MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
A- ĐẶT VẤN ĐỀ 2
B- NỘI DUNG TIỂU LUẬN 3
I/ Lý luận của chủ nghĩa Marx - Lenin về con người 3
1. Quan điểm triết học về con người trong lịch sử 3
2. Quan điểm về con người trong triết học Marx - Lenin 5
II/ Vấn đề nguồn nhân lực trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước 8
1. Lý thuyết về công nghiệp hoá, hiện đại hoá 8
2. Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay 10
3. Mục tiêu và phương hướng phát triển nguồn nhân lực nước ta 12
III/ Ý KIẾN BẢN THÂN 13
C- KẾT LUẬN 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO 16
16 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2336 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nguồn lực con người - Yếu tố quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại, các nhà triết học duy vật đã từng đưa ra quan niệm về bản chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật trong giới tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất. Tiêu biểu là quan niệm của Democrite về bản tính vật chất nguyên tử cấu tạo nên thể xác và linh hồn của con người. Đây cũng là tiền đề phương pháp luận của quan điểm nhân sinh theo đường lối Epicurus... Những quan điểm duy vật như vậy đã được tiếp tục phát triển trong nền triết học thời Phục hưng và Cận đại mà tiêu biểu là các nhà duy vật nước Anh và Pháp thế kỉ XVIII; nó cũng là một trong những tiền đề lý luận cho chủ nghĩa duy vật nhân bản của L.Feuerbach. Ông phê phán tính siêu tự nhiên, phi thể xác trong quan niệm triết học của Hegel. Feuerbach quan niệm con người là sản phẩm của tự nhiên, có bản năng tự nhiện, là con người sinh học trực quan, phụ thuộc vào hoàn cảnh. Ông đã sử dụng thành tựu của khoa học tự nhiên để chứng minh mối liên hệ không thể chia cắt của tư duy với những quá trình vật chất diễn ra trong cơ thể con người, song khi giải thích con người trong mối liên hệ cộng đồng thì Feuerbach lại rơi vào lập trường của chủ nghĩa duy tâm. Trong một phạm vi nhất định, đó cũng là một trong những tiền đề lý luận của quan niệm duy vật về con người trong triết học Marx.
Bên cạnh đó giác độ tiếp cận giả quyết các vấn đề triết học về con người trong nền triết học phương Tây có nhiều điểm khác với nền triết học phương Đông. Trong nền triết học Trung Hoa suốt chiều dài lịch sử trên hai ngàn năm cổ - trung đại, vấn đề bản tính con người là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Giải quyết vấn đề này, các nhà tư tưởng của Nho gia và Pháp gia đã tiếp cận từ các giác độ hoạt động thực tiễn chính trị, đạo đức của xã hội và đi đến những kết luận bản tính người là Thiện (Nho gia) và bản tính người là Bất Thiện (Pháp gia). Các nhà tư tưởng của Đạo gia, ngay từ Lão tử thời Xuân Thu, lại tiếp cận giải quyết vấn đề bản tính người từ giác độ khác và đi tới kết luận bản tính “tự nhiên” của con người. Sự khác nhau về giác độ tiếp cận và với những kết luận khác nhau về bản tính con người đã là tiền đề xuất phát cho những quan điểm khác nhau của các trường phái triết học này trong việc giải quyết các vấn đề về quan điểm chính trị, đạo đức và nhân sinh của họ.
Khác với nền triết học Trung Hoa, các nhà tư tưởng của các trường phái triết học Ấn Độ mà tiêu biểu là trường phái Đạo Phật lại tiếp cận từ giác độ khác, giác độ suy tư về con người và đời người ở tầm chiều sâu triết lý siêu hình (Siêu hình học) đối với vấn đề nhân sinh quan. Kết luận về bản tính Vô ngã, Vô thường và tính hướng thiện của con người trên con đường truy tìm sự Giác ngộ là một trong những kết luận độc đáo của triết học Đạo Phật.
Nhìn chung, các quan điểm triết họ trước Marx và ngoài Marxism có một hạn chế cơ bản là phiếm diện trong phương pháp tiếp cận lý giải các vấn đề triết học về con người, cũng do vậy trong thực tế lịch sử đã tồn tại lâu dài quan niệm trừu tượng về bản chất con người và những quan niệm phi thực tiễn trong lý giải nhân sinh, xã hội cũng như những phương pháp hiện thực nhằm giải phóng con người. Đó là kết quả của việc tuyệt đối hoá phần hồn thành con người trừu tượng của chủ nghĩa duy tâm, còn chủ nghĩa duy vật trực quan thì tuyệt đối hoá phần xác thành con người trừu tượng. Sinh học, tuy nhiên họ còn hạn chế, các quan niệm nói trên đều chưa chú ý đầy đủ đến bản chất con người. Những hạn chế đó đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện chứng của Marx - Lenin về con người.
2. Quan điểm về con người trong triết học Marx - Lenin
Triết học Marx đã thừa kế và khắc phục những mặt hạn chế của quan điểm về con người trong lịch sử triết học, đồng thời phát triển những quan điểm đó để đi tới quan điểm về con người hiện thực, con người thực tiễn cải tạo tự nhiên và xã hội với tư cách là con người hiện thực. Con người vừa là sản phẩm của tự nhiên và xã hội, đồng thời vừa là chủ thể cải tạo tự nhiên. Hay nói một cách khác chủ nghĩa Marx xem xét con người như một thực thể sinh học - xã hội.
Tiền đề vật chất đầu tiên quy định sự tồn tại của con người là giới tự nhiên. Cũng do đó, bản chất tự nhiên của con người bao hàm trong nó tất cả bản tính sinh học, tính loài của nó. Yếu tố sinh học trong con người quy định sự hình thành những hiện tượng và quá trình sinh lý trong con người là điều kiện đầu tiên quy định sự tồn tại của con người. Vì vậy, có thể nói: Giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con người”, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, là kết quả của quá trình phát triển và tiến hoá lâu dài của môi trường tự nhiên. Tuy nhiên con người không phải là một động vật thuần tuý như các động vật khác mà là một động vật có tính chất xã hội với nội dung văn hoá lịch sử của nó. Với phương pháp biện chứng duy vật triết học Marx nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện, cụ thể, trong toàn bộ tính hiện thực xã hội của nó, mà trước hết là lao động sản xuất ra của cái vật chất. “Có thể phân biệt con người với súc vật bằng ý thức, bằng tôn giáo, nói chung bằng bất cứ cái gì cũng được. Bản thân con người bắt đầu bằng sự tự phân biệt với súc vật ngay khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình - đó là bước tiến do tổ chức cơ thể của con người quy định. Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản xuất ra chính đời sống vật chất của mình”. Thông qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải biến giới tự nhiên: “Con vật chỉ sản xuất ra bản thân nó, còn con người thì tái sản xuất ra toàn bộ giới tự nhiên”. Con người chỉ có thể tồn tại được một khi con người tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu sinh học của mình. Lao động sản xuất là yếu tố quyết định sự hình thành con người và ý thức. Chính lao động đã quy định bản chất xã hội nên con người, quy định cái xã hội của con người và xã hội lại quy định sự hình thành cá nhân và nhân cách.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác nhau, nhưng thống nhất với nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật về sự phù hợp cở thể với môi trường, quy luật về trao đổi chất, về di truyền, biến dị, tiến hoá... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như hình thành tình cảm, khát vọng, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy định quan hệ xã hội giữa người với người. Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoà chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội. Mối quan hệ sinh học và xã hội là cơ sở để hình thành hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở, nhu cầu tái sản xuất xã hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biện chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh học và nhu cầu xã hội trong mỗi con người là thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải được “nhân hoá” để mang giá trị văn minh nhân loại, và đến lượt nó, nhu cầu xã hội không thể thoát ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau để tạo thành CON NGƯỜI, con người tự nhiên - xã hội.
Xuất phát từ quan điểm con người hiện thực, Marx đã cho thấy con người vượt lên thế giới loài vật trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ với xã hội và con người với chính bản thân con người. Cả ba mối quan hệ đó, suy đến cùng , đều mang tính chất xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người. Bởi vậy để nhấn mạnh bản chất xã hội của con người, K.Marx dã nêu lên luận đề nổi tiếng trong tác phẩm Luận cương về Feuerbach: “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội”. Luận đề trên khẳng định rằng, không có con người trừu tượng, thoát ly mọi điều kiện, hoàn cảnh lịch sử xã hội, con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại, quan hệ chính trị, kinh tế, quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội,...) con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình. Điều cần lưu ý là luận đề khẳng định bản chất xã hội không có nghĩa là phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người. Song, ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhật với mặt xã hội, ngay cả việc thực hiện những nhu cầu sinh vật ở con người cũng đã mang tính xã hội. Quan điểm bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội mới giúp cho chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô thiển về mặt tự nhiên, cái sinh vật ở con người.
Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con ngươi. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội. K.Marx đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và của giáo dục... cái học thuyết ấy quên rằng chính những con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân các nhà giáo dục cũng cần phải được giáo dục”. Trong tác phẩm Biện chứng của tự nhiên, F.Engel cũng cho rằng: “Thú vật cũng có một lịch sử, chúng là lịch sử nguồn gốc, của chúng và lịch sử phát triển dần dần của chúng cho tới trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không phải do chúng làm ra và trong chừng mực mà chúng tham dự vào việc làm ra lịch sử ấy thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng. Ngược lại, con người càng cách xa con vật, hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiên thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”. Như vậy, với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử xã hội. Thế giới loài vật dựa vào những điều kiện có sẵn của tự nhiên. Con người thì trái lại, thông qua hoạt động thực tiễn của mình đẻ làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục đích của mình. Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người, vừa là phương thức để làm biến đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Trên cơ sở nắm bắt quy luật của lịch sử xã hội, con người thông qua hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Không có hoạt động của con người thì cũng không tồn tại quy luật xã hội và do đó, không có sự tồn tại của toàn bộ lịch sử xã hội loài người.
Không có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối quan hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù hợp. Bản chất con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hoà các quan hệ xã hội”, con người có vai trò tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là củ thể sáng tạo. Thông qua đo, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù hợp. Có thể nói rằng, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sử sẽ quy định tương ứng (mặc dù không trùng khớp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
II/ Vấn đề nguồn nhân lực trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
1. Lý thuyết về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Mỗi phương thức sản xuất đều ra đời và tồn tại trên một cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng với nó. Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là một nền công nghiệp lớn hiện đại, trước hết là công nghiệp nặng có đủ khả năng trang bị kỹ thuật hiện đại cho công nghiệp và các ngành khác trong nền kinh tế quốc dân, nhằm không ngừng phát nền sản xuất lớn Xã hội Chủ nghĩa và cải thiện đời sống nhân dân.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện hoạt động kinh tế, dịch vụ và quản lý từ trạng thái sử dụng sử dụng sức lao động là chính sang trạng tahí sử dụng sức lao động kết hợp với kỹ thuật công nghệ hiện đại tạo ra năng suất lao động ngày càng cao.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là một tính quy luật để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một phương thức sản xuất là toàn bộ những tư liệu vật chất trong đó chủ yếu là công cụ sản xuất mà lao động trong xã hội sử dụng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của phương thức sản xuất trước tư bản là hết sức lạc hậu, chủ yếu là công cụ lao động thủ công. Trong Chủ nghĩa tư bản nền đại công nghiệp cơ khí hoá đã tạo cái cốt cho chủ nghĩa tư bản tồn tại. Nó khẳng định mình là một phương thức sản xuất thống trị trong lịch sử. Việt Nam quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn tư bản thiếu một tiền đề vật chất kỹ thuật mà chủ nghĩa tư bản để lại. Mặt khác Việt Nam là một nước có nền kinh tế kém phát triển, chưa có nền sản xuất lớn dựa trên nền tảng công nghiệp lớn. Do đó để xây dựng chủ nghĩa xã hội tất yếu nước ta phải công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá làm cho kinh tế nước ta dần đạt tới trình độ tiên tiến của thế giới. Thời đại ngày ngày nay cách mạng khoa học công nghệ trở thành lực lương sản xuất trực tiếp, nó vừa là nền tảng vừa là động lực của quá trình công nghiệp hoá. Đồng thời gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá sẽ tránh được nguy cơ tụt hậu xa về kinh tế giữa nước ta với các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước có nền kinh tế phát triển.
Hơn nữa công nghiệp hoá là cần thiết và có nhiều tác dụng. Đó là:
Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển cao dẫn đến năng suất lao động cũng cao.
Củng cố quan hệ sản xuất mới đảm bảo cho sự thắng lợi hoàn toàn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta.
Tạo ra những điều kiện cho sự phát triển văn hoá giáo dục. Bản thân sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đòi hỏi quần chúng phải có trình độ giác ngộ cách mạng, trình độ văn hoá, trình độ khoa học kỹ thuật ngày càng cao.
Tạo ra cơ sở cho việc phát triển kinh tế đối ngoại.
Để xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ phải có một nền công nghiệp hiện đại tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân, đảm bảo an ninh lương thực.
Nó là cơ sở vật chất cho củng cố an ning quốc phòng, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được bảo vệ vững chắc.
Thực chất công nghiệp hoá, hiện đại hoá là chuyển nền kinh tế từ lao động thủ công sang lao động cơ khí hay nói cách khác là tiến hành tranh bị kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế quốc dân. Không tiến hành cách mạng kỹ thuật thì không thể biến một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có nền sản xuất lớn. Nó sẽ là thay đổi đến tận gốc rễ lực lượng sản xuất của xã hội. Trước tiên phải làm biến đổi công cụ lao động - thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người và là cơ sở phân biệt các thời đại với nhau. Muốn vậy ta phải thực hiện nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ hiện đại trên thế giới. Một yếu tố không thể thiếu nữa, đó là ta phải phát huy được lợi thế so sánh. Ta đi sau cạnh tranh, thu hút, sử dụng công nghệ hiện đại của nước bạn thông qua việc chuyển giao công nghệ. Việc đó được tiến hành từ các nước khác chuyển sang nước ta bao gồm quyền sở hữu, quyền sử dụng, bao gồm cả phần cứng tức máy mọc thiết bị và phần mềm tức phương pháp và công nghệ. Nhờ đó cho phép ta khai thác được các nguồn lực trong nước và khắc phục được nguy cơ tụt hậu kinh tế cũng như thúc đẩy nền sau xuất hướng về xuất khẩu ra thị trường quốc tế.
Ngoài ra, ta phải xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu kinh tế là tổng thể các ngành, vùng kinh tế trong đó cơ cấu kinh tế ngành là quan trọng được cân đối về quy mô, về tỷ trọng, phù hợp điều kiện của tự nhiên và xu hướng phân công hợp tác lao động quốc tế. Trước hết, nó phải phù hợp với các quy luật khách quan và xu thế phát triển của khoa học công nghệ đồng thời phát huy được lợi thế so sánh trong nước. Để xây dựng một cơ cấu kinh tế hợp lý phải chuyển dịch cơ cấu gắn liền với phân công lại lao động xã hội theo một tính quy quy luật. Trong đó tỷ trọng lao động trong ngành công nghiệp gia tăng, nông nghiệp giảm còn dịch vụ tăng lên. Tuy nhiên phải luôn luôn đảm bảo tỷ trọng hợp lý giữa chúng một cách tương đối so với nhau. Mặt khác tỷ trọng lao động giản đơn, lao động cơ bắp giảm còn lao động phức tạp tăng lên.
Tỷ trọng (%) các khối kinh tế trong GDP
Ngành
Năm
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
1998
25,75
33,35
41
2010
17
40
43
Khi xác định chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đã chỉ rõ những nguồn lực làm cơ sở cho việc thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là: nguồn lực con người Việt Nam, nguồn lực tự nhiên (tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý,...), cở sở vật chất, tiềm lực khoa học kỹ thuật vốn có, các nguồn lực ngoài nước và kinh nghiệm quản lý. Trong đó vai trò và tầm quan trọng của nguồn nhân lực đối với sự phát triển và tăng trưởng ngày càng được khẳng định, trong tất cả các quốc gia trên thế giới và đặc biệt là Việt Nam. Ở nước ta, nguồn nhân lực còn được nhấn mạnh là yếu tố nội lực quan trọng nhất để xây dựng đất nước. Tuy nhiên, sức mạnh của nguồn nội lực này lại bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong đó giáo dục đào tạo đóng vai trò quyết định hàng đầu.
2. Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay
Dân số nước ta thuộc loại dân số trẻ và tốc độ tăng nguồn dân số đến độ tuổi lao động là rất cao, trong khi nền kinh tế chưa phát triển lại mất cân đối nghiêm trọng làm nảy sinh hai vấn đề: tăng năng suất lao động và giải quyết việc làm cho những người lao động trở nên hết sức bức thiết. Trong khi đó, khả năng giải quyết việc làm của ta còn rất hạn chế. Vì vậy, mâu thuẫn cung - cầu về số lượng nguồn nhân kực rất lớn, gây sức ép ngày càng nặng nề về lao động việc làm. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng di cư, gây nhiều xáo trộn về xã hội, môi trường, tác động nhiều đến cơ cấu vùng của nguồn nhân lực. Kết hợp vào đó là sự thiếu quản lý, thiếu kiến thức nên người di dân là lực lượng phá rừng, gây ô nhiễm môi trường ở cả vùng họ rời đi và nhiều vùng họ đến. Tình trạng thiếu hụt kỹ năng của người lao động rất rõ rệt. Lao động có tay nghề cao, công nhân kỹ thuật thiếu do đầu tư cho giáo dục đào tạo chưa đủ, cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, thiếu cơ sở định hướng, không xuất phát từ nhu cầu thị trường lao động. Đại bộ phận lao động nước ta chưa được đào tạo đầy đủ, số người đã qua đào tạo mới chỉ chiếm 10%, trong tổng số người lao động Việt Nam chỉ hơn 1,65% có trình độ cao đẳng trở lên, 30% tốt nghiệp trung học phổ thông, 50% chưa tốt nghiệp trung học cơ sở. Mặt khác mặt bằng dân trí còn thấp, số năm đi học của mỗi người dân từ 7 tuổi trở lên mới đạt bình quân 4,5 năm/người. Mặt khác, người lao động Việt Nam còn hạn chế về thể lực, sự phát triển về phương diện sinh lý và thế lực dường như còn chững lại, hơn nữa người lao động nước ta nói chung văn hoá còn kém, lao động quen theo kiểu sản xuất nhỏ lẻ và lao động giản đơn.
Cùng với việc chuyển sang nền kinh tế thị trường thực trạng đội ngũ cán bộ tri thức Việt Nam đặc biệt là tri thức cao đang đặt ra vấn đề được giải quyết, sự già hoá của đội ngũ trí thức, trong các ngành khoa học trọng yếu tuổi bình quân của tiến sỹ là 52,8; phó tiến sỹ là 48,1; giáo sư là 59,5; phó giáo sư là 56,4. Cấp viện trưởng là 55. Như vậy đến năm 2001 hơn 80% số người có học hàm, học vị hiện nay đã đến tuổi về hưu. Điều đó gây nên sự hụt hẫng cán bộ khoa học kế cận. Trong khi số người có học vấn cao giảm thì số sinh viên tốt nghiệp đại học và cao đẳng không tìm được việc làm lại tăng. Căn cứ vào kết quả điều tra của bộ Giáo dục và Đào tạo thì “năm 2000 cả nước có135 trường đại học, cao đẳng với hơn 73000 sinh viên chính quy tốt nghiệp thì đến năm 2001 - 2003 đã có 157 trường đại học, cao đẳng với gần 12200 sinh viên ra trường”. Kết quả cho thấy tỷ lệ chung của sinh viên có việc làm sau khi ra trường là 72,4% trong đó, khối kỹ thuật công nghiệp chiếm 79,43%; nông - lâm - ngư chiếm 71,55%; kinh tế - luật chiếm 74,8%; sư phạm chiếm 81,5%. Và theo số liệu của viện kinh tế phát triển thì sinh viên khôi kinh tế ra trường thất nghiệp hoặc làm trái nghề chiếm 87%.Đó chính là do tác động của mặt trái của nền kinh tế thị trường. Rõ ràng sự chậm cải tạo giáo dục và nội dung của đào tạo không theo kịp những đòi hỏi của người sử dụng đã dẫn đến sự lãng phí trong đầu tư cho giáo dục, lực lượng lao động oqr nước ta hiện nay rất hạn chế về chất lượng nhất là trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, kỹ năng lao động, thể lực và văn hoá lao động công nghiệp.
Chất lượng thì như vậy, lại kết hợp thêm việc phân bổ, sử dụng nguồn nhân lực bất cập, thiếu đồng bộ càng làm tăng thêm mâu thuẫn về cung - cầu nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng. Cơ cấu vùng miền chưa hợp lý, bình quân chung nước ta là 118 sinh viên/1 vạn dân, nhưng Tây Bắc là 17 sinh viên/1 vạn dân. Ở các vùng miền núi, vùng sâu vùng xa thừa lao động giản đơn nhưng lại thiếu nghiêm trọng lao động có trình độ, gây rất nhiều khó khăn cho việc phát triển về nhiều mặt ở các vùng này. Những nơi cần thì không có, còn những nơi đã có nhiều rồi như ở các thành phố lớn thì lại càng nhiều thêm gây ra một sự lãng phí rất lớn cho xã hội. Tỷ lệ giáo viên/ sinh viên còn cao dẫn đến giáo viên phải làm việc “chạy xô”
Điểm mạnh của nước ta là số người biết chữ cao so với nhiều nước trong khu vực hay các nước đang phát triển khác. Nguồn nhân lực nước ta có động lực học tập tốt, thông minh, tự tin cao, khéo léo, có thể thành giỏi nếu được giáo dục đào tạo tốt. Điểm yếu của nước ta về nguồn nhân lực chủ yếu là tri thức, nghiệp vụ kinh doanh, tiếp thị, buôn bán, quản lý và tri thức khoa học kỹ thuật cập nhật. Những hạn chế đó của nguồn nhân lực nước ta trong cơ chế thị trường và xu thế hội nhập phát triển rất cần được khắc phục càng sớm càng tốt bằng mọi biện pháp, khả năng vốn có của nước ta.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá khó có thể đạt được kết quả tôt nếu không có những công nhân yêu nước, ham học hỏi, cần cù lao động và sáng tạo,có tinh thần hợp tác, ý chí tự chủ vươn lên và lòng tự tôn dân tộc cao, không cam chịu nghèo nàn, lạc hậu, có hiểu biết và tôn trọng pháp luật, đạo lý, biết kết hợp hài hoà yếu tố trưyền thống và hiện đại... Điều mà chúng ta cần phải học tập nhiều nước đã đi trước ta một bước, ở các nước đó việc coi trọng giáo dục là quốc sách hàng đầu bởi vì sự yếu kém về trí tuệ, coi thường tài năng và đầu oác hẹp hòi, đố kỵ, thờ ơ trước tương lai của công đồng dân tộc sẽ là lực cản nguy hại đến tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Vì vậy “Sự phát triển người và giáo dục được coi là yếu tố quan trong to lớn đối với tiến bộ kinh tế”- Tư tưởng của Adam Smith.
3. Mục tiêu và phương hướng phát triển nguồn nhân lực nước ta
Phát triển toàn diện con người cần đạt tới những giá trị xã hội sau đây
Con người có bản lĩnh, lý tưởng, niềm tin và quyết tâm thực hiện sứ mệnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Con người cần có tác phong công nghiệp.
Con người có sức khoẻ cường tráng.
Có nhân cách đậm dà bản sắc dân tộc tiếp thu tinh hoa văn minh nhân loại, sống nhân ái, tình nghĩa.
Có đủ trí tuệ, đầu óc duy lý của thời đại và kỹ năng lao động lành nghề.
Có tinh thần công dân sống, học tập, làm theo pháp luật, thực hiện đúng quyền lợi và nghĩa vụ của mình.
Ngoài ra ta cần chú ý đến sụ công bằng trong giáo dục, chú ý đến vai trò của người thầy. Cần đổi mới nền giáo dục nước ta, vừa phù hợp hoàn cảnh riền của nước ta, vừa thống nhất chung với văn hoá và văn minh nhân loại. UNESCO đưa ra “Bốn trụ cột của giáo dục” thế kỷ XXI: Học để biết - Học để làm, chú ý tới học đi đôi với hành - Học cùng chung sống và sống với người khác - Học để tự khẳng định mình.
Trước hết phải khắc phục sự mất cân đối trong cơ cấu ngành học, bậc học của giáo dục đào tạo. Giáo dục mầm non có tầm quan trọng đặc biệt đứng từ góc độ chuẩn bị nền tảng cả về thể lực và trí lực cho nguồn nhân lực. Giáo dục phổ thông, đặc biệt là giáo dục tiểu học, theo kinh nghiệm của các nước đang phát triển, là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định các cơ hội và tăng trưởng kinh tế. Giáo dục đào tạo chuyên môn nghiệp vụ kỹ thuật ngoài ý nghĩa với tăng trưởng kinh tế còn đặc biệt quan trọng trong việc phát triển đón bắt, giảm nguy cơ tụt hậu. Ngoài ra, cần điều chỉnh kịp thời khoảng cách giữa các loại n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tiểu luận triết- Nguồn lực con người - Yếu tố quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.doc