Khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định: “Tạm giam có thể được áp dụng với bị can, bị cáo.”. Tuy nhiên, trên thực tế còn có những đối tượng khác cũng có thể áp dụng biện pháp tạm giam như:
- Người bị Tòa án kết án phạt tù trước đó đang bị tạm giam nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết ;
- Người bị Tòa án kết án phạt tù trước đó không bị tạm giam nhưng xét thấy cần phải tạm giam họ để đảm bảo thi hành án ;
- Người bị kết án phạt tù đang tại ngoại chờ thi hành án hoặc đang thi hành án bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã .
Các đối tượng nêu trên cùng có chung đặc điểm là người đã bị Tòa án kết án phạt tù vì thế không còn tiếp tục gọi họ là bị can, bị cáo. Việc khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định không đầy đủ các đối tượng có thể áp dụng biện pháp tạm giam dẫn đến mâu thuẫn giữa các quy định của Điều 88 và các điều luật khác, gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn này.
Để khắc phục tình trạng này, quy định tại Khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 nên bổ sung về đối tượng có thể áp dụng biện pháp tạm giam ngoài bị can, bị cáo còn có “người đã bị Tòa án kết án phạt tù” đồng thời bổ sung quy định về mục đích áp dụng biện pháp tạm giam tại điểm b Khoản 1 Điều 88 bao gồm cả mục đích đảm bảo việc thi hành án, cụ thể ở đoạn “.có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội” nên đổi thành “.có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn, hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc có thể tiếp tục phạm tội”.
9 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2243 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nhận xét, đánh giá những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về biện pháp tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự và nêu hướng hoàn thiện các quy định trên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, khởi tố bị can, áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác hoặc trả tự do cho người bị tạm giữ.
- Đảm bảo cho tiến trình tố tụng được tiến hành thuận lợi, giải quyết các vụ án được khách quan, toàn diện, góp phần hiệu quả vào việc bảo đảm tính mạng, tài sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân.
2. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của biện pháp tạm giam
a. Khái niệm
Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng , phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật hình sự quy định hình phạt tù từ 2 năm mà có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2006, tr.224
.
b. Mục đích và ý nghĩa của biện pháp tạm giam
- Mục đích: Ngăn chặn không để cho bị can, bị cáo có điều kiện tiếp tục phạm tội hoặc có hành vi gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án. Ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất định, việc áp dụng biện pháp này còn nhằm đảm bảo thực hiện tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng.
- Ý nghĩa: Tạm giam có ý nghĩa rất lớn trong cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm cũng như đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của công dân.
+ Tạm giam góp phần nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nước, củng cố và tăng cường pháp chế Xã hội chủ nghĩa; là biện pháp thể hiện sự kiên quyết của Nhà nước trong việc đấu tranh phòng chống tội phạm; bảo đảm cho xã hội ổn định, trật tự, pháp luật được giữ vững, chế độ XHCN được bảo vệ; quyền lợi hợp pháp của công dân được tôn trọng; bảo đảm không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.
+ Tạm giam là phương tiện hữu hiệu bảo đảm cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đạt hiệu quả cao nhất. Biện pháp này bảo đảm bí mật điều tra, ngăn ngừa thông cung giữa những người vi phạm với nhau, ngăn ngừa tội phạm xóa bỏ dấu vết. Bảo đảm cho bản án khi Tòa án tuyên được thi hành nghiêm chỉnh khi chúng có hiệu lực pháp luật.
+ Tạm giam tạo cơ sở pháp lý vững chắc bảo đảm tôn trọng các quyền công dân được Hiến pháp và luật ghi nhận. Đảm bảo không một công dân nào có thể bị tạm giam khi không có căn cứ và trái pháp luật.
+ Tạm giam thể hiện tính ưu việt của Nhà nước ta: là biện pháp bảo đảm cho mọi người dân được sống trong một xã hội an toàn, các quyền và lợi ích của mỗi người dân được tôn trọng và bảo vệ, tránh được sự tấn công, xâm hại từ phía các đối tượng nhất định đảm bảo cho mọi người dân được an tâm sinh sống, học tập và làm việc.
II. Nhận xét, đánh giá các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về biện pháp tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự và hướng hoàn thiện các quy định nêu trên
1. Biện pháp tạm giữ
a. Đối tượng, căn cứ áp dụng biện pháp tạm giữ
Khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định: “Tạm giữ có thể áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã.”
Theo đó, biện pháp tạm giữ là một trong các biện pháp ngăn chặn mà mục đích của biện pháp ngăn chặn là “để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội cũng như khi cần thi hành án”.
Việc quy định đối tượng tạm giữ bao gồm cả người phạm tội tự thú, đầu thú là không phù hợp. Vì việc người phạm tội ra đầu thú, tự thú chứng tỏ sự hối cải và ý thức hợp tác của họ, không có cơ sở để cho rằng họ sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội cũng như khi cần đảm bảo thi hành án. Nên chỉ cần quy định áp dụng biện pháp tạm giữ đối với người phạm tội đầu thú, tự thú phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng nhưng có nhân thân xấu, không có nơi cư trú ổn định còn những trường hợp khác thì không cần thiết và chỉ cần áp dụng biện pháp ngăn chặn là cấm không đi khỏi nơi cư trú.
Như vậy, khoản 1 Điều 86 BLTTHS 2003 nên quy định: “Tạm giữ có thể được áp dụng đối với những người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang hoặc đối với người bị bắt theo quyết định truy nã tại Điều 81 và Điều 82 của Bộ luật này hoặc những người phạm tội đầu thú, tự thú phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hoặc rất nghiêm trọng nhưng có nhân thân xấu, không có nơi cư trú ổn định.
b. Thẩm quyền ra lệnh tạm giữ
Khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định “Những người có quyền ra lệnh bắt khẩn cấp quy định tại Khoản 2 Điều 81 của Bộ luật này, Chỉ huy trưởng vùng Cảnh sát biển có quyền ra quyết định tạm giữ”.
Dẫn chiếu sang Khoản 2 Điều 86 BLTTHS 2003 quy định:
“Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp:
Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp;
b) Người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng và hải đảo biên giới;
c) Người chỉ huy tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng”.
Điều luật này đã có sự bổ sung so với Điều 68 BLTTHS 1988, đó là người có quyền ra lệnh tạm giam còn gồm cả chỉ huy trưởng vùng Cảnh sảt biển Quy định này không những tăng thẩm quyền cho lực lượng tuần tra biển để kịp thời phục vụ công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm trên biển mà qua đó góp phần kiểm soát, tuần tra và giữ vững an ninh trật tự trên biển.
Như vậy, theo quy định của BLTTHS 2003 thì Cơ quan hải quan, Kiểm lâm không có quyền tạm giữ theo thủ tục tố tụng hình sự. Thực hiện quy định theo quy định tại Khoản 1 Điều 81 BLTTHS 2003 khi bắt người phạm tội quả tang thì các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền. Mặt khác, tại điểm a Khoản 1 Điểm 111 BLTTHS 2003 có quy định cơ quan Hải quan, Kiểm lâm có thẩm quyền ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát có thẩm quyền đối với tội phạm ít nghiêm trọng trong trường hợp phạm tội quả tang, chứng cứ và lai lịch phạm tội rõ ràng trong lĩnh vực quản lý của mình. Tuy có thẩm quyền khởi tố, điều tra nhưng việc không quy định thẩm quyền tạm giữ của cơ quan Hải quan, Kiểm lâm sẽ gây khó khăn cho các cơ quan đó trong việc thực thi thẩm quyền này (Ví dụ: hoạt động hỏi cung bị can).
Điều 86 cần quy định bổ sung người có quyền ra quyết định tạm giữ bao gôm cả thủ trưởng cơ quan Hải quan, thhủ trưởng cơ quan Kiểm lâm để các cơ quan có điều kiện hoàn thành tốt chức năng của mình.
c. Thời hạn tạm giữ
điều 87 BLTTHS 2003 quy định về thời hạn này như sau:
“1. Thời hạn tạm giữ không được quá 3 ngày, kể từ ngày Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.
2. Trong thời hạn cần thiết , người ra quyết định tạm giữ có thể ra hạn tạm giữ nhưng không quá 3 ngày. Trong trường hợp đặc biệt, người ra quyết định tạm giữ có thể gia hạn tạm giữ lần thứ hai nhưng không quá 3 ngày. Mọi trường hợp gia hạn tạm giữ phải được sự phê chuẩn của Viện kiểm sát cùng cấp; trong thời hạn 12 giờ kể từ khi nhận được đề nghị gia hạn và tài liệu liên quan đến việc gia hạn tạm giữ, Viện kiểm sát phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn..”
Một vấn đề cần xác định rõ là trường hợp nào là cần thiết, trường hợp nào là không cần thiết
Trường hợp cần thiết đó là trường hợp sự việc xảy ra có nhiều tình tiết phức tạp, việc xác minh phải thực hiện ở nhiều địa phương khác nhau cần có thêm thời gian để làm rõ về hành vi, căn cước, lí lịch người bị tạm giữ.
Trường hợp đặc biệt là những trường hợp đối với các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia và một số vụ án hình sự khác có nhiều người tham gia, sự việc phức tạp đã gia hạn lần một nhưng chưa xác minh được.
Thời hạn tạm giữ đựoc pháp luật hình sự quy định nhằm tạo điều kiện cho cơ quan điều tra có thời gian làm được nhân thân và bước đầu xác định đựoc tính chất hành vi của người bị tạm giữ để nhanh chóng ra các quyết định tố tụng cần thiết. Song thực tiễn áp dụng đã nảy sinh nhiều vấn đề mà các nhà làm luật chưa dự liệu hết được.
Như trên đã nói, biện pháp tạm giữ chỉ được áp dụng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang, người phạm tội đầu thú hoặc đối với người bị bắt theo lệnh truy nã. Sau đó, cần có thời gian xác minh về việc họ bị nghi thực hiện tội phạm hoặc về những đặc điểm nhân thân của họ. Nếu áp dụng biện pháp tạm giữ hành chính trong vòng 24 giờ thì không đủ thời gian xác minh làm rõ được sự việc nên phải tạm giữ hình sự. tuy nhiên, khi áp dụng biện pháp tạm giữ hình sự theo Điều 86 BLTTHS 2003, sau đó xác minh hành vi của họ chỉ là vi phạm hành chình thì có nên coi tạm giữ hình sự là gây oan sai cho công dân hay không. Như vậy, pháp luật TTHS có nên sửa đổi theo hướng đối với người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp, phạm tội quả tang và bị tạm giữ nên coi là tạm giữ hành chính mặc dù thời hạn tạm giữ có thể kéo dài hơn 24 giờ, có thể đến 72 giờ nhưng không được gia hạn Báo cáo kết quả phối hợp rút kinh nghiệm một năm thực hiện BLTTHS năm 2003, Tạp chí Kiểm sát 2005, VKSNDTC, tr. 34
.
2. Biện pháp tạm giam
a. Đối tượng, căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
- Đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam
Khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định: “Tạm giam có thể được áp dụng với bị can, bị cáo..”. Tuy nhiên, trên thực tế còn có những đối tượng khác cũng có thể áp dụng biện pháp tạm giam như:
- Người bị Tòa án kết án phạt tù trước đó đang bị tạm giam nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết Khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 243 BLTTHS 2003
;
- Người bị Tòa án kết án phạt tù trước đó không bị tạm giam nhưng xét thấy cần phải tạm giam họ để đảm bảo thi hành án Khoản 2 Điều 228 BLTTHS 2003
;
- Người bị kết án phạt tù đang tại ngoại chờ thi hành án hoặc đang thi hành án bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã Khoản 4 Điều 256 BLTTHS 2003
.
Các đối tượng nêu trên cùng có chung đặc điểm là người đã bị Tòa án kết án phạt tù vì thế không còn tiếp tục gọi họ là bị can, bị cáo. Việc khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định không đầy đủ các đối tượng có thể áp dụng biện pháp tạm giam dẫn đến mâu thuẫn giữa các quy định của Điều 88 và các điều luật khác, gây khó khăn cho thực tiễn áp dụng biện pháp ngăn chặn này.
Để khắc phục tình trạng này, quy định tại Khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 nên bổ sung về đối tượng có thể áp dụng biện pháp tạm giam ngoài bị can, bị cáo còn có “người đã bị Tòa án kết án phạt tù” đồng thời bổ sung quy định về mục đích áp dụng biện pháp tạm giam tại điểm b Khoản 1 Điều 88 bao gồm cả mục đích đảm bảo việc thi hành án, cụ thể ở đoạn “..có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội” nên đổi thành “..có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn, hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc có thể tiếp tục phạm tội”.
- Căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam
Căn cứ được quy định tại khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 (căn cứ chung về tạm giam) và quy định tại khoản 2 Điều 303 BLTTHS 2003 (căn cứ tạm giam đối với người chưa thành niên).
+ Căn cứ chung về tạm giam quy định tại khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003
Khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 quy định:
“1. Tạm giam có thể được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong trường hợp sau đây:
a) Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng;
b) Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên 2 năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”
Xem xét quy định này ta thấy có sự mâu thuẫn căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn (Điều 79 BLTTHS 2003) với căn cứ tạm giam (Điều 88 BLTTHS 2003).
Theo quy định tại Điều 79 BLTTHS về căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn với tư cách đây là quy định chung cho việc áp dụng tất cả các biện pháp ngăn chặn thì việc áp dụng khi có một trong các căn cứ sau: “Để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như khi cần bảo đảm thi hành án”
Như vậy, việc bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng theo điểm a khoản 1 Điều 88 BLTTHS 2003 nhưng không có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội cũng như khi cần bảo đảm thi hành án thì bị can, bị cáo này sẽ không thuộc đối tượng bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tại Điều 79 BLTTHS 2003. Nhưng trong Điều 88 BLTTHS 2003 lại quy định cả bị can, bị cáo trong trường hợp này là đối tượng áp dụng biện pháp tạm giam. Rõ ràng, giữa quy định chung về căn cứ áp dụng biện pháp tạm giam có điểm mâu thuẫn nhau, gây khó khăn cho người có quyền ra lệnh tạm giam.
Ta nhận thấy rằng, việc các cơ quan có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp tạm giam ngay đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng mà không cần phải có các điều kiện khác là cần thiết vì tính nguy hiểm và hậu quả của loại tội này là nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội; Vì vậy, Điều 79 BLTTHS cần sửa đổi để hoàn thiện hơn.
+ Căn cứ tạm giam đối với bị can, bị cáo chưa thành niên quy định tại khoản 2 Điều 303 BLTTHS 2003
“1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ các căn cứ quy định tại các Điều 80, 81, 82,86, 88 và 120 của Bộ luật này nhưng chỉ trong các trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ các căn cứ quy định tại các Điều 80, 81, 82,86, 88 và 120 của Bộ luật này nhưng chỉ trong các trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.”
Như vậy, trường hợp người phạm tội nghiêm trọng do vô ý hoặc phạm tội ít nghiêm trọng thì không bị áp dụng biện pháp tạm giam vì bất cứ lý do gì.
Bên cạnh đó trong thực tiễn ta thấy số lượng người chưa thành niên phạm tội có chiều hướng ngày càng gia tăng mà các tội phạm do những đối tượng này thực hiện thường là các tội ít nghiêm trọng như: Cố ý gây thương tích (khoản 1 Điều 104 BLHS), Gây rối trật tự công cộng (khoản 1 Điều 245 BLHS), trộm cắp tài sản (khoản 1 Điều 138 BLHS), đánh bạc (khoản 1 Điều 248 BLHS).. hoặc phạm tội nghiêm trọng do vô ý như tội vi phạm các quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ (khoản 1 Điều 202 BLHS)… Tuy nhiên, theo quy định của Điều 303 BLTTHS thì cơ quan có thẩm quyền không được tạm giam đối với những bị can, bị cáo này dẫn tới không ít tình trạng trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các bị can, bị cáo này bỏ trốn nhiều lần và bị bắt theo lệnh truy nã nhưng khi bắt được các đối tượng này thì cơ quan có thẩm quyền phải trả lại tự do cho họ vì không có căn cứ để tạm giam; Điều này gây rất nhiều khó khăn cho cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện nhiệm vụ của mình.
Để giải quyết tình vấn đề này, khoản 2 Điều 303 BLTTHS 2003 cần quy định bổ sung theo hướng: “đối với bị can, bị cáo từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng do cố ý, phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội rất nghiêm trọng do vô ý có thể bị tạm giam, trong trường hợp bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã hoặc trong trường hợp tiếp tục phạm tội khi đang tại ngoại; “đối với bị can, bị cáo từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội do vô ý có thể bị tạm giam trong trường hợp bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã hoặc trong trường hợp tiếp tục phạm tội khi đang tại ngoại”.
c. Thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam
Thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam được quy định tại khoản 3 Điều 88 BLTTHS 2003:
“…
3. Những người có thẩm quyền ra lệnh bắt được quy định tại Điều 80 của Bộ luật này có quyền ra lệnh tạm giam của những người được quy định tại khoản 1 Điều 80 của BLTTHS năm 2003 phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành…”
Dẫm chiếu sang khoản 1 Điều 80 BLTTHS 2003 quy định:
Những người sau đây có quyền ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam: Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát quân sự cùng các cấp; Chánh án Phó chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các cấp; Thẩm phán giữ chức vụ Chánh tòa, Phó chánh tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao, Hội đồng xét xử; Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp phải được Viện kiểm sát phê chuẩn trước khi thi hành. Như vậy, việc quy định Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam chỉ mang tính hình thức; Trên thực tế, việc áp dụng, hủy bỏ, thay thế biện pháp tạm giam hoàn toàn do Viện kiểm sát quyết định.
Vì vậy, nên bỏ quy định Thủ trưởng, Phó thủ trưởng cơ quan điều tra các cấp có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam và quy định Viện trưởng, Phó viện trưởng cơ quan Viện kiểm sát nhân dân các cấp có thẩm quyền ra lệnh tạm giam trong giai đoạn điều tra khi có căn cứ trên cơ sở đề nghị của cơ quan điều tra. Như vậy sẽ đúng với thực tiễn áp dụng và phù hợp chủ trương cải cách tư pháp theo Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 2/6/2005: “thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam”.
c. Thời hạn tạm giam
Theo quy định của BLTTHS 2003 thì thời hạn tạm giam không tập trụng ở một điều luật mà lại quy định rải rác ở các điều khoản khác nhau theo từng giai đoạn của quá trình tố tụng, cụ thể là ở: Điều 120, khoản 2 Điều 166, Điều 177, Điều 243, Điều 228.
c.1. Thời hạn tạm giam để điều tra
Điều 120 BLTTHS 2003 quy định:
“Thời hạn tạm giam bị can để điều tra không quá 2 tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá 3 tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá 4 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
1. Trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, xét thấy cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có căn cứ để thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là 10 ngày trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm sát gia hạn tạm giam…”
Tạm giam để điều tra là biện pháp ngăn chặn để giúp cơ quan điều tra ngăn chặn tội phạm bỏ trốn và thuận tiện trong việc điều tra phải phù hợp với thời hạn điều tra một vụ án hình sự.
Thế nhưng, so sánh thời hạn tạm giam để điều tra Điều 120 BLTTHS 2003
và thời hạn điều tra Điều 119 BLTTHS 2003
ta thấy thời hạn để điều tra không khớp nhau. Cụ thể là thời hạn điều tra một vụ án hình sự với tội phạm ít nghiêm trọng tối đa là 4 tháng còn thời hạn tạm giam điều tra tối đa là 3 tháng; đối với tội phạm nghiêm trọng thì thời hạn điều tra tối đa là 8 tháng còn thời hạn tạm giam bị can để điều tra là 6 tháng; với tội rất nghiêm trọng thì thời hạn điều tra là 9 tháng và tội đặc biệt nghiêm trọng là 16 tháng nhứng thời hạn tạm giam chỉ có 12 tháng.
Với việc quy định thời hạn tạm giam để điều tra một vụ án hình sự ít hơn thời gian điều tra sẽ dẫn đến tình trạng vụ án chưa điều tra xong nhưng đã phải trả tự do cho bị cáo bởi hết thời hạn tạm giam. Điều này dễ dẫn đến tình trạng bị can được thả sẽ bỏ trốn, hủy bỏ tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án mà bị cáo cất giữ.. và gây khó khăn không nhỏ cho việc điều tra, truy tố, xét xử.
Để khắc phục tình trạng này, cần sửa đôi các quy định tại Điều 119 và 120 BLTTHS 2003 sao cho thời hạn tạm giam để điều tra và thời hạn điều tra như nhau, như vậy sẽ tạo thuận lợi cho công tác điều tra.
c.2. Thời hạn tạm giam để truy tố
Khoản 2 Điều 166 BLTTHS 2003 quy định: “Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; yêu cầu cơ quan điều tra truy nã bị can. Thời hạn tạm giam để truy tố không được quá thời hạn quy định tại khoản 1 điều này”.
Khoản 1 Điều 166, thời hạn tạm giam để truy tố là “20 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, 30 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.. Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng Viện kiểm sát có thể gia hạn nhưng không quá 10 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; không quá 15 ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng; không quá 30 ngày đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng”.
Khoản 3 Điều 166 quy định: “Trong trường hợp truy tố thì trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến Tòa án”.
Khoản 3 Điều 166 chưa quy định việc áp dụng biện pháp tạm giam trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày Viện kiểm sát gửi hồ sơ và bản cáo trạng sang Tòa án. Ta đặt ra tình huống, với một tội phạm nghiêm trọng, khi vừa hết thời hạn quyết định ra truy tố tức là 45 ngày (bao gồm cả thời gian gia hạn), Viện kiểm sát mới ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng. Theo quy định tại khoản 3 Điều 166 thì Viện kiểm sát còn thời hạn 3 ngày để làm thủ tục chuyển hồ sơ và bản cáo trạng sang Tòa án nhưng lúc này thời hạn tạm giam đã hết; vì vậy không thể áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can và không thể tiếp tục tạm giam bị can.
Để giải quyết vướng mắc này, thì khoản 3 Điều 166 cần có quy định bổ sung theo hướng: “Trong trường hợp truy tố thì trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng bản cáo trạng, Viện kiểm sát phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng đến Tòa án. Nếu thời hạn tạm giam đối với bị can đã hết mà không có căn cứ thay thế, hủy bỏ biện pháp tạm giam, Viện kiểm sát có thể tiếp tục tạm giam bị can trong thời hạn 3 ngày để làm thủ tục chuyển hồ sơ và bản cáo tranạg đến Tòa án”.
c.3. Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử sơ thẩm
Điều 177 BLTTHS 2003 quy định: “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 176 của Bộ luật này. Đối với bị cáo đang tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử, thì Tòa án ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa”.
Quy định này là hoàn toàn phù hợp vì tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, đụng chạm trực tiếp tới quyền lợi chính trị, tự do của con người. Vì vậy, quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp tạm giam nói riêng cũng phải vì con người. Quy định này sẽ hạn chế việc tạm giam một cách tùy tiện của các cơ quan có thẩm quyền.
c.4. Thời hạn tạm giam để xét xử phúc thẩm
Điều 243 BLTTHS 2003 quy định: “Thời hạn tạm giam để xét xử luôn bằng thời hạn xét xử phúc thẩm quy định Điều 242 của Bộ luật này”.
Như vậy, theo quy định của điều luật này thì thời hạn tạm giam để xét xử luôn bằng với thời hạn xét xử, việc tạm giam trong thời hạn này là có cơ sở và cần thiết nhằm bảo đảm quá trình xét xử.
c.5. Thời hạn tạm giam để đảm bảo việc thi hành án
Ngay sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm, Hội đồng xét xử có thể quyết định việc tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.
Điều 228 BLTTHS 2003 quy định về việc áp dụng biện pháp tạm giam bị cáo sau khi tuyên án: “Đối với bị cáo đang tạm giam mà bị phạt tù nhưng đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án.. Trong trường hợp bị cáo không bị tạm giam nhưng bị phạt tù thì họ chỉ bắt tạm giam để chấp hành hình phạt tù khi bản án có hiệu lực pháp luật. Hội đồng xét xử có thể ra quyết định bắt tạm giam bị cáo nếu có căn cứ cho thấy bị cáo có thể trốn hoặc tiếp tục phạm tội”.
Việc áp dụng tạm giam bị cáo sau phiên tòa phúc thẩm được quy định tại khoản 3 Điều 243 BLTTHS 2003: “Đối với bị cáo đang bị tạm giam bị xử phạt tù mà đến ngày kết thúc phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm giam bị cáo để đảm bảo việc thi hành án”.
4. Chế độ tạm giữ, tạm giam
Chế độ tạm giữ, tạm giam không quy định riêng biệt mà được quy định chung tại Điều 89 BLTTHS 2003:
“Chế độ tạm giữ, tạm giam khác với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù.
Nơi tạm giữ, tạm giam, chế độ sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với gia đình và các chế độ khác được quy định thực hiện theo quy định của Chính phủ”.
Để hướng dẫn cụ thể về chế độ tạm giữ, tạm giam, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 89/1998/NĐ-CP ngày 7/11/1998 về quy chế tạm giữ, tạm giam. Ngày 27/11/2002, Chính phủ lại ban hành Nghị định số 98/2002/NĐ-CP để sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế này.
Nội dung của quy chế đề cập tới các vấn đề liên quan đến việc thực hiện chế độ tạm giữ, tạm giam và chế độ đối với người bị tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên, Nghị định đã được ban hành cách đây hơn 10 năm, nền kinh tế của đất nước đã có nhiều thay đổi, mức sống của nhân dân được nâng cao rõ rệt dẫn đến tình trạng nhiều nội dung trong Quy chế không còn phù hợp với tình hình hiện nay. Quy chế về tạm giữ, tạm giam đã bộc lộ nhiều hạn chế bất cập như:quy định chế độ ăn mặc, ở, sinh hoạt, chữa bệnh không có sự khác biệt so với người đang chấp hành hình phạt tù; việc thông báo và tiếp xúc của đại diện lãnh sự nước ngoài đối với người bị tạm giữ, tạm giam chưa được pháp luật quy định cụ thể nên trong quá trình thực hiện đã mang lại nhiều lúng túng, khó khăn..
Trong thời gian tới Chính phủ nên quy sửa đổi một số điều của Quy chế về tạm giữ, tạm giam để đảm bảo cho
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nhận xét, đánh giá những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về biện pháp tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự và nêu hướng hoàn thiện các quy địn.doc