Tiểu luận Nguyên nhân lạm phát 2010-2011 tại Việt Nam

MỤC LỤC

1. LỜI NÓI ĐẦU

2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ LẠM PHÁT .

2.1 Các khái niệm .

2.2 Phân loại .

2.3 Đo lường .

2.3.1 Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) .

2.3.2 Chỉ số giảm phát GDP .

2.4 một số khái niệm khác .

2.5 Nguyên nhân của lạm phát .

2.5.1 Lạm phát do cầu kéo .

2.5.2 Lạm phát do cầu thay đổi .

2.5.3 Lạm phát do chi phí đẩy .

2.5.4 Lạm phát do cơ cấu .

2.5.5 Lạm phát do xuất khẩu .

2.5.6 Lạm phát do nhập khẩu .

2.5.7 Lạm phát tiền tệ .

2.5.8 Lạm phát đẻ ra lạm phát .

3. LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM 2010-2011 .

3.1 Thực trạng lạm phát tại Việt Nam năm 2010-2011 .

3.2 Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam năm 2010 – 2011 .

3.2.1 Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế ở mức độ cao bằng mọi giá. .

3.2.2 Do tính quy luật về quan hệ cung cầu hàng hóa theo mùa trong năm. .

3.2.3 Do chính sách xã hội hoá học tập và giá một số mặt hàng do nhà nước quản lý định hướng giá sang cơ chế thị trường. .

3.2.4 Do thiên tai .

3.2.5 Do tác động của giá cả trên thị trường thế giới.

3.2.6 Việc phá giá đồng bạc Việt Nam (VNĐ) và xuất nhập khẩu.

3.2.7 Do tác động của quá trình đô thị hóa và phát triển cơ sở hạ tầng. .

3.2.8 Do tác động của lãi suất. .

3.2.9 Do biến động của giá vàng và diễn biến tâm lý của người dân. .

3.2.10 Nợ công và chi tiêu công quá mức. .

3.2.11 Do vấn đề tiền tệ. .

4. KẾT LUẬN

5. NGUỒN THAM KHẢO

pdf29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 14817 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nguyên nhân lạm phát 2010-2011 tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể tính chỉ số giá tiêu dùng cho các thời kỳ sau. CPI thường được tính hàng tháng và hàng năm. CPI còn được tính toán cho từng nhóm hàng hóa hoặc một số nhóm hàng hóa tùy theo mục đích sử dụng. 2.3.2 Chỉ số giảm phát GDP Là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực. Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Người ta tính chỉ số giảm phát GDP theo công thức sau: Chỉ số giảm phát GDP là một phương pháp để tính tỷ lệ lạm phát (phương pháp kia là dùng CPI). Chẳng hạn, tỷ lệ lạm phát năm 2011 theo chỉ số giảm phát GDP được tính theo công thức: 2.4 một số khái niệm khác  Nợ chính phủ, còn gọi là Nợ công hoặc Nợ quốc gia, là tổng giá trị các khoản tiền mà chính phủ thuộc mọi cấp từ trung ương đến địa phương đi vay. Việc đi vay này là nhằm tài trợ cho các khoản thâm hụt ngân sách nên nói cách khác, nợ chính phủ là thâm hụt ngân sách luỹ kế đến một thời điểm nào đó. Để dễ hình dung quy mô của nợ chính phủ, người ta thường đo xem khoản nợ này bằng bao nhiêu phần trăm so với Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). 9 Phân loại như sau: Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho vay ngoài nước). Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm) và nợ dài hạn (trên 10 năm). Các hình thức vay nợ: phát hành trái phiếu chính phủ, hoặc vay trực tiếp.  Chi tiêu công cộng là tổng hợp các khoản chi của chính quyền trung ương, chính quyền địa phương, các doanh nghiệp nhà nước và của toàn dân khi cùng trang trải kinh phí cho các hoạt động do Chính phủ quản lý Theo nghĩa hẹp: Chi tiêu công là các khoản chi của Chính phủ thực hiện thông qua ngân sách Nhà nước Hạn chế: - Khái niệm này không phản ánh được các tác động toàn diện của Chính phủ đối với nền KTQD. - Có nhiều hoạt động do cả Chính phủ và khu vực tư nhân đóng góp nhưng được đặt dưới sự quản lý của Chính phủ. Tuy nhiên chi tiêu công cộng chỉ phản ánh được một phần cho chi phí hoặc dịch vụ đó → không thấy được hết lợi ích của hoạt động – dịch vụ đó mang lại cho xã hội - Chi tiêu theo nghĩa hẹp không phản ánh được các khoản chi tiêu ngoài Ngân sách Nhà nước và các khoản công nợ bất thường. Theo nghĩa rộng: Chi tiêu công là tất cả các khoản chi tiêu của Chính phủ, người dân, các thành phần kinh tế khác để thực hiện quy định của Chính phủ hoặc để cung cấp hàng hóa – dịch vụ do chính phủ quản lý. - Ưu điểm: Khắc phục được 3 hạn chế trên. - Nhược điểm: Khó khăn trong việc xác định. 2.5 Nguyên nhân của lạm phát 2.5.1 Lạm phát do cầu kéo Kinh tế học Keynes cho rằng nếu tổng cầu cao hơn tổng cung ở mức toàn dụng lao động, thì sẽ sinh ra lạm phát. Điều này có thể giải thích qua sơ đồ AD-AS. Đường AD dịch sang phải trong khi đường AS giữ nguyên sẽ khiến cho mức giá và sản lượng cùng tăng. Trong khi đó, chủ nghĩa tiền tệ giải thích rằng do tổng cầu cao hơn tổng cung, 10 người ta có cầu về tiền mặt cao hơn, dẫn tới cung tiền phải tăng lên để đáp ứng. Do đó có lạm phát. 2.5.2 Lạm phát do cầu thay đổi Giả dụ lượng cầu về một mặt hàng giảm đi, trong khi lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, nghĩa là lạm phát. 2.5.3 Lạm phát do chi phí đẩy Hay lạm phát do cung xảy ra khi chi phí sản xuất gia tăng, hoặc khi năng lực sản xuất của quốc gia giảm sút. Nếu tiền công danh nghĩa tăng lên, giá nguyên liệu, thuế,… thì chi phí sản xuất của các xí nghiệp tăng. Các xí nghiệp vì muốn bảo toàn mức lợi nhuận của mình sẽ tăng giá thành sản phẩm. Mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng tăng. 2.5.4 Lạm phát do cơ cấu Ngành kinh doanh có hiệu quả tăng tiền công danh nghĩa cho người lao động. Ngành kinh doanh không hiệu quả, vì thế, không thể không tăng tiền công cho người lao động trong ngành mình. Nhưng để đảm bảo mức lợi nhuận, ngành kinh doanh kém hiệu quả sẽ tăng giá thành sản phẩm. Lạm phát nảy sinh vì điều đó. 2.5.5 Lạm phát do xuất khẩu Xuất khẩu tăng dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung, hoặc sản phẩm được huy động cho xuất khẩu khiến lượng cung sản phẩm cho thị trường trong nước giảm khiến tổng cung thấp hơn tổng cầu. Lạm phát nảy sinh do tổng cung và tổng cầu mất cân bằng. 2.5.6 Lạm phát do nhập khẩu Sản phẩm không tự sản xuất trong nước được mà phải nhập khẩu. Khi giá nhập khẩu tăng (do nhà cung cấp nước ngoài tăng giá như trong trường OPEC quyết định tăng giá dầu, hay do đồng tiền trong nước xuống giá) thì giá bán sản phẩm đó trong nước cũng tăng. Lạm phát hình thành khi mức giá chung bị giá nhập khẩu đội lên. 2.5.7 Lạm phát tiền tệ Cung tiền tăng (chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền ngoại tệ khỏi mất giá so với trong nước; hay chẳng hạn do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước) khiến cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên là nguyên nhân gây ra lạm phát. 11 Lạm phát loại này nguyên nhân là do lượng tiền trong nền kinh tế quá nhiều, vượt quá mức hấp thụ của nó, nghĩa là vượt quá khả năng cung ứng giá trị của nền kinh tế . Có thể do ngân hàng trung ương lưu thông lượng tiền quá lớn trong nền kinh tế bằng các nghiệp vụ thị trường mở hay chính sách tiền tệ lới lỏng. Khi lượng tiền lưu thông quá lớn, ví dụ trong tay bạn có nhiều hơn 100 triệu..., thì sự tiêu dùng theo đó mà tăng rất lớn theo xã hội. Áp lực cung hạn chế dẫn tới tăng giá trên thị trường, và do đó sức ép lạm phát tăng lên. 2.5.8 Lạm phát đẻ ra lạm phát Khi nhận thấy có lạm phát, cá nhân với dự tính duy lý đó là tâm lý dự trữ, giá tăng lên người dân tự phán đoán, tự suy nghĩ là đồng tiền không ổn định thì giá cả sẽ tăng cao tạo nên tâm lý dự trữ đẩy mạnh tiêu dùng hiện tại tổng cầu trở nên cao hơn tổng cung hàng hóa sẽ càng trở nên khan hiếm kích thích giá lên vậy là gây ra lạm phát. Trên lý thuyết thì như vậy, còn trên thực tế thì thế nào ? Nguyên nhân lạm phát có đơn giản là do cầu kéo, chi phí đẩy … hay không ? Hay còn nhiều nguyên nhân khác hoặc là sự hỗn hợp của nhiều nguyên nhân với nhau ? Hãy cùng chúng tôi nhìn lại lạm phát 2010 và 9 tháng đầu năm 2011 để cùng phân tích về gốc rễ, về nguyên nhân lạm phát. Để có thể đưa ra chính sách, biện pháp tốt nhất điều khiển kinh tế vĩ mô của Việt Nam hiện nay. Lạm phát ở nước ta do nhiều nguyên nhân, bao gồm cầu kéo, chi phí đẩy và một số yếu tố đặc thù tác động làm gia tăng các yếu tố cầu kéo và chi phí đẩy. Nhưng nguyên nhân chủ yếu chính là cầu kéo (tổng mức đầu tư vượt quá tiết kiệm, tín dụng, tổng phương tiện thanh toán tăng nhanh...). Nhập siêu cũng được cho là có tác động làm cho lạm phát cao. Một nguyên nhân khá quan trọng và nhạy cảm khiến lạm phát tăng cao, đó là do lạm phát tâm lý trong suốt một thời kỳ dài. Chúng ta hãy cùng tìm hiểu những nguyên nhân để nhận định đúng về vấn đề này: 12 1.36 1.96 0.75 0.14 0.27 0.22 0.06 0.23 1.31 1.05 1.86 1.98 0 0.5 1 1.5 2 2.5 Jan-10 Feb-10 Mar-10 Apr-10 May-10 Jun-10 Jul-10 Aug-10 Sep-10 Oct-10 Nov-10 Dec-10 CPI năm 2010 (%) 3. LẠM PHÁT TẠI VIỆT NAM 2010-2011 3.1 Thực trạng lạm phát tại Việt Nam năm 2010-2011 Năm 2010 Tổng cục thống kê Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, trong cả năm 2010, chỉ số giá tiêu dùng tăng 11,75% so với tháng 12 năm 2009. Con số 11,75% tuy không quá bất ngờ nhưng vẫn vượt so với chỉ tiêu được Quốc hội đề ra hồi đầu năm gần 5%. Tính chung trong cả năm 2010, giáo dục là nhóm tăng giá mạnh nhất trong rổ hàng hóa tính CPI (gần 20%). Tiếp đó là hàng ăn (16,18%) và nhà ở - vật liệu xây dựng (15,74%). Bưu chính viễn thông là nhóm duy nhất giảm giá với mức giảm gần 6% trong năm 2010. Năm 2011 Tổng sản phẩm trong nước (GDP) chín tháng năm 2011 ước tính tăng 5,76% so với cùng kỳ năm 2010. CPI cả nước tháng 10 tăng 21.59% so với cùng kỳ năm trước và tăng 17.05% so với tháng 12 năm 2010. Tính chung 10 tháng, CPI tăng 18.5% so với cùng kỳ năm trước. Vậy nguyên nhân lạm phát cao như vậy là từ những yếu tố nào ? 1.74 2.09 2.17 3.32 2.21 1.09 1.17 0.93 0.82 0.36 0 0.5 1 1.5 2 2.5 3 3.5 CPI 10 tháng đầu năm 2011 (%) 13 3.2 Nguyên nhân lạm phát tại Việt Nam năm 2010 – 2011 3.2.1 Nhà nước chủ trương phát triển kinh tế ở mức độ cao bằng mọi giá. 08/11/2010 chính phủ đặt ra những chỉ tiêu phát triển không thực tế: 7%-7.5% mỗi năm trong 5 năm tới và 7%-8% trong 2011-2020. Trong khi đó, kinh tế Việt Nam trải qua nạn lạm phát 11.75% vào năm 2010 cao hơn tất cả những nước láng giềng. Nhà nước không thể nhắm vào mức phát triển kinh tế cao trong khi cần phải chế ngự nạn lạm phát. Để đạt được mục tiêu phát triển, chính phủ gia tăng chương trình đầu tư công qua các doanh nghiệp nhà nước và hậu quả là làm tăng mức cầu về tín dụng. Do đó có thể nói rằng lạm phát hiện nay phần lớn do sức cầu kéo. và mãi đến 18/10/2011, Chính phủ đề xuất giảm xuống còn 6-6.5% để ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô. 3.2.2 Do tính quy luật về quan hệ cung cầu hàng hóa theo mùa trong năm. Năm 2010 Nhìn vào diễn biến chỉ số CPI giữa các tháng trong năm 2010( hình ở trên) cho thấy, chỉ số CPI tăng cao chủ yếu vào đầu năm và cuối năm, tập trung là vào dịp trước và sau Tết Dương lịch cũng như Tết Nguyên đán. Đây là khoảng thời gian cầu tăng mạnh do tiêu dùng cuối năm, dịp Tết, nhưng cung hạn chế do thời tiết, do mùa vụ của sản xuất và một số yếu tố khác. Riêng tháng 12 – 2010 chỉ số CPI tăng cao nhất, tới gần 2%. Đóng góp chủ yếu vào con số này là mức tăng giá ở khu vực và dịch vụ ăn uống, tăng 3,31% (riêng lương thực tăng tới 4,67%). Cũng trong tháng này, giá nhà ở và vật liệu xây dựng cũng tăng mạnh, tới 2,53%. Với năm 2011 Nhìn trên các chỉ số cụ thể từng tháng, CPI năm 2011 có 3 điểm đáng lưu ý. Thứ nhất, đây là năm có mức độ tăng giá trong một tháng rất cao, tháng 4 “vọt” lên mức 3,32%. Thứ hai, ngoài mức tăng đột biến, khoảng cách giữa tháng tăng cao nhất và tháng giảm thấp nhất cũng rất lớn, lên đến 2.96% (so sánh mức tăng 3,32% với mức giảm 0.36%). Thứ ba, diễn biến chỉ số giá năm nay phá vỡ tính chu kỳ của các năm trước đó. Trong khi những năm trước, biểu đồ chỉ số giá diễn biến theo hình parabol ngược, tức là tăng cao ở những tháng đầu năm và cuối năm dương lịch, tăng thấp hoặc giảm vào những tháng đầu quý 2 và khá ổn định những tháng giữa năm, thì năm nay có sự đột biến mạnh trong quý I và giữa quý II, sau đó giảm tốc mạnh mẽ những tháng cuối năm. Nếu để ý kỹ ta thấy rất giống diễn biến CPI năm 2008. 14 2.38 3.56 2.99 2.2 3.91 2.14 1.13 1.56 0.18 -0.19 -0.76 -0.68 -1 0 1 2 3 4 5 tháng 1 tháng 2 tháng 3 tháng 4 tháng 5 tháng 6 tháng 7 tháng 8 tháng 9 tháng 10 tháng 11 tháng 12 CPI NĂM 2008 Tổng cục thống kê 3.2.3 Do chính sách xã hội hoá học tập và giá một số mặt hàng do nhà nước quản lý định hướng giá sang cơ chế thị trường.  Chính phủ cho phép điều chỉnh mức thu học phí từ tháng 9 và tháng 10-2010. Bước vào năm học mới, nhu cầu mua sắm đồ dùng học tập cùng với việc thực hiện lộ trình xã hội hóa về học phí, phần lớn UBND các tỉnh đã điều chỉnh tăng học phí lên mức khá cao, dẫn đến chỉ số giá của nhóm giáo dục tăng mang tính đột biến. Năm 2010, đồ dùng học tập, học phí... là nhóm hàng tăng giá cao nhất với mức tăng 19,38%...  Việc thực hiện lộ trình giá thị trường đối với một số hàng hóa, dịch vụ như:  Điều chỉnh tăng giá điện từ ngày 1-3-2010;  Tăng giá nước sinh hoạt;  Xăng dầu: thực hiện ba lần điều chỉnh tăng giá trong năm 2010. Tăng đột biến từ 16.400đ lên 19.300đ và lên 21.300đ trong năm 2011.  Tăng giá bán than.  Tăng mức lương cơ bản. Cụ thể: Theo Nghị Quyết số 11/NQ-CP ban hành ngày 24/2/2011, nhà nước cho phép gia tăng giá xăng dầu trong nước cho phù hợp với giá xăng dầu thế giới và giá điện trong nước theo cơ chế thị trường. Tăng giá điện và xăng ảnh hưởng đến tất cả mọi lãnh vực kinh tế và trực tiếp làm nạn lạm phát trầm trọng thêm. Đây là một hiện tượng chi phí đẩy. 15 SO SÁNH GIÁ ĐIỆN 2009 – 2010 (Theo báo Tuổi trẻ online(27/02/2010)) Điện ở Việt Nam cũng được chính phủ bao cấp lâu nay. Giá thành cao hơn giá bán. Giá điện trung bình tại Việt Nam hiện nay là 5.2 cent / kWh (tính theo USD), chỉ bằng một nửa so với giá điện của các nước trong khu vực. Chi phí sản xuất ra 1kWh điện trung bình từ 7 đến 12 cent. Việc hủy bỏ bao cấp là cần thiết và nhà nước đã cho phép tăng giá điện 15.3% bắt đầu có hiệu lực vào tháng 3. Và mặc dù đã được điều chỉnh tăng giá điện vào đầu năm 2011, nhưng do thiếu nợ chồng chất hàng ngàn tỉ đồng nên Tập đoàn Điện lực VN (EVN) vẫn tiếp tục đề xuất tăng giá lần hai, với mức dự kiến giá điện sẽ tăng thêm 11% vào tháng 11. Đây cũng là một quyết định không hợp thời vì Việt Nam đang phải đối phó với nạn lạm phát cao. BẢNG GIÁ NƯỚC 2010 – 2011 – 2012 – 2013 Theo báo Tuổi trẻ online(27/02/2010) 16 450 590 -500 -500 410 2900 2000 -500 -1000 -500 0 500 1000 1500 2000 2500 3000 3500 BIẾN ĐỘNG GIÁ XĂNG 2010-2011 Việc tăng giá xăng là một việc không tránh được vì giá xăng dầu trên thế giới tăng và Việt Nam là một nước nhập cảng xăng dầu nhiều hơn gấp bội lượng xăng dầu xuất khẩu. Việc điều chỉnh giá xăng dầu được quy định theo Nghị Định 84/2009 của nhà nước về kinh doanh xăng dầu. Theo nghị định này giá cơ sở được tính theo công thức sau đây: Giá CIF (bao gồm giá xăng dầu thế giới, phí bảo hiểm và chi phí vận chuyển đến Việt Nam) + Thuế, phí + Chi phí kinh doanh định mức (600 đồng/lít) + Lợi nhuận định mức (300 đồng/lít) + Mức trích quỹ bình ổn giá (300 đồng/lít). Tuy nhiên, công thức này không áp dụng mạnh mẽ trong thời gian qua cho đến gần đây. Vì ngân sách quốc gia thiếu hụt nghiêm trọng cộng thêm kinh tế bất ổn nói chung mà nhà nước đã có quyết định không hợp thời là tăng giá xăng liên tục. Lần tăng 30% mới nhất đã đưa giá xăng lên đến 21,300 VN/lít trong tháng 3. Cũng vào dịp này giá dầu diesel tăng 24%. Theo vnexpress.net 0 200,000 400,000 600,000 800,000 1,000,000 1,200,000 1,400,000 1/5/2009 1/1/2010 1/5/2010 1/1/2011 . 5/2011 650,000 730,000 800,000 830,000 1,400,000 Lương tối thiểu 17 3.2.4 Do thiên tai Lúa ở miền Bắc bị sâu bệnh đặc biệt là bệnh rầy. Tiếp đến là vụ Đông ở miền Bắc bị khô hạn nặng, rét đậm kéo dài. Miền Trung và Tây Nguyên bị bão lụt gây thiệt hại nặng nề nhất từ hàng chục năm qua, mùa màng vừa bị thiệt hại, thức ăn và vật tư nông nghiệp, máy móc thiết bị nông nghiệp bị mất hay hư hỏng. Dịch cúm gia cầm, bệnh dịch lở mồm long móng… Giá điện, phân bón, thức ăn chăn nuôi, xăng dầu, lãi suất vốn vay và chi phí vốn vay tăng, chi phí đầu vào tăng. Trong năm 2010, giá bán lẻ thức ăn chăn nuôi đã tăng tới 14 lần, riêng từ 15/9/2010 đến cuối tháng 12/2010 tăng tới 9 lần. Giá thức ăn chăn nuôi tháng 1/2010 còn ở mức 187.500 đồng/bao loại 25 kg, đến tháng 12/2010 đã tăng lên 264.000 đồng/kg. Giá đầu vào của thức ăn chăn nuôi tăng dẫn đến giá thành sản phẩm từ chăn nuôi tăng theo, thêm vào đó chăn nuôi bị dịch bệnh, bị thua lỗ, quy mô chăn nuôi bị thu hẹp, nguồn cung ra thị trường bị hạn chế..., càng làm cho giá tăng lên. Cũng do chi phí đầu vào tăng cao và hạn hán nặng, rét đậm kéo dài ở phía Bắc, nên nhiều vùng trồng rau màu ven các đô thị lớn thu hẹp diện tích gieo trồng, nguồn cung giảm. 3.2.5 Do tác động của giá cả trên thị trường thế giới. Sau khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhiều quốc gia đã lâm vào cảnh nợ công tăng cao và thất nghiệp gia tăng, nhiều năm liền đã sử dụng chính sách tiền tệ nới lỏng để kích hoạt cho nền kinh tế. Đặc biệt với nền kinh tế lớn nhất thế giới, khi Chính phủ Mỹ liên tục đổ tiền ra, cùng với chính sách hạ thấp lãi suất cơ bản xuống còn 0,25%/năm thì giá trị đồng đô la cũng liên tục “rơi” mạnh xuống so với các đồng tiền mạnh khác - một biểu hiện cụ thể của cuộc chiến tiền tệ, gây hiệu ứng đến toàn cầu và tạo áp lực tăng giá vàng, bạc, hàng hoá tiêu dùng khác tính bằng đồng đô la Mỹ. Áp lực lạm phát do đó lại gia tăng, nhất là với đồng đô la Mỹ, cứ 3 đồng đưa vào 18 lưu thông thì có tới gần 2 đồng lưu thông ở ngoài lãnh thổ Mỹ. Nếu tiếp tục tăng nhập khẩu từ những nền kinh tế có đồng tiền giảm giá thì nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam lại phải “nhập khẩu lạm phát” và/hoặc gây ách tắc cho xuất khẩu đất nước. Thiên tai xảy ra nặng nề tại nhiều nước, nhất là trong khu vực như Trung Quốc, Pakistan, Thái Lan, Ấn Độ..., cộng với tình hình thời tiết khắc nghiệt tại nhiều quốc gia khác làm cho sản xuất nông nghiệp bị thiệt hại nghiêm trọng, dẫn đến lượng cung cầu nhiều mặt hàng nông sản thực phẩm mất cân đối, cung giảm, cầu tăng. Giá thế giới tăng, giá xuất khẩu các mặt hàng tương ứng của Việt Nam tăng và giá thu mua trong thị trường nội địa cũng tăng. Bình quân 8 tháng năm 2011, giá cả hàng hóa chung thế giới đã tăng 32,88% so với cùng kỳ năm 2010, cao hơn mức tăng của năm 2010 và 2009, trong khi cán cân thương mại thâm hụt ở mức lớn và lạm phát các quốc gia có thương mại lớn với Việt Nam đang gia tăng như lạm phát tháng 8-2011 của Trung Quốc, Hàn Quốc, Mỹ, EU là 6,2%, 5,3%, 3,8% và 2,9% cao hơn nhiều so với mức 3,5%, 2,6%, 1,1% và 2,0% của tháng 8-2010. Giá nông sản, nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi, phân bón, thuốc trừ sâu, hóa chất khác phục vụ nông nghiệp và thuốc thú y... trên thị trường thế giới tăng khá cao. Riêng giá cà phê tăng lên cao nhất trong 16 năm gần đây. Giá bông tăng tới 60- 70% so với cuối năm 2009. Giá cao su, hồ tiêu, điều, gạo, đường thô, tinh bột sắn, hạt điều, chè, mặt hàng thủy sản chế biến... cũng tăng mạnh. Riêng giá mủ cao su Trung Quốc mua của Việt Nam tăng gấp hơn 2 lần so với năm 2009. Chính vì vậy hoạt động mua gom ngay từ đầu mối các mặt hàng: mủ cao su tự nhiên, lợn hơi, thủy, hải sản, đường... của thương nhân Trung Quốc với giá cao và khối lượng lớn tại nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hoá của Việt Nam, càng tác động đến cung cầu, đến tâm lý và tác động đến giá cả các mặt hàng đó. Cùng với diễn biến chung của giá cả thị trường thế giới thì tình trạng đầu cơ mặt hàng nông sản thực phẩm tại Trung Quốc cũng đã tác động đáng kể đến giá cả thị trường nước ta. Giá dầu thô trên thị trường thế giới năm 2010-2011 biến động dữ dội làm cho giá xăng dầu trong nước tăng lên đột biến. Các mặt hàng khác có liên quan đến dầu mỏ như: khí đốt, gas, hóa chất, hạt nhựa, nhựa đường, than đá, chất dẻo, phân bón... cũng tăng khá cao. Một số mặt hàng nguyên liệu khác trên thị trường thế giới cũng tăng, như: sắt 19 thép, đồng, nhôm, kẽm,... nhóm mặt hàng kim loại nói chung trong năm 2010-2011 tăng khá cao. Các mặt hàng khác như: sữa bột, thuốc chữa bệnh, vật tư và dụng cụ y tế... trên thị trường thế giới cũng biến động đáng kể về giá. 3.2.6 Việc phá giá đồng bạc Việt Nam (VNĐ) và xuất nhập khẩu. Trong năm 2010 tỷ giá trên thị trường tự do tăng trên 10% và tỷ giá giao dịch của các tổ chức tín dụng (TCTD) đối với khách hàng tăng 5,9%. Tỷ giá chính thức từ cuối năm 2009 đến hết năm 2010 được ngân hàng nhà nước (NHNN) điều chỉnh tăng hai lần. Riêng đợt điều chỉnh ngày 18/8/2010, tỷ giá bình quân liên ngân hàng giữa Đồng Việt Nam và Đô la Mỹ tăng 2,1%, từ 18.544 VND/USD, lên mức 18.932 VND/USD. Mục tiêu của việc điều chỉnh nhằm khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập siêu. Trong 15 tháng vừa qua, Việt Nam đã phá giá VNĐ tất cả 4 lần và trong khoảng thời gian này trị giá của VNĐ đã giảm tổng cộng khoảng 20% so với đồng US dollar (USD). Trong lần thứ tư xẩy ra vào ngày 11/2/2011, VNĐ sụt giá 9.3% so với USD. Hối suất chính thức của VNĐ tăng từ 18,932 lến đến 20,693 cho một USD. NHNN quyết định phá giá VNĐ là để giảm bớt sự chênh lệch giữa hối suất chính thức và hối suất chợ đen, đôi khi sự cách biệt lên đến 9% và làm giảm sự khan hiếm ngoại tệ. Sự phá giá VNĐ cũng giúp tăng xuất khẩu và giảm chênh lệch cán cân thương mai vì làm giảm chi phí sản xuất trong nước. Tuy nhiên, đồng Việt Nam mất giá cũng làm tăng lạm phát vì giá sản phẩm và nguyên liệu nhập khẩu sẽ gia tăng tính theo VNĐ. 20 Đầu tư nhiều, trong khi nền kinh tế lại khá mở nên Việt Nam buộc phải nhập khẩu nhiều để phục vụ đầu tư. Đó cũng chính là lý do khiến nhập siêu cũng được cho là có tác động làm cho lạm phát cao(9 tháng năm 2011, thâm hụt thương mại 7,59 tỷ USD) Việc tỷ giá tăng tạo sức ép lên giá bán lẻ xăng dầu thị trường trong nước. Đặc biệt là giá bán lẻ các mặt hàng khác nhập khẩu từ nước ngoài hay có phụ tùng, nguyên vật liệu nhập khẩu, như: linh kiện máy tính, đồ điện tử, điện lạnh, hoá chất, phân bón, thức ăn chăn nuôi, thuốc thú y, dược phẩm, thuốc chữa bệnh và vật tư y tế, nguyên liệu hàng dệt may và giày da, vật liệu xây dựng cao cấp, ô tô và phụ tùng ô tô, xe gắn máy và phụ tùng xe gắn máy, thiết bị máy móc và phương tiện khác, thiết bị văn phòng, đồ dùng gia đình cao cấp…cũng tăng theo biến động tỷ giá. Trong đó rõ nét nhất là giá bán ô tô, xe gắn máy thị trường trong nước. Các mặt hàng nông sản thực phẩm khác Việt Nam có kim ngạch xuất khẩu lớn cũng có biến động lớn. Cùng với sự giảm giá trị đối ngoại của đồng nội tệ (phá giá nội tệ và/hoặc để tỷ giá tăng) thì nguy cơ lạm phát kép là hiện hữu: lạm phát từ bên trong và lạm phát nhập vào từ bên ngoài giống như cuối năm 2007 và năm 2008. Cần nhớ lại nền kinh tế của nước ta suốt hơn 20 năm qua (trừ duy nhất năm 1992 có xuất siêu tuy chỉ được vài chục triệu USD), liên tục là nền kinh tế nhập siêu, trong khi tỷ giá hầu như không đi xuống mà chỉ có xu hướng trườn ngang và đi lên theo chiều giảm giá trị của đồng nội tệ để theo đuổi chiến lược hướng về xuất khẩu, nhưng lại hóa ra chủ yếu làm đắt hóa hàng nhập vào trong nước vì hơn 70% giá trị hàng xuất khẩu của nước ta là hàng gia công, lắp ráp có “ruột” và công nghệ nhập vào từ nước ngoài. Do đó, nhập siêu ở nước ta đồng nghĩa với nhập khẩu lạm phát và làm tăng nợ nước ngoài qui đổi. Những ngày qua do tăng cường kiểm soát tình trạng quản lý ngoại hối bị buông lỏng trong thời gian dài, đã có tác dụng kéo tỷ giá thị trường tự phát về sát thị trường chính thức, nhưng tính bền vững chưa được nhìn thấy rõ từ cơ cấu ngoại thương và cơ chế thị trường. Nếu có bất ổn xẩy ra như triển vọng tăng trưởng xấu đi, thất nghiệp gia tăng và dòng vốn ngoại chảy ngược ra, đồng nội tệ sẽ lại mất giá mạnh, khi đó sẽ tác động tăng lạm phát cao hơn vì phải bỏ ra nhiều nội tệ hơn để có một đồng ngoại tệ. 3.2.7 Do tác động của quá trình đô thị hóa và phát triển cơ sở hạ tầng. Trong xu hướng đô thị hóa và phát triển cơ sở hạ tầng, diện tích đất đai tiếp tục bị thu hẹp. Các dự án nhà ở, khách sạn, du lịch sinh thái, sân golf, khu công nghiệp, đường giao thông... Việc thu hồi đất nông nghiệp, đặc biệt là đất canh tác màu mỡ của người dân ở ven các khu đô thị, làm cho diện tích đất trồng trọt giảm, mặt khác, người dân có 21 tiền từ giải phóng mặt bằng, đền bù tài sản và hoa màu trên đất nên tăng tiêu dùng. Mặt khác, tình trạng đó làm hạn chế quy mô sản xuất nông nghiệp, giảm nguồn cung ứng nông sản ra thị trường. Xu hướng nói trên diễn ra trong nhiều năm qua, nhưng càng được đẩy mạnh và mở rộng trong năm 2010, nên tác động đáng kể đến giá cả. Cũng do quá trình đô thị hóa, giá thuê nhà trong năm 2010 bình quân tăng trên 20%, nhất là giá nhà cho người có thu nhập thấp và trung bình thuê, như sinh viên, người lao động... Giá nhà đất ở khu vực Hà Nội và một số tỉnh phía Bắc tăng từ 30% - 60% tùy theo khu vực, dự án và vị trí. Nhu cầu xây dựng tăng, tác động đến giá cả mặt hàng vật liệu xây dựng, đặc biệt là các mặt hàng có tỷ lệ tăng khá cao là hàng nhập ngoại hay nguyên liệu nhập ngoại, như thép và phôi thép, sơn nhà, nhôm, kính cao cấp và các loại vật liệu khác.... 3.2.8 Do tác động của lãi suất. Tình trạng vòng “luẩn quẩn”: Tổ chức tín dụng thiếu tiền vốn so với cầu tín dụng phải huy động với mức cao hơn mức trần Nhà nước quy định dẫn đến lãi suất cho vay cũng tăng, trong khi thị trường thì thừa tiền để tiêu dùng hàng hoá hợp thị hiếu, làm cho tiền trong lưu thông đổ vào lĩnh vực phi sản xuất, không qua ngân hàng, đọng lại ở thị trường bất động sản rộng lớn nhưng lại bị “đóng băng” do giá cao chơi vơi, chỉ những “đại gia” mới s n tiền để sở hữu những vị trí đẹp bằng mọi giá. Thiếu thanh khoản cục bộ đã “thổi” lãi suất thị trường liên ngân hàng lên mức khá cao. Lãi suất qua đêm thị trường liên ngân hàng tạo thành xu hướng đi lên, từ quanh mức 10,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnguyennhanlamphat20102011.pdf
Tài liệu liên quan