Tiểu luận Nguyên tắc thế giới quan trong nhận thức của triết học Mác, ý nghĩa và liên hệ với thực tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hiện nay

Kế họach 5 năm 1981-1985 do Đại hội đề ra đã đạt nhiều thành tựu nhưng chủ yếu là trong nông nghiệp như: đã chặn được đà giảm sút và có bước phát triển (sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 4,9%/năm so với 1,9%/năm của những năm 1976 – 1980). Khoa học kĩ thuật được triển khai, bắt đầu khai thác dầu mỏ và xây dựng nhiều công trình thủy điện như Thủy điện Hòa Bình, Thủy điện Trị An. Sản xuất công nghiệp tăng bình quân 9,5%/năm so với 0,6%/năm trong những năm 1976 - 1980; thu nhập quốc dân tăng bình quân là 6,4%/năm so với 0,4%/năm giai đoạn 1976 - 1980. Về xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật, ta hoàn thành hàng trăm công trình tương đối lớn, hàng nghìn công trình vừa và nhỏ.

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5144 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nguyên tắc thế giới quan trong nhận thức của triết học Mác, ý nghĩa và liên hệ với thực tế Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iên quyết đấu tranh chống những tiêu cực trong xã hội. Nguyên tắc vận động Vận động là một phạm trù của triết học Mác-Lê nin dùng để chỉ về một phương thức tồn tại của vật chất (cùng với cặp phạm trù không gian và thời gian), đó là sự thay đổi của tất cả mọi sự vật hiện tượng, mọi quá trình diễn ra trong không gian, vũ trụ từ đơn giản đến phức tạp. Theo quan điểm của triết học Mác - Lê nin thì vận động không chỉ là sự thay đổi vị trí trong không gian (hình thức vận động thấp, giản đơn của vật chất) mà theo nghĩa chung nhất, vận động là mọi sự biến đổi kể từ sự thay đổi vị trí đơn giản cho đến tư duy. Nguyên tắc vận động là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản. Cơ sở lý luận của nguyên tắc gắn liền với nguyên lý về sự phát triển của phép duy vật biện chứng. Vận động là tiến lên từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Với tính chất là sự biến đổi nói chung, thì vận động "là thuộc tính cố hữu của vật chất" và "là phương thức tồn tại của vật chất" có nghĩa là vật chất tồn tại bằng vận động (là phương thức của vật chất). Trong vận động và thông qua vận động mà các dạng vật chất biểu hiện sự tồn tại của mình, khi con người nhận thức được những hình thức vận động của vật chất, qua đó nhận thức được bản thân vật chất. Vận động là sự tự thân vận động của vật chất, được tạo nên từ sự tác động lẫn nhau của chính các thành tố nội tại trong cấu trúc vật chất (là thuộc tính cố hữu của vật chất). Quan niệm về giới tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản: Tất cả những gì cố định đều biến thành mây khói, và tất cả những gì người ta cho là tồn tại vĩnh cữu thì nay đã trở thành nhất thời, và người ta đã chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động theo một vòng tuần hoàn vĩnh cửu. Dựa trên những thành tựu khoa học của thời đại lúc đang sinh sống, Engels đã phân chia vận động thành 5 hình thức cơ bản (xếp từ đơn giản đến phức tạp). Đó là: Vận động cơ học (là sự di chuyển vị trí của các vật thể trong không gian). Vận động vật lý (tức sự vận động của các phân tử, các hạt cơ bản, vận động điện tử, các quá trình nhiệt điện, v.v.). Vận động hóa học (vận động của các nguyên tử, các quá trình hóa hợp và phân giải các chất). Vận động sinh học (trao đổi chất giữa cơ thể sống và môi trường). Vận động xã hội (sự thay đổi, thay thế các quá trình xã hội của các hình thái kinh tế - xã hội). Các hình thức vận động cao xuất hiện trên cơ sở các hình thức vận động thấp, bao hàm trong nó tất cả các hình thức vận động thấp hơn. Nhưng các hình thức vận động thấp không có khả năng bao hàm các hình thức vận động ở trình độ cao hơn. Ví dụ: Trong vận động vật lý thì bao gồm vận động cơ học, trong vận động hóa học vì bao gồm vận động vật lý và trong vận động sinh học bao gồm vận động hóa học và vận động xã hội bao gồm vận động sinh học cũng như tất cả các vật động nêu trên. Tuy nhiên vận động cơ học không thể bao gồm vận động xã hội. Các hình thức vận động nói trên khác nhau về chất. Từ vận động cơ học đến vận động xã hội là sự khác nhau về trình độ của sự vận động, những trình độ này tương ứng với trình độ của các kết cấu vật chất. và trong sự tồn tại của mình, mỗi sự vật có thể gắn liền với nhiều hình thức vận động khác nhau. Dù vậy, bản thân sự tồn tại của sự vật đó thường đặc trưng bằng một hình thức vận động cơ bản. Chính bằng sự phân loại các hình thức vận động cơ bản, Engels đã góp phần đặt cơ sở cho sự phân loại các khoa học tương ứng với đối tượng nghiên cứu của chúng và chỉ ra cơ sở của khuynh hướng phân ngành và hợp ngành của các khoa học. Ngoài ra, quá trình vận động còn bao hàm trong nó hiện tượng đứng im. Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin thì đứng im là một trạng thái đặc biệt của vận động đó là sự vận động trong trạng thái cân bằng, tức là những tính chất của vật chất chưa có sự biến đổi về cơ bản. Đứng im chỉ là hiện tượng tương đối và tạm thời. Theo Engels thì "mọi sự cân bằng chỉ là tương đối và tạm thời" Đứng im là tương đối, vì trước hết hiện tượng đứng im chỉ xảy ra trong một mối quan hệ nhất định chứ không phải trong mọi quan hệ cùng một lúc. Đứng im chỉ xảy ra với một hình thái vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc. Đứng im chỉ biểu hiện của một trạng thái vận động, đó là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối, biểu hiện thành một sự vật nhất định khi nó còn là nó chưa bị phân hóa thành cái khác. Chính nhờ trạng thái ổn định đó mà sự vật thực hiện được sự chuyển hóa tiếp theo. Đứng im còn được biểu hiện như một quá trình vận động trong phạm vi chất của sự vật còn ổn định, chưa thay đổi. Theo Engels thì "vận động riêng biệt có xu hướng chuyển thành cân bằng, vận động toàn bộ phá hoại sự cân bằng riêng biệt. Nguyên tắc vận động yêu cầu khi xem xét sự vật, hiện tượng phải đặt nó trong trạng thái vận động, biến đổi, chuyển hóa để không chỉ nhận thức sự vật, hiện tượng trong trạng thái hiện tại mà còn phải thấy được khuynh hướng phát triển của nó trong tương lai. Qua đây nguyên tắc vận động đòi hỏi trong hoạt động thực tiến phải nhạy cảm với cái mới, phát hiện ra cái mới, ủng hộ cái mới tạo điều kiện cho cái mới thay thế cái cũ, chống lại quan điểm bảo thủ, trì trệ..Sự vận động diễn ra tạo ra cái mới, thay thế cái cũ, chiến thắng cái cũ. Trong quá trình đó nhiều cái mới hợp quy luật chịu thất bại tạm thời, tạo nên con đường phát triển quanh co, phức tạp. Trong quá trình thay thế cái cũ phải biết kế thừa dưới dạng lọc bỏ và cải tạo những yếu tố tích cực đã đạt được, phát triển sáng tạo chúng trong cái mới. Nguyên tắc lịch sử - cụ thể Đây là một trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn. Theo nguyên tắc này, chúng ta phải xem xét sự hình thành, phát sinh, phát triển và diệt vong của sự vật, hiện tượng diễn ra trong một quá trình thời gian và tại từng thời điểm với điều kiện, môi trường cụ thể. Trong quá trình vận động của các sự vật, hiện tượng biến chuyển từ trạng thái này sang trạng thái khác trong từng điều kiện hoàn cảnh, không gian, thời gian cụ thể. Tính cụ thể thể hiện ở sự tồn tại các trạng thái, biểu hiện của sự vật, hiện tượng trong điều kiện, hoàn cảnh tại một thời điểm cụ thể. Khi điều kiện, hoàn cảnh cho sự tồn tại của sự vật, hiện tượng thay đổi thì trạng thái, biểu hiện của sự vật, hiện tượng cũng thay đổi phù hợp. Ví dụ như nước ở nhiệt độ bình thường là dạng lỏng, nhưng xuống dưới 0oC là dạng đá – trạng thái rắn. Tính lịch sử thể hiện ở sự biến chuyển không ngừng của sự vật, hiện tượng từ trạng thái, biểu hiện này sang trạng thái, biểu hiện khác khi điều kiện, hoàn cảnh cho sự tồn tại của sự vật, hiện tượng thay đổi theo thời gian. Tính lịch sử chỉ ra sự vật, hiện tượng vận động trong cả một quá trình liên tục, không ngừng và không một trạng thái, biểu hiện nào là vĩnh cửu mà sẽ chuyển biến sang dạng khác phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh mới. Do đó, trạng thái sự vật, hiện tượng của ngày hôm nay là lịch sử của ngày mai. Ví dụ về kinh tế điển hình ở Việt Nam là giai đoạn từ 1975-1985, sau khi giành được độc lập, đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế bao cấp, dựa vào viện trợ từ các nước phe XHCN, không mở cửa, hội nhập. Nhưng bước sang năm 1986, trước xu hướng hội nhập của thế giới, yêu cầu công nghiệp hóa – hiện đại hóa nền sản xuất, tiếp thu tinh hoa thế giới....để bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, Việt Nam đã chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Như vậy, quá trình phát sinh, phát triển và diệt vong của sự vật, hiện tượng được thể hiện qua từng trạng thái, biểu hiện nhất định phù hợp với điều kiện, môi trường cụ thể. Từ đó cho thấy, tính lịch sử và tính cụ thể đan xen lẫn nhau, không tách rời nhau. Tính cụ thể là hạt nhân để xây dựng nên tính lịch sử, tính lịch sử thể hiện quá trình, xu hướng theo thời gian, tính cụ thể thể hiện trạng thái tại mỗi thời điểm nhất định của sự vật, hiện tượng. Ví dụ như sự phát triển của phương tiện giao thông: đầu tiên là đi bằng chân, sau đấy để đi nhanh hơn thì cưỡi ngựa, rồi phát hiện ra nguyên tắc về cơ học và thu nhỏ phương tiện đi lại, phù hợp với đường phố đông đúc thì có xe đạp, khi phát hiện ra động cơ thì phát triển lên xe máy, ô tô, và để đáp ứng nhu cầu tiết kiệm thời gian, chinh phục không gian thì có máy bay, phi thuyền.... Nguyên tắc này yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, là phương thức tồn tại, phát triển không ngừng của vật chất. Khi điều kiện, hoành cảnh, môi trường thay đổi, xuất hiện sự đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập, sự thay đổi về chất – lượng của sự vật, hiện tượng làm nó thay đổi thông qua phủ định của phủ định. Đồng thời phải xem xét các mặt, các mối liên hệ trong từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của sự vật, hiện tượng trong quá trình hình thành, phát sinh, phát triển và diệt vong để nhận thức đúng bản chất của chúng, từ đó tác động trở lại các điều kiện, môi trường, hoàn cảnh để định hướng cho sự hình thành, phát sinh, phát triển và diệt vong của sự vật, hiện tượng nhằm phục vụ nhu cầu con người. Ví dụ như mưa thì được tạo ra từ các đám mây mang hơi nước tích tục lại, chúng ta đã vận dụng quy luật này phát minh ra công nghệ mưa nhân tạo bằng cách tạo ra các đám mây mang hơi nước để phục vụ cho nông nghiệp. Để nhận thức đầy đủ về sự vật, hiện tượng phải nghiên cứu nó xuất hiện trong lịch sử như thế nào, đã trải qua các giai đoạn phát triển chủ yếu nào và trên quan điểm vận động đó, xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào. Tức là phải tái tạo lại được quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng trong sự biến đổi của không gian, thời gian, hoàn cảnh và điều kiện cụ thể. Qua đó phản ánh được sự vận động lịch sử phong phú, đa dạng của các hình thức biểu hiện của sự vật, hiện tượng, khái quát thành xu hướng, quy luật nhằm nhận thức rõ bản chất của chúng. Không được đánh giá bản chất sự vật, hiện tượng chỉ thông qua trạng thái tại một thời điểm nhất định, vì dẫn đến thiếu sót, chỉ nhìn thấy điểm riêng lẻ mà chưa thấy được xu hướng, quy luật của quá trình, không khái quát được bản chất đúng đắn từ đó dẫn đến chủ quan duy ý chí. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn, chúng ta không nên đánh giá bản chất của sự vật, hiện tượng tại một thời điểm, mà nên xem xét trong cả một quá trình dài, từ đó rút ra quy luật để định hướng cho hoạt động thực tiễn của bản thân, phù hợp với điều kiện khách quan. MỤC III VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THẾ GIỚI QUAN TRONG NHẬN THỨC TRIẾT HỌC MÁC VÀO THỰC TIỄN VIỆT NAM (1986 – NAY) Tình hình Việt Nam trước đổi mới (1975 – 1985) Về chính trị Quốc hội khóa VI (1976) của nước Việt Nam thống nhất họp kỳ đầu tiên, quyết định đặt tên nước là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thông qua chính sách đối nội, đối ngoại, bầu cử các cơ quan, chức vụ lãnh đạo cao nhất của Nhà nước, quy định các nguyên tắc xây dựng bộ máy chính quyền các cấp, quy định quốc kỳ, quốc ca, bầu ủy ban dự thảo Hiến pháp. Về Kinh tế  Sau khi giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, nền kinh tế miến Bắc bị suy giảm nghiêm trọng. Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém, cơ cấu kinh tế mất cân đối, năng suất lao động thấp. Ở miền Nam sau 20 năm chiến tranh, kinh tế chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, cơ cấu mất cân đối, bị đảo lộn, nông nghiệp bị hoang hoá ở nhiều vùng. Về mặt văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục Chiến tranh đã làm xáo trộn, gây tổn thất lớn cho lực lượng lao động. Các tệ nạn ma túy, lưu manh, bụi đời, mại dâm... diễn ra nhiều nơi, số người thất nghiệp, số người mù chữ chiếm tỷ lệ lớn. Các thế lực phản động lợi dụng Nhà nước đang gặp khó khăn để kích động, lôi kéo quần chúng gây rối loạn trong nước. Về ngoại giao, mở rộng quan hệ Việt Nam hòa bình thống nhất đã tạo điều kiện cho việc mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới. Tuy nhiên, Việt Nam đứng trước khó khăn, thách thức vô cùng lớn do chính sách bao vây cấm vận, chống phá của Mỹ và các thế lực thù địch. Về quân sự, quốc phòng Với âm mưu từ trước, ngay sau khi Việt Nam giành độc lập, Tập đoàn Pôn-pốt (Khơme đỏ) – Campuchia tiến đánh biên giới Tây Nam (1976), Trung Quốc đưa quân đánh chiếm 6 tỉnh biên giới phía Bắc (từ Móng Cái đến Lai Châu). Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo nhân dân phản công, tận dụng sự ủng hộ của dư luận quốc tế đập tan âm mưu của chúng. Trước tình hình đó đại hội Đảng ta lần thứ IV (1976) đã đề ra chỉ tiêu và kế hoạch 5 năm 1976-1980 với nhiệm vụ cơ bản nhằm hai mục tiêu: Xây dựng một bước cơ sở vật chất – kĩ thuật của CNXH Bước đầu hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước mà bộ phận chủ yếu là cơ cấu công - nông nghiệp và cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân lao động. Theo kế hoạch, sản xuất xã hội sẽ tăng bình quân hàng năm 14-15%, thu nhập quốc dân tăng 13-14%, giá trị tổng sản lượng nông nghiệp tăng 8-10%, năng suất lao động xã hội tăng 7,5-8%, lương thực quy thóc đạt ít nhất 21 triệu tấn vào năm 1980, thịt hơi các loại đạt 1 triệu tấn… Theo đó, trong thời kỳ này, về công nghiệp thì có nhiều nhà máy được gấp rút xây dựng các cơ sở sản xuất mới và mở rộng nhiều nhà máy, khu công nghiệp như nhà máy điện, cơ khí, xi măng… Về nông nghiệp, diện tích gieo trồng tăng thêm gần 2 triệu hécta, được trang bị thêm 18 nghìn máy kéo các loại. Về giao thông thì đã được khôi phục và xây dựng mới hàng ngàn kilômét đường sắt, đường bộ nhiều cầu cảng. Về QHSX, không thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, giai cấp tư sản mại bản bị xoá bỏ, thành lập xí nghiệp quốc doanh hoặc công tư hợp doanh. Đại bộ phận nông dân đi vào con đường làm ăn tập thể, thủ công nghiệp và thương nghiệp được sắp xếp và tổ chức lại. Tuy nhiên, kế hoạch trong giai đoạn này không thành công như mong đợi. Tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng 1,4%/năm, thu nhập quốc dân tăng 0,4%/năm, trong khi đó dân số tăng với tốc độ bình quân 2,24%/năm. Kết thúc kế hoạch 5 năm nhưng các chỉ tiêu chủ yếu đều không đạt kế hoạch, thậm chí một số sản phẩm công nghiệp và nông nghiệp quan trọng bình quân đầu người không giữ được mức của năm 1976 (tính trên đầu người thì lượng thực phẩm ở Miền Bắc giảm từ 248 kg vào năm 1976 xuống chỉ còn 215 kg vào năm 1980). Và dù đã không đạt được mục đích nhưng Chính phủ vẫn quyết định áp dụng cùng một chính sách ở Miền Nam vừa mới thống nhất. Hình 1: Tốc độ tăng trưởng thu nhập quốc dân thực tế hàng năm (dựa theo giá so sánh 1982). Đơn vị: % (Nguồn: Kinh tế Việt nam 1955-2000, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, Xuất bản năm 2000) Tình hình sản xuất yếu kém với những sai lầm trong lưu thông phân phối, thị trường tài chính, tiền tệ không ổn định nên lạm phát diễn ra nghiêm trọng. Đời sống của nhân dân gặp rất nhiều khó khăn. Đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, Đại hội Đảng lần thứ V (1982) vẫn chưa tìm ra nguyên nhân dẫn tới sự trì trệ trên, và chưa đề ra các chính sách mới cho nền kinh tế 1981-1985. Nhiệm vụ cơ bản của kế hoạch nhà nước 5 năm 1981-1985 nhằm hai mục tiêu cơ bản: Phát triển thêm một bước, sắp xếp lại cơ cấu và đẩy mạnh cải tạo XHCN nền kinh tế quốc dân. Cơ bản ổn định tình hình kinh tế xã hội, đáp ứng những yêu cầu cấp bách và bức thiết nhất của nhân dân, giảm nhẹ sự mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế. Kế họach 5 năm 1981-1985 do Đại hội đề ra đã đạt nhiều thành tựu nhưng chủ yếu là trong nông nghiệp như: đã chặn được đà giảm sút và có bước phát triển (sản xuất nông nghiệp tăng bình quân 4,9%/năm so với 1,9%/năm của những năm 1976 – 1980). Khoa học kĩ thuật được triển khai, bắt đầu khai thác dầu mỏ và xây dựng nhiều công trình thủy điện như Thủy điện Hòa Bình, Thủy điện Trị An. Sản xuất công nghiệp tăng bình quân 9,5%/năm so với 0,6%/năm trong những năm 1976 - 1980; thu nhập quốc dân tăng bình quân là 6,4%/năm so với 0,4%/năm giai đoạn 1976 - 1980. Về xây dựng cơ sở vật chất - kĩ thuật, ta hoàn thành hàng trăm công trình tương đối lớn, hàng nghìn công trình vừa và nhỏ. Như vậy, so với kế hoạch 5 năm trước thì kế hoạch 5 năm 1981- 1985 có một số điểm mới đáng ghi nhận. Chúng ta đã tiến hành một bước điều chỉnh cơ cấu đầu tư, nhịp độ phát triển đi đôi với một số thay đổi cục bộ trong cơ chế quản lý kinh tế nên nền kinh tế có bước tăng trưởng khá hơn. Mặc dù vậy, nền kinh tế cơ bản vẫn vận hành theo cơ chế quản lý cũ. Đổi mới cục bộ đã làm bộc lộ rõ hơn những yếu kém của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Kinh tế quốc doanh và tập thể luôn thua lỗ nặng, kinh tế tư nhân và cá thể bị ngăm cấm triệt để, sản xuất kinh doanh phát triển chậm. thu nhập quốc dân, năng suất thấp, lạm phát tăng cao, đời sống nhân dân khó khăn, xã hội nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực Hình 2: Diễn biến lạm phát ở Việt Nam thời kỳ 1976 – 1986 (Nguồn: Kinh tế Việt nam 1955-2000, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội, Xuất bản năm 2000) Sau hai kế hoạch 5 năm xây dựng và phát triển kinh tế theo mô hình cũ, nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng, Việt Nam đứng trước nhiều khó khăn: QHSX chưa phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX.  Kinh tế tăng trưởng thấp, nếu tính chung từ năm 1976 đến năm 1985, tổng sản phẩm xã hội tăng 50,5%, bình quân mỗi năm tăng 4,6 %. Thu nhập quốc dân tăng 38,8 %, bình quân tăng 3,7%/năm.  Sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân. Toàn bộ quỹ tích lũy và một phần tiêu dùng phải dựa vào viện trợ nước ngoài.  Lạm phát diễn ra ở mức trầm trọng, tác động xấu đến đời sống kinh tế- xã hội. Sai lầm, khuyết điểm, chủ quan duy ý chí trong lãnh đạo và quản lý, chậm khắc phục sai sót. Cơ chế kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp, thực hiện “đóng cửa”, chủ yếu dựa vào viện trợ từ các nước phe XHCN. Chưa xác định nền kinh tế thị trường, xu thế hội nhập khu vực và quốc tế là tất yếu phát triển. Trong xã hội nảy sinh nhiều tiêu cực, tệ nạn: tham nhũng, mê tín dị đoan, phong tục cổ hủ, ma túy, cờ bạc, mại dâm, trộm cướp… và có chiều hướng gia tăng. Các thế lực thù trong, giặc ngoài luôn quấy phá, đe dọa, tấn công bằng nhiều hình thức, phương thức Sai lầm chủ yếu trong hai lần kế hoạch 5 năm nêu trên là vấp phải một số sai lầm khuyết điểm chủ yếu do tư tưởng chủ quan nóng vội, giáo điều thể hiện rõ nhất qua việc đề ra phương châm tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên CNXH, đề ra các mục tiêu, chỉ tiêu quá cao, không tính đến khá năng thực hiện và điều kiện cụ thể của đất nước sau thống nhất. Sai lầm trong cả chủ trương cải tạo, quản lí kinh tế, thể hiện tư tưởng bảo thủ, trì trệ. Hai kế hoạch trên đã không xuất phát từ thực tế khách quan của nền kinh tế xã hội lúc bấy giờ ở Việt mà nóng vội đi lên CNXH, xoá bỏ nền kinh tế nhiều thành phần duy trì lâu cơ chế quản lý quan liêu bao cấp. Chúng ta đã phạm sai lầm trong việc đánh giá tình hình, xác  định mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, cải tạo XHCN. Vận dụng nguyên tắc thế giới quan nhận thức trong triết học Mác vào thực tế Việt Nam trong quá trình đổi mới (từ năm 1986 đến năm 2004) Hoàn cảnh lịch sử Vào nửa sau những năm 80 của thế kỉ XX, tình hình thế giới tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Quan hệ quốc tế chuyển từ xu thế đối đầu dần sang đối thoại. Trong khi các nước tư bản đẩy mạnh cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật, nhanh chóng vượt qua khủng hoảng để phát triển đi lên, các nước XHCN ngày càng gặp nhiều khó khăn về kinh tế - xã hội, dần dần đi tới khủng hoảng. Phân công lao động quốc tế ngày càng rõ nét, đòi hỏi các nước phải hợp tác với nhau để cùng phát triển. Tình hình tạo nên xu thế hội nhập kinh tế giữa các nước trên thế giới, bất kể là nươc giàu mạnh hay kém phát triển. Hình thành nên nhiều tổ chức kinh tế như ASEAN (Hiệp hội các nước Đông Nam Á), WTO (tổ chức thương mại thế giới) AFTA, EU... Ở trong nước, sau khi thực hiện hai kế hoạch 5 năm (1976-1980, 1981-1985), nhân dân ta đã giành thêm được những thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực, cải biến được một phần cơ cấu kinh tế xã hội. Song, chúng ta chưa tiến xa được bao nhiêu, trái lại còn gặp nhiều khó khăn, khuyết điểm mới. Tình hình kính tế - xã hội bất ổn, tỷ trọng nông nghiệp chiếm phần lớn, đời sống nhân dân còn rất thấp. Sai lầm về tổng điều chỉnh giá, lương, tiền cuối năm 1985 đã đưa nền kinh tế - xã hội nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Vận dụng nguyên tắc thế giới quan nhận thức trong triết học Mác vào công cuộc đổi mới đất nước Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã đi sâu nghiên cứu, phân tích kỹ quá trình vận động, phát triển của thực tế khách quan, Đại hội lần thứ VI của Đảng (1986) được đánh dấu như một mốc quan trọng trong việc đổi mới toàn diện, đặc biệt là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, chuyển đổi cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang kinh tế thị trường (KTTT) định hướng XHCN, từ đó mở ra bước ngoặt lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Với tinh thần "nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật", phê bình và tự phê bình, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) đã nêu ra những mặt hạn chế, yếu kém, vạch rõ những nguyên nhân. Đồng thời xác định phải luôn xuất phát từ thực tiễn khách quan, xem xét quá trình vận động, phát triển các vấn đề trong một quá trình, trong từng điều kiện lịch sử nhất định, từ đó rút ra quy luật, bản chất để có những định hướng phù hợp với thực tế khách quan. Từ thực tiễn cách mạng trong 10 năm vừa qua, Đại hội rút ra 4 bài học kinh nghiệm quan trọng: Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc", xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng XHCN. Theo tinh thần của Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 6, chúng ta xác định xây dựng đất nước theo tinh thần, nội dung mới: Thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng và giúp đỡ, tạo điều kiện để người khác thoát khỏi nghèo, từng bước khá giả hơn. Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, y tế, giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người. Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng với nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội. Phát huy quyền làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tích cực, chủ động mở cửa, hội nhập kinh tế thế giới, khu vực; tiếp thu và dần làm chủ trình độ khoa học – kỹ thuật tiên tiến, phù hợp; giao lưu, trao đổi, tiếp thu các tinh hoa văn hóa thế giới đồng thời gìn giữ, khẳng định và phát huy bản sắc dân tộc tiên tiến của đất nước. Đẩy mạnh hợp tác song phương, đa phương với các nước trên thế giới về mọi mặt trên nguyên tắc các bên cùng có lợi, tự nguyện, tôn trọng chủ quyền, độc lập của các nước, tôn trọng thông lệ quốc tế, luật quốc tế. Đây là một bước đột phá trong tư duy, nhận thức. Chứng minh rõ Đảng ta đã nhận thức đúng đắn về các nguyên tắc khách quan, năng động, vận động và lịch sử - cụ thể của Triết học Mác-Lênin. Nghiên cứu kỹ các hình thái kinh tế trong từng giai đoạn lịch sử nhất định; nhận định rõ tình hình Việt Nam, lấy ý kiến, nguyện vọng nhân dân làm cơ sở đổi mới; bám sát xu hướng kinh tế quốc tế về mở cửa, hội nhập nền kinh tế khu vực, thế giới… từ đó nhận thức đúng thực tại khách quan, bản chất, quy luật vận động, phát triển kinh tế, chính trị, xã hội. Thực hiện phê bình và tự phê bình cách nhìn phiếm diện, duy ý chí, áp dụng cứng nhắc mô hình kinh tế Xô Viết cũ vào đất nước. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm để vận hợp lý cho đất nước. Thành tựu đạt được Trong công nghiệp, thực hiện trao quyền tự chủ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện hạch toán kinh tế, lấy thu bù chi, xóa dần bao cấp, khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh mở rộng sản xuất. Thi hành Luật Đầu tư nước ngoài với nhiều khoản ưu đãi, khuyến khích xuất khẩu đã làm cho môi trường đầu tư thông thoáng, góp phần tăng năng lực sản xuất ngành công nghiệp. Sản xuất của các ngành công nghiệp then chốt đã phục hồi, tăng trưởng ổn định hơn hẳn các thời kỳ trước. Trong giai đoạn 1986-1990, bình quân hàng năm, sản lượng điện tăng 11,1%, xi măng tăng 11,0%, thép cán tăng 8,0%, thiếc tăng 10%. Đặc biệt là xuất hiện ngành khai thác dầu thô có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Sản lượng dầu thô tăng từ 40 nghìn tấn năm 1986 lên 2,7 triệu tấn năm 1990. Giai đoạn 1991-1995 tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp bình quân đạt 13,7%/năm, vượt xa kế hoạch đề ra (7,5%-8,5%). Giai đoạn 1996-2000, giá trị sản xuất công nghiệp năm 1996 tăng 14,2%, năm 2000 tăng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docPhân tích nguyên tắc thế giới quan Triết học Mác, rút ra ý nghĩa, liên hệ thực tế Việt Nam 2011.DOC
Tài liệu liên quan