàng nước Mỹ 11 / 9 /01 đã làm chấn động địa cầu. Và câu hỏi đặt ra là nguyên nhận thảm hoạ này do đâu? Hậu quả để lại sau thảm hoạ trở thành những nguyên nhân của những sự biến mới trên trường quốc tế là gì?
Hành động tiến công của những tên không tặc khủng bố nhằm vào nước Mỹ có phải là điều tất nhiên? Và những đòn tấn công đó vào nước Mỹ thông qua những cái ngẫu nhiên. Mỹ đã bất chấp những cái tồn tại khách quan luôn phá vỡ những quy ước chung và hành động theo ý thức thuộc cái riêng mà mình muốn. Và cuộc khủng bố nổ ra lẽ đương nhiên là lời cảnh báo buộc Mỹ phải xem xét lại chính mình về mọi mặt chính trị, quân sự ngoại giao. Mỹ nên tôn trọng những hiệp định chung đã được thoả thuận trong các tổ chức mang tính quốc tế như Liên hợp quốc và liệu rằng những đòn trả đũa của Mỹ đánh vào Irắc có thêm một lần phạm phải sai lầm chủ quan nữa chăng.
2. Hình thái ý thức trong đạo đức - phong tục - tập quán
a) Sự tự ý thức về lương tâm, danh dự và lòng tự trọng, v.v.. phản ánh khả năng tự chủ của con người, là sức mạnh đặc biệt của đạo đức, là nét cơ bản biểu hiện cái thiện trong con người, và cũng là biểu hiện tố chất nhân văn của con người. Với ý nghĩa đó, ý thức đạo đức là nhân tố quan trọng của tiến bộ xã hội, của sự nhân đạo hoá xã hội. Và cũng do đó, các quan niệm về thiện và ác, về hạnh phúc, công bằng, lương tâm, danh dự, lòng tự trọng trở thành những giá trị phổ biến nhất của ý thức đạo đức trong đời sống văn hoá tinh thần của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng.
b) Trong tiến trình phát triển của xã hội đã hình thành những giá trị đạo đức mang tính toàn nhân loại, tồn tại trong mọi xã hội và trong các hệ thống đạo đức khác nhau, có tác dụng điều chỉnh hành vi của mọi người, nhằm giữ gìn trật tự xã hội chung và sinh hoạt thường ngày của từng cá nhân và cộng đồng bất kể họ thuộc giai cấp nào, dân tộc nào, quốc gia nào.
c) Tuy nhiên, trong xã hội có giai cấp đối kháng thì nội dung của đạo đức bị chi phối bởi nội dung giai cấp. Trong nội dung của các phạm trù đạo đức luôn luôn phản ánh địa vị và lợi ích của giai cấp. Mỗi giai cấp trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử xã hội đều tạo ra những quan điểm đạo đức riêng của mình. Giai cấp tiêu biểu cho xu thế phát triển đi lên của xã hội thì đại diện cho một nền đạo đức tiến bộ. Còn các giai cấp đã rời khỏi vũ đại lịch sử thì đại diện cho một nền đạo đức suy thoái. Ph.Ănghen viết: “Chung quy lại thì mọi thuyết đạo đức đã có từ trước tới nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ. Và cũng như xã hội cho tới nay đã phát triển trong sự đối lập giai cấp, đạo đức luôn luôn là đạo đức của giai cấp. Cho nên hoặc giả nó bênh vực sự thống trị và lợi ích của giai cấp thống trị, hoặc giả, khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống kẻ thống trị, hoặc giả, khi giai cấp bị trị đã trở nên khá mạnh, thì nó tiêu biểu cho sự nổi dậy chống kẻ thống trị và biểu cho lợi ích tương laicủa những người bị áp bức”.
Hiện nay ở một số nước tư bản phương Tây đang lưu hành một quan niệm sai lầm cho rằng trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã xuất hiện một kiểu đạo đức mới không có tính giai cấp. Trong đó, người ta đặc biệt nhấn mạnh đến đạo đức tôn giáo như một thứ đạo đức duy nhất có khả năng chỉ ra cho toàn thể loài người con đường phát triển đi lên.
d. Trong lịch sử phát triển của đạo đức các giá trị phổ biến của nó đã không ngừng được tạo ra và hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ trong đạo đức cộng sản các giá trị đó mới có khả năng thể hiện đầy đủ nhất.
Đạo đức cộng sản được hình thành trong cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, bắt nguồn từ đạo đức cách mạng của giai cấp đó, và kế thừa những giá trị đạo đức của loài người.
Ý thức có ảnh hưởng to lớn trong quá trình hình thành phát triển cũng như tồn tịa và suy vong đối với phong tục tập quán. Con người sáng tạo ra lịch sử của mình có vai trò quyết định đối với sự phát triển xã hội mà trong quá trình đó hình thành ý thức phong tục - tập quán.
3. Vai trò của hình thái ý thức khoa học.
Tri thức khoa học đang trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp đó là đặc điểm nổi bật nhất của sự phát triển của nó trong điều kiện hiện đại. Tri thức khoa học ngày nay được kết tinh trong mọi yếu tố của lực lượng sản xuất- trong người lao động và trong đối tượng lao động, trong kỹ thuật, trong các quy trình công nghệ, trong tổ chức và quản lý sản xuất.
Khoa học ngày nay phát triển theo khuynh hướng vừa phân ngành mạnh mẽ vừa xâm nhập vào nhau và kết hợp với kỹ thuật thành một sức mạnh trí tuệ thống nhất để nhận thức và cải tạo hiện thực.
Ngày nay không chỉ có khoa học tự nhiên và kỹ thuật, mà cả khoa học xã hội cũng phát triển mạnh mẽ, có vai trò trực tiếp thúc đẩy sản xuất phát triển.
4. Vai trò của hình thái ý thức nghệ thuật.
Nghệ thuật chân chính gắn liền với đời sống hiện thực của nhân dân lao động,l là nhân tố thúc đẩy mạnh mẽ tiến bộ xã hội thông qua việc đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của con người. Khi phản ánh thế giới hiện thực trong các hình tượng nghệ thuật, nghệ thuật đã tác động đến lý trí và tình cảm của con người, kích thích tính tích cực hoạt động của con người, xây dựng ở con người những hành vi đạo đức tốt đẹp. Thông qua những tác phẩm có giá trị truyền qua các thế hệ mà nghệ thuật còn giúp con người nhận thức đời sống xã hội. Như vậy, nghệ thuật đóng vai trò to lớn trong các nhân tố giáo dục con người, nhận thức và cải tạo hiện thực.
5. Ý thức tôn giáo.
Các biến đổi dữ dội làm đảo lộn thế giới trong thế kỷ đầy bão tố đã gây nên “cuộc khủng hoảng xã hội và thế giới”. Đó là lời đánh giá của chính một nhân vật quan trọng của toà thánh Vatican, cha Peter Gumpel lúc này có một cái nhìn toàn cảnh về bức tranh tôn giáo toàn cầu cuối thế kỷ là cần thiết. Có thể nói bức tranh phức tạp pha trộn nhiều màu sắc thiếu hài hoà.
Ngày nay với sự bùng nổ của nhiều giáo phái khiến trào lưu xã hội có niều thay đổi, có nhiều giáo phái được hình thành với nghi lễ mới dung tục học quyền bỏ. Nhiều khi mang tính pha tạp hỗn hợp giả danh khoa học hoặc trộn lẫn các tín ngưỡng đã có cả trường hợp cực đoan, dẫn đến tự sát tập thể. Tuy nihên ta nhận thấy mục đích của những đạo giáo này đều hướng con người tới cái thiện, cái đẹp.
6. Hình thái ý thức khoa học nhân dạng - tâm linh - tín ngưỡng.
Đến cuối thế kỷ 20 ở Phương Đông cũng như ở phát triển khoa học - nhân dạng trôi nổi biến tướng nhiều dạng. Xấu nhiều, tốt ít phản khoa học và bị lợi dụng trở thành một công cụ truyền bá mê tín, có lúc phục vụ cho ý đồ và âm mưu chính trị. Khoa học nhận dạng được chuyển thành hai xu hướng:
Một là được người cầm quyền sử dụng làm thành một công cụ thống trị có tác dụng được đề cao trong xã hội.
Hai là bị đào thải vì quá nhiều bọn xấu lợi dụng trở thành nghề bói toán lợi dụng.
Ngày nay khoa học nhận dạng vẫn đang tồn tại trong xã hội, có xu hướng phát triển mạnh hơn, trong xã hội xuất hiện những trào lưu mạnh mẽ hơn. Sở dĩ như vậy bởi con người luôn muốn tìm hiểu những gì quanh mình. Đặc biệt với những nước Phương Đông khoa học nhận dạng tâm linh - tín ngưỡng đã phát triển tới mức rất cao. (Trung Quốc - Nhật Bản...).
2. Sự vận dụng của Đảng trong đường lối đổi mới kinh tế ở nước ta hiện nay.
Như chúng ta đã biết sau khi giải phóng miền nam thống nhất đất nước, nền kinh tế miến bắc bị suy giảm nghiêm trọng.Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém,cơ cấu kinh tế mất cân đối ,năng suất lao động thấp…sản xuất nông nghiệp chưa cung cấp đủ lương thực cho dân ,nguyên liệu cho công nghiệp ,hàng hoá cho xuất khẩu ,ngoài ra còn bị tàn phá nặng nề bởi đế quốc Mĩ .ở miền nam sau 20 năm chiến tranh nền kinh tế bị đảo lộn ,nông nghiệp bị hoang hoá ở nhiều vùng…
Trước tình hình đó đại hội Đảng ta lần thứ IV đã đề ra chỉ tiêu và kế hoạch 5 năm 1976-1980 về xây dựng và phát triển vượt quá khả năng kinh tế 1975 phấn đấu dạt 21tr tấn lương thực 1tr tấn cá biển ,1tr ha khai hoang , 1tr200ha rừng mới 10tr tấn than sạch …ngoài ra còn đề xuất xây dựng thêm các cơ sở mới về công nghiệp như cơ khí và đặc biệt là phải cải tạo XHCN ở miền nam .Những chủ trương chính sách sai lầm đó đã gây tổn hại đến nền kinh tế cuộc sóng nhân dân…đến hết 1980 ,nhiều chỉ tiêu đề ra chỉ đạt được 50-60%, nền kinh tế tăng trưởng chậm ,tổng sản phẩm xã hội bình quân là 1,5% công nghiệp tăng 2,6% nông nghiêp giảm 0,15% .
Đại hội Đảng lần V vẫn chưa tìm ra nguyên nhân dẫn tới sự trì trệ ,đồng thời cũng chưa đề ra các chính sách mới cho nền kinh tế 1981-1985 . Chúng ta chưa khắc phục chủ quan trì trệ trong bố trí cơ cấu kinh tế ,cảI tạo XHCN và quản lý kinh tế lại phạm những sai lầm mới rong lĩnh vực phân phối lưu thông .Nhìn chung vẫn chưa đạt được mục tiêu đại hội V đề ra .
Tất nhiên ngoài những yếu tố chủ quan còn có yếu tố khách quan dẫn đến sự trì trệ của nền kinh tế do chiến tranh ,bối cảnh quốc tế … song chúng ta vẫn mắc sai lầm chủ quan trong việc quản lý cán bộ ,phát triển LLSX .
Nhắc lại thấy rõ tác động tiêu cực của ý thức đối với vật chất ,thấy rõ tác động qua lại giữa kinh tế và chính trị trước khi có công cuộc đổi mới .Phép BCDV khẳng định rằng nếu ý thức là tiêu cực thì sớm muộn sẽ bị đào thải .
Trước tình hình kinh tế đó ,Đảng và nhà nước đã đi sâu nghiên cứu ,phân tích tình hình ,lấy ý kiến của nhân dân và đặc biệt là đổi mới tư duy về kinh tế .Đại hội Đảng VI đã rút ra kinh nghiệm lớn trong đó có:phải luôn luôn xuất phát từ thực tế ,tôn trọng và hoạt động theo quy luật khách quan .Đảng đã đề ra đường lối đổi mới ,mở ra bước ngoặt trong sự việc xây dựng CNXH ở nước ta .
Tại đại hội VI Đảng đã nghiêm khắc tự phê bình ,tìm ra đúng nguyên nhân khủng hoảng kinh tế xã hội và đã đề ra nhiều phương hướng nhiệm vụ trong việc đổi mới ,nhất là về kinh tế ,thực hiện chương trình kinh tế với 3 mục tiêu : lương thực -thực phẩm ,hàng tiêu dùng ,xuất khẩu ,hình thành nền kinh tế nhiêu thành phần ,thừa nhận kinh tế tư sản sản xuất hàng hoá và kinh tế tư bản tư nhân ,đổi mới cơ chế quản lý .Trong quá trình thực hiện nghị quyết của Đảng ,những diễn biến quốc tế đã ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế nước ta nhưng Đảng ,nhà nước và nhân dân đã nỗ lực khắc phục những khó khăn và tìm tòi khai phá ra đường lối đổi mới . Tại đại hội VII ta đã đánh giá tình hình kinh tế chính trị của nước ta sau hơn nhiều năm thực hiện đổi mới đã đạt được các bước tiến quan trọng .Tình hình hình chính trị ổn định nên nền kinh tế có điều kiện phát triển bươc đầu nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo sự quản lý của nhà nước ,LLSX huy động tốt hơn ,tránh được lạm phát ,đời sống của người dân được cải thiện ,cuộc khủng hoảng đã giảm bớt ,sinh hoạt dân chủ ngày càng phát huy .
Qua các dẫn chứng trên ta thấy sự tác động qua lại giữa vật chất và ý thức ,giữa kinh tế và chính trị ,nhờ có đường lối đổi mới ,nền kinh tế ngày càng phát triển ,cuộc sống của người dân ngày càng ổn định đã góp phần to lớn trong việc phát huy dân chủ trong xã hội . Ngoài mặt tích cực còn có tiêu cực như : lạm phát vẫn còn cao ,nhiều cơ sở đình đốn kéo dài ,lao động thiếu việc làm tăng lên ,và rong quản lý còn nhiều lúng túng sơ hở… đặc biệt đại hội cũng xác định "về quan hệ giữa đổi mới kinh tế và chính trị phải tập trung sức đổi mới kinh tế đáp ứng được nhu cầu cấp bách của nhân dân về việc làm ,và các nhu cầu xã hội khác ,xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của CNXH ,coi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị."
Đảng ta đã vận dụng đúng đắn mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới đất nước cả về kinh tế lẫn chính trị .Đại hội VIII đã chỉ ra các mục tiêu cần đạt được ,cụ thể là phương châm chỉ đạo trong 5 năm 1991-1995 ,trong đó nổi cộm nhất là phương châm kết hợp động lực kinh tế và động lực chính trị ,phương châm tiếp tục đổi mới đã đI vào chiều sâu với bước đi vững chắc ,lấy đổi mới làm nền để thúc đẩy các lĩnh vực khác phát triển.
Trong báo cáo của Đảng về công cuộc đổi mới đã nhận xét :"nét nổi bật là trong Đảng đã có sự đổi mới tư duy về kinh tế với tinh thần độc lập sáng tạo. Đảng ta cụ thể hoá và phát triển nghị quyết đại hội VII ,bước đầu hình thành hệ thống các quan điểm ,nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở nước ta ".
Sau đại hội ban chấp hành TƯ Đảng đã đề ra các nghị quyết giải quyết các vấn đề đối nội đối ngoại . Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì đã đánh giá cao trong trong quá trình khắc phục khủng hoảng kinh tế … khắc phục được nhiều tồn tại trong 3 năm qua .Lạm phát được đẩy lùi .Tổng sản phẩm GDP tăng bình quân 8.2% so với mức đề ra năm 91-95 là 5,5-5,6%.Sản xuất nông nghiệp tương đối toàn diện sản lượng lương thực 26% so với 5 năm trước đó ,tạo đIều kiện thuận lợi để cuộc sống đầy đủ ,phát triển được nhiều ngành nghề .Vấn đề lương thực đã được giải quyết tốt .Quan hệ kinh tế đối ngoại được mở rộng theo hướng đa dạng hoá ,thị trường xuất nhập khẩu được mở rộng , nguồn vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh ,tăng kim ngạch xuất khẩu 91-95 là 17 tỉ USD so với kế hoạch là 12-15 tỉ USD. Khoa học công nghệ có bước phát triển lớn phục vụ cho việc thực hiện đường lối chính sách của Đảng ,lĩnh vực văn hoá tinh thần được nâng cao ,đời sống nhân dân được cải thiện ,quốc phòng an ninh được giữ vững.
Hội nghị đại biểu toàn quốc chỉ nêu lên thành tựu tiếp tục giữ vững và củng cố ổn định chính trị ,mở rộng quan hệ đối ngoại ,tạo đIều kiện cho công cuộc xây dựng bảo vệ tổ quốc .
Như vậy , cũng thấy rõ tác động của kinh tế với chính trị và xã hội ,đối với công tác đối ngoại ,quốc phòng ,an ninh…đổi mới kinh tế nhưng các nhân tố chính trị xã hội ,đối ngoại…cũng tác động tích cực trở lại đối với kinh tế .Vận dụn đúng đắn các mối quan hệ biện chứng duy vật . tại hội nghị đại biểu toàn quốc đã vạch ra những điểm yếu kém ,vấn đề kinh tế như "nền kinh tế vẫn còn mang tính chất nông nghiệp lạc hậu ,công nghiệp nhỏ bé ,kết cấu hạ tầng kém phát triển,kinh tế tuy tăng trưởng khá nhưng năng suất chất lượng hiệu quả còn kém …" và vẫn còn những tồn tại về mặt văn hoá ,xã hội…để có những thay đổi tốt hơn ,Đảng đã đề ra những nhiệm vụ chủ yếu thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá ,hiện đại hoá ,chăm lo đến các vấn đề văn hoá xã hội , đảm bảo an ninh -quốc phòng, xây dựng nhà nước văn hoá của dân ,do dân và vì dân đổi mới chỉnh đốn đảng và củng cố mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân .
Sau đại hội TƯ Đảng (khoá VII) ra nghị quyết phát triển công nghiệp mới đến 2000 theo hướng công nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước.Cải cách nền hành chính nhà nước với nội dung của hội nghị TƯ lần thứ VIII ,có thể coi đã cụ thể hoá một bước cương lĩnh và chiến lược phát triển khoa họ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tr45 Y thuc.docx