Tiểu luận Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Quá độ lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ bỏ qua chế độ TBCN, tất yếu chúng ta phải tiến hành CNH và kết hợp ngay từ đầu CNH với HÐH - nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ để phát triển mạnh mẽ và bền vững lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Khác với CNH theo kiểu cũ, khép kín, hướng nội, thiên về phát triển công nghiệp nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và viện trợ của các nước XHCN đi trước, ngày nay CNH gắn với HÐH trong một nền kinh tế mở; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ, gắn CNH, HÐH với từng bước phát triển kinh tế tri thức và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 32575 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c tế. Chính từ đây CNXH không chỉ còn là lý tưởng, là học thuyết mà là hiện thực cụ thể. Thành công của CMT10 khẳng định rằng chỉ có cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo của một đảng dựa trên nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin giành chính quyền về tay giai cấp vô sản mới thực sự đem lại quyền lợi cho người lao động. CMT10 thành công đã hiện thực hóa lý tưởng về một xã hội mới – xã hội chủ nghĩa (XHCN), mà trước đó chỉ là những ước mơ. CMT10 thành công đã chứng minh trên thực tế luận điểm về: sụp đổ tất yếu của CNTB và loài người sẽ quá độ sang một xã hội mới mà ở đó không còn người bóc lột người. CMT10 không chỉ hiện thực hóa mục tiêu cách mạng là giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, xóa bỏ chế độ tư hữu, mà còn khẳng định con đường giải phóng triệt để giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên thế giới; đồng thời khẳng định vai trò, sứ mệnh của lực lượng cách mạng thực hiện sự nghiệp giải phóng và xây dựng xã hội mới, đó là giai cấp công nhân. Khi dự đoán về khả năng của cách mạng, Mác-Ăngghen cho rằng, cách mạng vô sản sẽ nổ ra ở khâu yếu nhất của CNTB. Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, CNTB có bước phát triển mới, chuyển sang giai đoạn tột cùng của nó là chủ nghĩa đế quốc. Trên cơ sở phân tích đặc điểm phát triển không đều của chủ nghĩa đế quốc, Lênin đã chỉ ra khả năng cho cách mạng vô sản có thể nổ ra và thắng lợi ở một số nước, thậm chí ở một nước. Trong hoàn cảnh đó, Lênin (1870–1924) đã vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết của Mác-Ăngghen để giải quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng vô sản; đồng thời đấu tranh bảo vệ lý luận Mác, phê phán không khoan nhượng với tư tưởng xét lại, cơ hội… Sau CMT10, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhân dân xôviết vượt qua nhiều khó khăn thử thách, với sự hy sinh to lớn cả về người và của tiếp tục bảo vệ và phát triển những lý tưởng về CNXH, phát triển CNXH trong hiện thực. Sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu vào cuối những năm 80-đầu những năm 1990 của thế kỷ XX không phải sự phủ định chủ nghĩa Mác- Lênin, không phải là sự phủ định CNXH cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Đó chỉ là sự đổ vỡ của một mô hình phát triển cụ thể không được điều chỉnh kịp thời trước điều kiện mới. CNXH theo mô hình kế hoạch hóa tập trung và vai trò lịch sử của mô hình đó Mô hình kế hoạch hóa tập trung có những đặc trưng cơ bản sau: Dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu dưới hai hình thức: toàn dân và tập thể. Việc sản xuất cái gì, như thế nào, phân phối cho ai, giá cả như thế nào được quyết định từ nhà nước và mang tính pháp lệnh. Phân phối mang tính chất bình quân và trực tiếp bằng hiện vật là chủ yếu, xem nhẹ các quan hệ hàng hóa – tiền tệ. Nhà nước quản lý bằng mệnh lệnh hành chính là chủ yếu, xem nhẹ các biện pháp kinh tế. Trong điều kiện Liên Xô bị các nước tư bản bao vây, mô hình này đã có vai trò to lớn trong việc huy động sức người, sức của vào sự nghiệp xây dựng đất nước. Chỉ trong một thời gian ngắn, Liên Xô đã thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa (CNH), tạo ra được một nền công nghiệp hiện đại. Đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, nhân dân Liên Xô phải tiến hành cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Trong điều kiện đó, mô hình kế hoạch hóa tập trung một lần nữa phát huy vai trò tích cực trong việc huy động sức người, sức của cho chiến tranh - một trong những nhân tố quyết định thắng lợi trong chiến tranh. Với những thắng lợi to lớn mà nhân dân Liên Xô đạt được đã dẫn đến quan điểm cho rằng, mô hình kế hoạch hóa tập trung là mô hình kinh tế cùa CNXH, còn kinh tế thị trường là mô hình kinh tế của CNTB. Tuy nhiên, mô hình này dần bộc lộ những hạn chế của nó, như không khai thác được các năng lực sản xuất trong nước, không phát huy được nhiệt tình và tính chủ động sáng tạo của con người trong quá trình lao động sản xuất, không đẩy nhanh được sự tiến bộ khoa học và công nghệ, không mở rộng được quan hệ kinh tế quốc tế…Từ đó, năng suất lao động xã hội thấp, hàng hóa nghèo nàn và chất lượng kém… Đồng thời, cũng đẻ ra bộ máy hành chính quan liêu, chủ quan duy ý chí. Điều đó chứng tỏ mô hình đó không đáp ứng được yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất hiện đại, nhất là khi cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang phát triển mạnh mẽ. Mô hình kế hoạch hóa tập trung không còn thích hợp nữa, nhưng do chậm nhận thức và đổi mới đã dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã hội trong hệ thống XHCN được xác lập sau Cách mạng Tháng Mưòi Nga. Đứng trước khủng hoảng, Liên Xô đã tiến hành cải tổ và do sai lầm trong cải tổ đã dẫn đến sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu. Thực chất sự sụp đổ đó là sụp đổ của mô hình CNXH tập trung, quan liêu, bao cấp. Những biến đổi của thời đại và vấn đề quá độ lên CNXH Trong lúc CNXH bị khủng hoảng trầm trọng dẫn đến sụp đổ ở Liên Xô và Đông Âu, thì CNTB lại đạt được nhiều thành tựu to lớn về kinh tế, khoa học và công nghệ, cũng như nhiều mặt khác của đời sống xã hội. Từ đó có quan điểm phủ nhận CNXH, lý tưởng hóa CNTB. Thực chất quan điểm đó đã đồng nhất CNXH với mô hình CNXH tập trung, quan liêu, bao cấp; đồng nhất những thành tựu đạt được của nhân loại với CNTB. Rõ ràng, đây là sự lẫn lộn giữa hiện tượng với bản chất; giữa ngẫu nhiên với tất nhiên của lịch sử. Như đã phân tích, đây chỉ là sự sụp đổ của một mô hình cụ thể, chứ không phải là sự sụp đổ của CNXH với tính cách là một xã hội cao hơn CNTB. Hơn nữa, việc xây dựng một xã hội mới là một việc hết sức khó khăn, phức tạp, những vấp váp, thậm chí đổ vỡ tạm thời là điều khó tránh khỏi. Những đổ vỡ đó không phải là luận cứ để bác bỏ một xu hướng phát triển tất yếu của xã hội, mà là mang lại những kinh nghiệm để nhận thức ngày càng đúng đắn hơn về CNXH và con đường đi lên CNXH. Những biến đổi trong thời đại chúng ta không thể tách rời cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, cũng như những thành tựu do cuộc cách mạng đó mang lại. Đặc biệt là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ được bắt đầu vào giữa thế kỷ XX và phát triển rất nhanh chóng, nhất là từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay. Nó đã biến “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp”, làm cho người lao động ngày càng được trí tuệ hóa và lao động trí tuệ ngày càng trở thành lực lượng lao động chủ yếu. Sản xuất phát triển theo chiều sâu, hàm lượng chất xám chiếm tỷ trọng lớn trong giá thành sản phẩm (hiện nay các sản phẩm có chất lượng cao, hàm lượng chất xám chiếm khoảng 60-70% giá thành sản phẩm). Với vị trí có tính quyết định của khoa học, công nghệ và lao động trí tuệ trong nền sản xuất hiện đại, kinh tế thế giới đã chuyển lên một trình độ mới về chất – kinh tế tri thức. Vấn đề hình thành, phát triển kinh tế tri thức đang là vấn đề có tính thời sự. Sự ra đời của CNXH là kết quả hợp quy luật do sự phát triển của CNTB tạo ra. Cho nên, vấn đề quá độ lên CNXH vẫn là xu hướng của thời đại. Vấn đề đó được đặt ra ở các nước khác nhau với những mức độ khác nhau và sẽ được giải quyết phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước. PHẦN 2 – CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam Tiếp nối CMT10, cách mạng Tháng Tám và công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thực hiện đổi mới, phát triển của Việt Nam tiếp tục khẳng định tính đúng đắn của lý tưởng XHCN, của chủ nghĩa Mác-Lênin. CMT10 đã mở ra con đường giải phóng dân tộc cho nhân dân Việt Nam khỏi ách áp bức đế quốc thực dân. Chúng ta biết vào những năm 20 của thế kỷ XX, Việt Nam đang đứng trước sự bế tắc về con đường giải phóng dân tộc. Chính thời điểm này, Nguyễn Ái Quốc với thiên tài trí tuệ, trải nghiệm hoạt động cách mạng và ảnh hưởng trực tiếp của CMT10, đã khẳng định: " Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" . Vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam Bác Hồ và Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân thực hiện cách mạng Tháng Tám lịch sử thành công, xây dựng nên nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công - nông đầu tiên ở khu vực Đông Nam châu Á. Sau cách mạng Tháng Tám, lịch sử phát triển của đất nước ta luôn đòi hỏi Đảng và nhân dân phải có sự kiên định và sáng tạo trong con đường phát triển. Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc kết hợp sáng tạo giữa độc lập dân tộc với CNXH trong tiến trình cách mạng. Trong một thời gian dài cả nước đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược, và sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, tại Đại hội Đảng lần thứ IV, Đảng ta khẳng định: " trong thời đại ngày nay, khi độc lập dân tộc và CNXH không thể tách rời nhau, và ở nước ta, khi giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo cách mạng thì thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng là sự bắt đầu của cách mạng XHCN, sự bắt đầu của thời kỳ quá độ lên CNXH, sự bắt đầu của thời kỳ thực hiện nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản" . Điều này khẳng định sự sáng tạo và nhất quán trong lựa chọn con đường phát triển của cách mạng Việt Nam – con đường đi theo ánh sáng CMT10. Về mục tiêu chung của CNXH mà Đảng ta đề ra là: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 85-86 . Về con đường đi lên CNXH ở nước ta, Đảng ta chỉ rõ: “Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng TBCN, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng CNXH bỏ qua chế độ TBCN, tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ. Tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, những đặc trưng bản chất của CNXH bao gồm: Một là, CNXH là một chế độ do nhân dân làm chủ, Nhà nước phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân để huy động được tính tích cực và sáng tạo của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng CNXH. Hai là, CNXH có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động. Ba là, CNXH là một xã hội phát triển cao về văn hóa, đạo đức, trong đó người với người là bè bạn, là đồng chí, là anh em, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, có cuộc sống vật chất và tinh thần phong phú, được tạo điều kiện để phát triển hết mọi khả năng sẵn có của mình. Bốn là, CNXH là một xã hội công bằng và hợp lý, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không hưởng, các dân tộc bình đẳng, miền núi tiến kịp miền xuôi. Năm là, CNXH là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân tự xây dựng lấy dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quan niệm của Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ tình hình thực tiễn của Việt Nam: Trước hết, Hồ Chí Minh đã lưu ý chúng ta cần nhận thức rõ tính quy luật chung và đặc điểm lịch sử cụ thể của mỗi nước để nhận rõ đặc trưng tính chất của thời kỳ quá độ của Việt Nam đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Hồ Chí Minh đã chỉ ra những đặc điểm và mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, trong đó đặc điểm bao trùm to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không kinh qua giai đoạn phát triển TBCN. Đặc điểm này thâu tóm đầy đủ những mâu thuẫn, khó khăn, phức tạp, chi phối toàn bộ tiến trình quá độ lên CNXH ở nước ta, từ đó phải tìm ra con đường với những hình thức, bước đi và cách làm phù hợp với đặc điểm Việt Nam. Về nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ, Người nói "Chúng ta phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của CNXH, đưa miền Bắc tiến dần lên CNXH, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hóa và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng XHCN, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài". Về những nhân tố bảo đảm thực hiện thắng lợi CNXH ở Việt Nam, Hồ Chí Minh chỉ rõ phải: Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng; nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước; Phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị- xã hội; xây dựng đội ngũ cán bộ đủ đức và tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng XHCN. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (HĐH) và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ tiến lên CNXH ở Việt Nam Thực hiện CNH, HÐH và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là những con đường cơ bản, phương hướng chính yếu đi lên CNXH trong lĩnh vực kinh tế ở nước ta. Quá độ lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ bỏ qua chế độ TBCN, tất yếu chúng ta phải tiến hành CNH và kết hợp ngay từ đầu CNH với HÐH - nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ để phát triển mạnh mẽ và bền vững lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH. Phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Khác với CNH theo kiểu cũ, khép kín, hướng nội, thiên về phát triển công nghiệp nặng, chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và viện trợ của các nước XHCN đi trước, ngày nay CNH gắn với HÐH trong một nền kinh tế mở; chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển mạnh công nghiệp và dịch vụ, gắn CNH, HÐH với từng bước phát triển kinh tế tri thức và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Kết hợp tốt các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra với các lợi thế của nước đi sau, để rút ngắn quá trình CNH, HÐH, thực hiện "đi tắt đón đầu". Coi trọng cả tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển, cả phát triển nhanh và bền vững. CNH, HÐH là sự nghiệp của toàn dân, toàn xã hội. Nhà nước có chính sách để khơi dậy, phát huy các nguồn lực của nhân dân, của mọi thành phần kinh tế, đồng thời huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn ngoại lực để đẩy mạnh CNH, HÐH đất nước. Lấy thị trường làm cơ sở chủ yếu để phân bổ các nguồn lực kết hợp sự điều tiết của nhà nước; lấy tiêu chuẩn trước hết là hiệu quả kinh tế để đầu tư. Nhà nước có chính sách khuyến khích và ưu đãi cho một số ngành, lĩnh vực, địa bàn, doanh nghiệp vừa và nhỏ và một số mục tiêu (xuất khẩu, tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo...). Hết sức coi trọng CNH, HÐH nông nghiệp, nông thôn; phát triển công nghiệp và xây dựng kết cấu hạ tầng; phát triển kinh tế vùng, kinh tế biển, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ đáp ứng yêu cầu phát triển; sử dụng hợp lý tài nguyên, chú trọng bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái. Từ Ðại hội VI, Ðảng ta dứt khoát từ bỏ mô hình kinh tế phi hàng hóa, phi thị trường, mô hình kinh tế tập trung bao cấp, chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Ðến Ðại hội VII, Ðảng ta khẳng định "phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước". Ðến Ðại hội IX, lần đầu Ðảng ta khẳng định phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và xem đó là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam. Quan niệm trên đây là một đột phá lý luận sáng tạo của Ðảng ta trong nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Với quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, Ðảng ta đã chính thức thừa nhận kinh tế thị trường không phải là riêng có của CNTB, có thể và cần phải sử dụng kinh tế thị trường để xây dựng CNXH, kinh tế thị trường là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, có thể kết hợp kinh tế thị trường với CNXH. Tuy nhiên, kinh tế thị trường định hướng XHCN khác với kinh tế thị trường TBCN cả về mục đích, bản chất, chế độ sở hữu, chế độ quản lý, chế độ phân phối. Kinh tế thị trường định hướng XHCN bao gồm nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế đan xen, hỗn hợp trong đó kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân; kinh tế tư nhân, kể cả kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển trong mọi ngành nghề mà luật pháp không cấm, kể cả tư nhân quy mô lớn. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, bình đẳng trước pháp luật, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Phải phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; nâng cao hiệu quả quản lý, điều tiết nền kinh tế của nhà nước trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường; phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, mặt trái của kinh tế thị trường, giữ vững định hướng XHCN. Xây dựng nền dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân Phát huy dân chủ XHCN, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân là mục tiêu và bản chất của chế độ XHCN. Ðể thực hiện mục tiêu đó, vấn đề trung tâm là phải xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thật sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình chủ yếu bằng nhà nước, thông qua nhà nước dưới sự lãnh đạo của Ðảng. Nhà nước là công cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới, Ðảng ta hết sức coi trọng việc cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Ðặc biệt tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) Ðảng ta khẳng định chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. So với nhà nước pháp quyền tư sản, nhà nước pháp quyền XHCN khác về bản chất. Pháp quyền dưới CNTB về thực chất là công cụ thống trị của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới CNXH là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nhà nước bảo đảm quyền công dân, quyền con người, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân; thực hành dân chủ, đồng thời tăng cường kỷ cương, kỷ luật. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Hiến pháp và các đạo luật giữ vị trí tối cao trong điều chỉnh các quan hệ của đời sống xã hội. Trong xã hội ta, hiến pháp và pháp luật là sự thể chế hóa cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Ðảng, đồng thời là sự thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục đạo đức. Trong hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội giữ vai trò rất quan trọng trong việc thực hiện dân chủ XHCN, đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy cần tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội nhằm tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân, phát huy tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội đối với đường lối của Ðảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Sự lãnh đạo đúng đắn của Ðảng là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Vì vậy, phải coi xây dựng Ðảng là nhiệm vụ then chốt, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Ðảng, xây dựng Ðảng một cách toàn diện và đồng bộ cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, về đạo đức, về phong cách và phương thức lãnh đạo. Ðảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, coi đó là quy luật tồn tại và phát triển của Ðảng. Kiên quyết khắc phục các nguy cơ đối với một Ðảng cầm quyền, nhất là nguy cơ quan liêu, xa dân, thoái hóa, biến chất, đi đến mất phương hướng về chính trị. Ðảng kiên định nền tảng tư tưởng của Ðảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định nguyên tắc tổ chức cơ bản của Ðảng là tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong Ðảng đi đôi với giữ vững kỷ cương, kỷ luật Ðảng, kiên trì nguyên tắc một đảng lãnh đạo là Ðảng Cộng sản, không chấp nhận đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội Kinh tế, văn hóa, xã hội là những lĩnh vực quan trọng có quan hệ chặt chẽ với nhau cần được phát triển một cách đồng bộ, hài hòa. Trong khi coi trọng phát triển kinh tế nhanh và bền vững, chúng ta đồng thời cũng hết sức coi trọng phát triển văn hóa bởi vì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hóa, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của đổi mới, của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng. Phải làm cho văn hóa thực sự thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, xây dựng lối sống có văn hóa cho con người. Chiến lược kinh tế - xã hội phải đặt con người vào vị trí trung tâm, tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển, phát huy mọi năng lực của mình. Kết hợp chặt chẽ các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong từng chính sách phát triển; kết hợp tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay từ đầu, trong mỗi bước đi và trong cả quá trình. Không hy sinh mục tiêu xã hội cho tăng trưởng kinh tế, song cũng không vì mục tiêu xã hội mà làm hạn chế, triệt tiêu động lực tăng trưởng kinh tế. Khuyến khích, tạo điều kiện để mọi người làm giàu hợp pháp và hợp đức đi đôi với xóa đói, giảm nghèo, xử lý vấn đề phân hóa hai đầu trong chính sách kinh tế và chính sách xã hội; đổi mới các chính sách đối với y tế, giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa - thông tin, thể dục - thể thao, tạo việc làm, dân số, gia đình, trẻ em... Xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội, bảo hiểm xã hội, chính sách ưu đãi xã hội, chính sách tiền lương, chính sách phân phối thu nhập công bằng, hợp lý. Xây dựng CNXH đi đôi với bảo vệ Tổ quốc XHCN Ðây là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau. Trong điều kiện mới, chúng ta đã nhận thức sâu sắc, cụ thể hơn về mối quan hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữa kinh tế với quốc phòng - an ninh - đối ngoại, giữa thế trận quốc phòng với thế trận an ninh trên phạm vi quốc gia cũng như trên từng địa bàn. Ðã nhận thức toàn diện hơn khái niệm "an ninh quốc gia": không chỉ an ninh chính trị mà còn an ninh kinh tế, an ninh văn hóa, an ninh tư tưởng, an ninh xã hội... Khái niệm "bảo vệ Tổ quốc" được xác định đầy đủ hơn: không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân tộc, sự nghiệp đổi mới... Chúng ta bước đầu xây dựng hệ quan điểm mới về chiến tranh nhân dân, về hậu phương trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao; làm sáng tỏ nội dung mới của chiến lược bảo vệ Tổ quốc, chiến lược quốc phòng toàn dân. Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế Trong những năm đổi mới, trên cơ sở ngày càng nhận thức sâu sắc hơn tình hình thế giới và khu vực, Ðảng ta đã có sự đổi mới quan trọng về tư duy đối ngoại. Ðảng đã khẳng định Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, vì hòa bình, độc lập và phát triển; thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đi đôi với đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác; trong hoạch định chính sách đối ngoại, đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên vị trí hàng đầu. Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Trên đây là hệ thống quan điểm, lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta mà bước đầu chúng ta đã xác định được. Tuy nhiên trong nội dung những quan điểm đó, còn nhiều vấn đề cụ thể chưa phải đã thật rõ. Hơn nữa bên cạnh đó, có nhiều vấn đề mới đặt ra. Chẳng hạn, các vấn đề quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng và chất lượng phát triển, giữa tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững; vấn đề quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội; vấn đề quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị, giữa đổi mới và ổn định; vấn đề quan hệ giữa độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế,… KẾT LUẬN Thành tựu lý luận mà Đảng ta và nhân dân ta đạt được qua thực tiễn 20 năm đổi mới tập trung nổi bật ở quan điểm về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, nền dân chủ hướng tới đông đảo quần chúng nhân dân, đảm bảo dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền trong sạch, vững mạnh, coi đó là khâu then chốt, đại đoàn kết dân tộc là động lực mạnh mẽ và quyết định thành bại của công cuộc đổi mới và xây dựng CNXH... Sự xác định đúng đắn những vấn đề trên cho thấy, lý luận, tư duy lý luận của Đảng về CNXH thấm nhuần tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đã đóng vai trò quan trọng đối với thực tiễn đổi mới, làm nên những thành tựu đổi mới. Từ thực tiễn đổi mới, Ðảng và Nhà nước ta càng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan