MỤC LỤC
I. Đôi nét về sự hình thành Phật giáo 1
II. Giáo lý Phật giáo 1
1. Nội dung 2
2. Nhận xét về giáo lý Phật giáo 10
III. Kết luận 18
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3256 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nhận xét về giáo lý Phật giáo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tớch tập, cỏc phiền nóo tụ hội tạo thành năng lực đưa đến khổ đau; đây là nguyên nhân, là nguồn gốc của các khổ. Khi nhận thức được bản chất của khổ một cách rừ ràng, ta mới cú thể đi vào con đường đoạn tận khổ đau (Đạo đế).
Cuộc đời là khổ đau hay không khổ? Câu trả lời là tùy thuộc vào thái độ tâm lý, cảm thọ và nhận thức của mỗi người; nguyên nhân của khổ có nguồn gốc sâu xa trong tâm tưởng của con người. Phật giáo cũng nhỡn thấy cỏc nguyờn nhõn của đau khổ; cú cỏi phỏt sinh từ vật chất hay hoàn cảnh xó hội, nhưng nguyên nhân thật sự vẫn là tâm thức.
Nguyên nhân của khổ thường được các kinh đề cập chính là tham ái, do tham ái mà chấp thủ, bám víu vào các đối tượng của tham ái. Sự khao khát về dục lạc sẽ dẫn đến khổ đau, bởi vỡ lũng khao khỏt ấy khụng bao giờ thỏa món.
Nguyên nhân sâu hơn và căn bản hơn chính là vô minh, tức là si mê không thấy rừ bản chất của sự vật hiện tượng đều nương vào nhau mà sinh khởi, đều vô thường và chuyển biến, không có cái chủ thể, cái bền vững độc lập ở trong chúng. Do không thấy rừ nờn sinh tõm tham muốn, ụm giữ lấy cỏc đối tượng lạc thú. Do không thấy rừ mới lầm tưởng rằng "cái tôi" là quan trọng nhất, là cái có thực cần phải bám víu, củng cố và thỏa món nhu cầu của nú. Núi cỏch khác, do vô minh mà có chấp thủ "cái tôi" và "cái của tôi" như thân tôi, tỡnh cảm tụi, tư tưởng tôi..., người yêu của tôi, tài sản của tôi, sự nghiệp của tôi... Do những chấp thủ ấy mà có những nỗi thống khổ của cuộc đời.
Tóm lại, chỳng ta cú thể nhận thấy một cỏch rừ ràng, khổ hay không là do lòng mình; lòng mình đầy tham lam, chấp thủ, nhận thức sai lầm thì khổ là chắc chắn. Nói cách khác, do cái nhìn của mỗi người đối với cuộc đời mà có khổ hay không. Nếu không bị sự chấp ngó và dục vọng vị kỷ hay phiền nóo khuấy động, chi phối, ngự trị trong tâm thỡ cuộc đời đầy an lạc, hạnh phúc.
3)- Diệt đế (Nirodha): Diệt là chấm dứt, là dập tắt. Diệt đế là sự chấm dứt hay dập tắt phiền nóo, nguyờn nhõn đưa đến đau khổ và sự chấm dứt khổ đau; cũng có nghĩa là hạnh phúc, an lạc. Diệt đế đồng nghĩa với Niết bàn (Nirvana/Nibbàna).
Đạo Phật xác nhận cuộc đời đầy dẫy những đau khổ, đồng thời cũng xác định có một sự thật khác nữa là an lạc, hạnh phúc. Vỡ vậy mà cú sự tu tập để đạt được hạnh phúc. Hạnh phúc là gỡ? Hạnh phỳc có các mức độ khác nhau.
a)- Hạnh phúc tương đối: Một khi bạn đó làm lắng dịu lũng tham ỏi, chấp thủ, thỡ những nỗi lo õu, sợ hói, bất an giảm hẳn, thõn tõm của bạn trở nờn thanh thản, đầu óc tỉnh táo; bạn nhỡn mọi vấn đề trở nên đơn giản và rộng lượng hơn. Đó là một hỡnh thức của hạnh phỳc. Kinh Trung Bộ cú một vớ dụ: Cú một người con trai đang yêu một cô gái. Tỡnh cờ, anh ta bắt gặp cụ gỏi núi chuyện, cười đùa với một chàng trai khác. Tâm hồn của người con trai đang yêu ấy bị xáo trộn mạnh mẽ, khó chịu, bực bội và đau khổ. Thời gian sau, người con trai ấy không cũn yờu thương cô gái ấy nữa; lần này, anh ta gặp cô ái ấy đang nói chuyện, cười đùa với những chàng trai khác, nhưng hỡnh ảnh ấy khụng làm tõm hồn anh ta đau đớn nữa. Cũng vậy, nhờ tâm trí không bị chi phối bởi những tư tưởng chấp thủ, nhờ không bị đun nóng bởi các ngọn lửa phiền muộn, lo lắng, sợ hói, mà tõm ý của bạn trầm tĩnh và sỏng suốt hơn, khả năng nhận thức sự vật hiện tượng sâu sắc và chính xác hơn, bạn tạo nên một phép lạ: thân tâm được chuyển hóa, thái độ ứng xử của bạn đối với mọi người độ lượng, bao dung và khiêm tốn; đối với của cải, tài sản, danh vọng trở nên thanh thản hơn, không cũn bị ỏp lực của nú đè nặng lên trái tim mỡnh. Trờn cơ sở ấy, bạn hưởng thụ đời sống có phẩm chất hơn.
Tóm lại, tùy vào khả năng giảm thiểu lũng tham, sõn và vụ minh đến mức độ nào thỡ đời sống của bạn sẽ được tăng phần hạnh phúc lên mức độ ấy.
Nếu bạn phát triển hạnh phúc tinh thần cao hơn bằng cách tu tập thiền định thỡ bạn sẽ cú sự an lạc tuyệt vời. Đức Phật dạy: "Có người có thể không bị bệnh về thể xác trong một năm hay có thể đến cả trăm năm, nhưng thật hiếm có người không bị bệnh về tinh thần, dù chỉ trong một phút". Những tâm lý được coi là bệnh của tinh thần gồm có 5 trạng thái tâm lý, thường gọi là 5 triền cái: tham lam, sân hận, hôn trầm ngủ nghỉ, dao động và hối hận, hoài nghi và do dự. Khi 5 loại tâm lý này cú mặt, nú sẽ trúi buộc và ngăn che tâm trí bạn; loại trừ chúng thỡ tinh thần sẽ sỏng tỏ thanh tịnh và an lạc như mặt trăng thoát khỏi mây che. Các trạng thái hạnh phúc tinh thần này được gọi là Tứ thiền.
b)- Hạnh phúc tuyệt đối: Trên nền tảng hạnh phúc tinh thần, bạn phát triển tuệ quán, hướng tâm đến đoạn trừ toàn bộ phiền nóo vi tế, thõm sõu, bạn cú thể đạt hạnh phúc tuyệt đối, tối thượng là Niết bàn. Diệt đế chính là Niết bàn. Niết bàn là sự thanh tịnh, là hạnh phúc tuyệt đối. Đức Phật dạy: "Vô bệnh lợi tối thắng, Niết bàn lạc tối thắng" (K.Magandiya, TBK II).
Niết bàn cũn được diễn tả dưới nhiều danh từ khác nhau, tiêu biểu như: vô sanh, giải thoát, vô vi, vô lậu, đáo bỉ ngạn, tịch tịnh, chân như, thực tướng, pháp thân... Niết bàn không phải là đối tượng của tư duy, khái niệm hay ngôn ngữ. Đây là trạng thái an lạc, hạnh phúc tuyệt đối khi tâm ý đó vắng mặt tham, sõn, si.
Chúng ta thường quan niệm Niết bàn như một cảnh giới, một cừi nào đó cao cấp hơn cừi người, như là cừi thiờn đường của các tôn giáo khác; đó là một sai lầm lớn. Niết bàn vượt thoát mọi khái niệm đối đói về thời gian, khụng gian, cú, khụng, lớn, nhỏ... Dự vậy, Niết bàn khụng phải là hư vô, mà là một thực tại thanh tịnh, siêu việt, không nằm trong phạm vi phân biệt của ý thức, hay nói cách khác, không thể nhận thức được Niết bàn khi đang cũn tham, sõn, si. Một vị Thiền sư nói: "Hóy nhỡn những rặng nỳi, những con suối chảy, những rừng cây xanh ngắt đẹp tuyệt vời kia. Khi biết nhỡn mọi vật với một nhón quan mới, một nhón quan khụng bị chi phối bởi tham sõn si, thỡ cảnh đẹp kia chính là Niết bàn đó ! Niết bàn không phải là một nơi chốn nào khác biệt với thế gian, một cảnh giới nào mà người ta có thể tỡm đến. Niết bàn chính là ở đây". Đức Phật và các vị Bồ Tát, A La Hán đó đạt Niết bàn ngay trong đời sống này. Điều đó nghĩa là Niết bàn nằm ngay trong tầm tay của mỗi người. Biểu hiện của Niết bàn là không cũn tạo nghiệp và khụng cũn tỏi sinh.
4)- Đạo đế (Magga): Đạo là con đường, là phương pháp thực hiện để đạt được an lạc, hạnh phúc trong đời sống hàng ngày hay hạnh phúc tuyệt đối Niết bàn. Như vậy, toàn bộ giáo lý mà Đức Phật đó dạy đều là Đạo đế, tổng quát và căn bản gồm có 37 pháp, thường gọi là 37 phẩm trợ đạo. Đức Phật dạy: "Này các Tỳ kheo, đây là những pháp do ta chứng ngộ và giảng dạy, các con phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập, truyền bá rộng rói để chánh pháp được trường tồn, vỡ hạnh phỳc cho chỳng sinh, vỡ an lạc cho chỳng sinh, vỡ lũng thương tưởng cho đời, vỡ hạnh phỳc, vỡ an lạc cho chư Thiên và loài người. Đó là Bốn niệm xứ, Bốn chánh cần, Bốn thần túc, Năm căn, Năm lực, Bảy Bồ đề phần, Tám thánh đạo phần" (kinh Đại Bát Niết Bàn).
Trong 37 phỏp thỡ Tỏm thỏnh đạo được coi là tiêu biểu và căn bản nhất của Đạo đế. Tám thánh đạo, cũn gọi là Tỏm chỏnh đạo - con đường chân chính - có 8 chi phần:
1)- Chính kiến (Sammà Ditthi): Thấy và hiểu đúng đắn, nghĩa là nhận thức đúng về đạo đức của cuộc sống, cái nào là thiện, cái nào là ác. Nhận biết đúng về bản chất của sự vật là vô thường, vô ngó, duyờn sinh. Nhận thức rừ bản chất của khổ, nguyờn nhõn của khổ, sự diệt khổ và con đường đưa đến hết khổ.
2)- Chánh tư duy (Sammà Sankappa): Suy nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng để đầu óc của mỡnh nghĩ ngợi những vấn đề bất thiện như tham dục, tức tối giận hờn, bạo động hóm hại... dẫn tư duy của mỡnh hướng về tâm cao thượng như tư duy về sự buông thả, sự giải thoát, về thương yêu giúp đỡ chúng sinh, về sự bất bạo động, nhẫn nhục, trầm tĩnh.
3)- Chính ngữ (Sammà Vàcà): Ngôn ngữ đúng đắn, nghĩa là không nói những lời đưa đến đau khổ, chia rẽ, hung bạo, căm thù. Nói những lời lẽ đưa đến xây dựng niềm tin, đoàn kết hũa hợp, thương yêu và lợi ích.
4)- Chính nghiệp (Sammà Kammanta): Hành vi đúng đắn, nghĩa là không có hành vi giết hại, trộm cướp, hành dâm phi pháp. Thực hành sự thương yêu, cứu giúp, không ham muốn thú vui bất thiện.
5)- Chính mạng (Sammà Ajivà): Đời sống đúng đắn, nghĩa là phương tiện mưu sinh, nghề nghiệp chân chính, không sống bằng những nghề phi pháp, độc ác, gian xảo.
6)- Chỏnh tinh tấn (Sammà Vàyàma): Nỗ lực đúng đắn, nghĩa là nỗ lực đoạn trừ điều ác, nỗ lực thực hành điều thiện.
7)- Chính niệm (Sammà Sati): Nhớ nghĩ đúng đắn, nghĩa là đừng nhớ nghĩ các pháp bất thiện, đừng để cho các đối tượng bất chính dẫn dắt mỡnh đi lang thang. An trú tâm ý vào thiện phỏp, khụng quờn thiện phỏp.
8)- Chánh định (Sammà Samàthi): Tập trung tư tưởng đúng đắn, nghĩa là đừng để tâm thức bị rối loạn, tập trung tư tưởng làm an tịnh tâm thức một cách đúng đắn, cú hiệu quả phỏt triển tuệ giỏc.
Mối quan hệ giữa các chi phần Bát chánh đạo là không thể phân ly, chi phần này có trong chi phần kia, cái kia hỗ trợ cho cái này. Tám chánh đạo có thể chia làm 3 bước là Giới, Định và Tuệ. Giới là Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng; Định là Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định; Tuệ là Chánh kiến, Chánh tư duy. Xác định Bát chánh đạo là con đường đưa đến giải thoát, Đức Phật dạy: "Này Subhadda, trong pháp luật nào không có Bát thánh đạo thỡ ở đấy không có Tứ quả Sa môn" (kinh Đại Bát Niết bàn, TB I). Đức Phật dạy thêm: "Nếu những Tỳ kheo sống chân chính (theo Bát chánh đạo) thỡ cừi đời này không thiếu vắng những vị A La Hán".
Con đường tu tập của Đạo đế là con đường nỗ lực tự thân của mỗi hành giả Phật tử; con đường ấy vừa thực tiễn vừa có hiệu quả ngay tại đời sống này.
Tu tập Bốn chõn lý
Giáo lý đạo Phật không phải là một học thuyết, mà là một cụng trỡnh tu tập, cú thực hành mới biến lý thuyết thành thực tiễn, thành chất liệu sống trong mỗi con người, như ăn cơm mới no, uống nước mới hết khát. Đó là chỗ khó khăn của người Phật tử, không thể nhờ cậy vào ai tu giúp cho mỡnh, hoặc ai ban cho mỡnh được giải thoát, hết khổ.
Trong kinh đưa ra 3 giai đoạn nhận thức và hành trỡ đối với Bốn chân lý, thuật ngữ gọi là Tam chuyển: Thị chuyển, Khuyến chuyển, Chứng chuyển.
1)- Đối với Khổ đế: Thị chuyển là nhận thức, hay nhận diện cái khổ. Thấy được khổ là bước đầu tiên; nếu không thấy, không biết thỡ sẽ khụng cú hành động diệt khổ. Khuyến chuyển là đi sâu hơn vào bản chất cái khổ, khởi lên ước muốn đoạn trừ khổ. Chứng chuyển cảm nhận một cách sâu sắc và toàn diện về bản chất của khổ đau.
2)- Đối với Tập đế: Thị chuyển là nhận diện nguyên nhân đưa đến đau khổ. Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn đoạn trừ các nguyên nhân ấy. Chứng chuyển là tu tập, nỗ lực để đoạn trừ chúng.
3)- Đối với Diệt đế: Thị chuyển là nhận thức được sự vắng mặt của đau khổ là hạnh phúc, là không có đau khổ, ta phải thấy điều ấy. Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn được hạnh phúc, hưởng được niềm vui, thanh thản an lạc của đời sống. Chứng chuyển là đạt được, hưởng thụ thật sự trạng thái an lạc ấy.
4)- Đối với Đạo đế: Thị chuyển là nhỡn thấy con đường, thấy được phương pháp diệt khổ, thấy rừ rằng đây là con đường đưa đến giải thoát; nói cách khác, thấy được lối thoát ! Khuyến chuyển là khởi lên ước muốn đi trên con đường ấy, khởi hành trên lộ trỡnh ấy. Chứng chuyển là đi trên con đường ấy một cách trọn vẹn.
Tóm lại, đối với mỗi chân lý, chúng ta đều phải nhận thức rừ ràng. Từ nhận thức thụng suốt sẽ dẫn đến ước muốn hành động, và cuối cùng đạt được mục đích. Chúng ta phải thấy rừ diễn biến của hành vi, ngụn ngữ và tư duy của chính mỡnh, cỏi nào cú đau khổ, gây ra đau khổ, ta phải nhận diện và diệt trừ chúng; ta chuyển hóa nó để hưởng được niềm an bỡnh hạnh phỳc của Diệt đế. Hạnh phúc hay đau khổ đều xuất phát từ nơi thân tâm của chúng ta.
2. Nhận xét về giáo lý Phật giáo
Giáo lý Phật giáo mang tính giáo dục cao:
Lịch sử cho chúng ta thấy có những tôn giáo, những chủ thuyết tỏ ra sáng giá một thời, nhưng khi trải qua những thử thỏch khắt khe của thời gian thỡ liền chỡm vào quờn lóng. Tại sao vậy? Tại vỡ nú thiếu những nguyờn tắc chỉ đạo đúng đắn và thiếu các tu sĩ để duy trỡ. Phật giỏo núi riờng, cỏc tụn giỏo khỏc núi chung, tỏ ra đủ sức mạnh để tồn tại với thời gian là vỡ cú những nguyờn tắc sống tương đối hoàn chỉnh và có các tu sĩ thuộc thành phần cốt cán để duy trỡ. Cỏc tu sĩ thường có bổn phận giữ gỡn những giới luật mang tớnh chất giỏo dục rất đa dạng, nhằm hướng dẫn cuộc sống của mỡnh đến chỗ hoàn thiện. Sau đây, chỳng tụi xin trỡnh bày về tớnh chất giỏo dục trong giới luật của đạo Phật.
- Phật huy lũng từ bi, cứu khổ: éức từ bi, cứu khổ gần như là đặc trưng của Phật giáo. Nói đến đạo Phật, người ta nghĩ ngay đến "cửa từ bi", "đạo cứu khổ", vỡ đó là bản chất của Phật giáo, nên kinh điển và giới luật luôn đề cập đến. Giới thứ 9 của Bồ tát nói: "Không được giận dữ kẻ khác, mà phải phát khởi từ tâm tha thứ những lỗi lầm của họ". Giới thứ 21 lại bảo: "Không được đem sự thù hận để đáp lại sự thù hận, không được đem sự đánh đập trả lại sự đánh đập, không mang tâm niệm trả thù những kẻ đó tàn sỏt những người thân yêu của mỡnh. Túm lại, tàn sỏt sự sống để trả thù sự sống là hành vi trái với đạo hiếu sinh của Bồ tát". Cố nhiên, "hại nhân nhân hại", "sát nhân thường mạng" đó là lẽ thường tỡnh của cuộc đời, nhưng cứ "dĩ oán báo oán" thỡ oỏn oỏn sẽ chập chựng, vũng nhõn quả "vay trả trả vay" sẽ trở nờn bất tận khiến cho những nỗi khổ đau của kẻ khác và của chính mỡnh sẽ khụng bao giờ kết thỳc. Thế nờn éức Phật dạy cỏc đệ tử của Ngài phải "dĩ đức báo oán" thỡ mới chuyển hóa được oan gia trở thành bạn lữ. Tha thứ và cứu giúp kẻ khác là trách nhiệm của hàng đệ tử đấng Giác ngộ, như trong giới thứ 6 Bồ tát trỡnh bày: "Nếu cú người đến cầu xin, thỡ người Phật tử phải tùy theo khả năng của mỡnh mà giỳp đỡ họ", và "Khi thấy người bệnh tật, người Phật tử phải cứu giúp họ như phụng sự chư Phật". Giúp đỡ người cùng khốn, cứu chữa kẻ bệnh tật là việc ai cũng làm được và đều có nghĩa vụ phải làm chứ không riêng gỡ đệ tử của Phật. éiều đáng nói ở đây là đức Phật xem những việc từ thiện đó như là biểu lộ sự quan tâm và phụng sự chính Ngài. Lời khuyên dạy này nói lên tấm lòng nhân ỏi bao la của đức đạo sư, chính vỡ thế mà nhân loại tôn xưng Ngài là đấng Từ bi và đạo của Ngài là đạo Cứu khổ.
Đức từ bi của Phật không những nhằm cho con người mà cũn phổ cập đến cả muôn loài qua giới "Không sát sinh" (giới thứ nhất của người tại gia). Nhưng muốn giữ trọn vẹn giới không sát sinh, người thọ giới Bồ tát cũn phải giữ giới "Khụng ăn thịt" (giới 20 của Bồ tát); không ăn thịt là thể hiện trọn vẹn lũng từ bi của éức Phật và của hàng đệ tử Phật đối với muôn loại sinh linh.
- Thực hiện nếp sống tri túc, kiệm ước: Muốn giúp đỡ kẻ khác hữu hiệu, đúng ý nghĩa thỡ chớnh bản thõn mỡnh phải sống bằng một nếp sống kỷ cương và tri túc. Do đó, các vị Tăng sĩ phải tuân thủ những giới điều như: "Chỉ may sắm ba y, dùng một bỡnh bỏt, một tọa cụ v.v... Ngoài ra, nếu cú thớ chủ cỳng dường thêm thỡ phải đem bố thí cho kẻ khác. Vị Tỷ kheo phải dùng ngọa cụ đủ 6 năm mới được thay cái mới, phải dùng bỡnh bỏt cho đến khi vỡ mới được sắm cái khác. Không được thu góp, cất chứa vàng bạc châu báu làm của riêng mỡnh (ngoại trừ trường hợp giữ gỡn cho tập thể). Thầy Tỷ kheo khụng được nằm giường cao, nệm êm, không được trang sức hoa mỹ". Tất cả đều nói lên tinh thần ít muốn, biết đủ, sống giản dị nhằm đoạn trừ lũng tham, dốc tõm tu học hầu đạt đến an lạc thật sự. Người xuất gia cũn phải giữ giới "Khụng ăn phi thời (ăn không đúng giờ), không ăn nhiều bữa, không chuộng thức ngon v.v...". Tóm lại, người xuất gia cũn phải tuõn thủ phương châm "Tam thường bất túc", nghĩa là ba sự ăn, mặc và ngủ không được quá thừa thói, sung tỳc. Bởi vỡ, nếu sự hưởng thụ vật chất quá sung món thỡ dễ làm cho tinh thần người ta trở nên nhu nhược, chậm lụt. Nói như thế không có nghĩa là đạo Phật chủ trương trở về cuộc sống lạc hậu. Phật giáo không bao giờ phủ nhận những giá trị của các phương tiện văn minh vật chất, vỡ cuộc sống con người cần phải được ăn ngon, mặc đẹp, hưởng thụ những nhu cầu cần thiết. Tuy nhiên, cái gỡ thỏi quỏ cũng đều không hay. Phật giáo không chủ trương con người phải sống nghèo đói, thiếu thốn, mà chỉ cổ vũ tinh thần tri túc, tiết kiệm, vừa mức trung bỡnh. Cú như vậy mới không bị sự sung món cỏm dỗ, và nhờ thế mới cú thỡ giờ và điều kiện quan tâm giúp đỡ, chia sẻ mọi nỗi thống khổ của những người thiếu may mắn.
- Thanh liêm, cũng chính, tôn trọng tài sản kẻ khác: đức thanh liêm cũng chính là đức tính cần thiết tạo nên niềm tin cậy và kính trọng lẫn nhau trong mối tương giao giữa cá nhân và xó hội.
Luật dạy, thầy Tỷ kheo muốn cử tội (phê bình) kẻ khác phải hội đủ 5 điều kiện sau đây thì lời cử tội mới cú giá trị:
a)- Nói đúng lúc, không bạ đâu nói đó.
b)- Nói chân thật, không nói hư ngụy.
c)- Nói có lợi ích, không nói vô ích.
d)- Nói nhó nhặn, không nói thô lỗ.
e)- Nói với từ tâm, không nói với ác tâm.
Điều này phự hợp truyền thống đạo đức mà ông cha ta đó dạy: "Tiờn xử kỷ, hậu lai xử bỉ - xột lỗi người phải biết xét lỗi mỡnh". Nghĩa là chớnh bản thõn mỡnh phải cụng tõm, chõn chớnh thỡ tỏc dụng xõy dựng mới đem lại kết quả, bằng ngược lại, nếu "Thân mỡnh khụng độ được, thỡ làm sao độ được thân người khác. Bệnh mỡnh khụng chữa được, thỡ làm sao chữa được bệnh tha nhân" (Thử thân bất độ, hà thân độ. Tự bệnh bất năng cứu, hà cứu bệnh nhân). Thiết tưởng đức công chính không chỉ có giới tu sĩ Phật giáo mới cần đến mà mọi người ai cũng phải có, nhất là những người cầm quyền chính và luật pháp lại càng cần nó hơn ai hết.
- Kính nhường bậc trưởng thượng, tôn trọng danh dự kẻ khác: éức hiếu thuận, kớnh cẩn là đức tính cao quý của con người, cho nên giới thứ 35 của Bồ tát nói: "Phải phát khởi tâm nguyện hiếu thuận với cha mẹ, tôn kính sư trưởng". Ngoài ra, đó là một đệ tử Bồ tát thỡ khụng được "khen mỡnh, chờ người" như giới thứ 7 của Bồ tát đề cập. Hơn thế nữa, giới này cũn núi: "Việc xấu thỡ tự nhận về cho mỡnh, việc tốt thỡ gỏn cho kẻ khỏc. Nếu làm trỏi lại, tự khoe cỏi hay của mỡnh, giấu cỏi tốt của người, làm cho họ phải chịu mọi sự phỉ báng thỡ đó là tội Ba-la-di của Bồ tát". Thiết nghĩ, hành động như vậy thật là cực kỳ cao thượng, mà có lẽ chỉ có hạng đại sĩ mới thực hiện được.
Nhằm xõy dựng cuộc sống tập thể lý tưởng, thân ái, hài hũa, giới Tăng tàn thứ 8, thứ 9 của Tỷ kheo nói: "Không được vu khống kẻ khác, không được giả tạo chứng cứ để vu oan giá họa cho người, cũng không được chụp mũ những người mà mỡnh khụng thớch". Thế cũn giới Ba-dật-đề thứ 23 thỡ bảo: "Khụng được chế nhạo bạn đồng phạm hạnh", và giới Ba-dật-đề thứ 55 cũn thờm: "Khụng được khủng bố, dọa nạt các bạn đồng tu". Nếu như trong một tập thể, ai nấy đều tuân thủ nghiêm chỉnh những điều giáo huấn trên đây thỡ sẽ khụng bao giờ xảy ra những việc xớch mớch. Do đó, sẽ đảm bảo được đời sống thanh tịnh an lạc cho chính mỡnh và mọi người. Tiến xa hơn nữa, nhằm mục đích mở rộng phạm vi giao lưu từ cá nhân đến đoàn thể xó hội và quốc gia, giới Bồ tát thứ 13 nói: "Không được vô cớ hủy báng những người hiền lương, đức hạnh, những vị pháp sư, quý nhõn và quốc vương". Với những nội dung như trên, quả thực giới luật bao hàm ý nghĩa rất là hoàn hảo. Nếu như tập thể nào, xó hội nào, quốc gia nào cũng khuyến khích mọi người áp dụng giới luật của Phật (chứ không riêng gỡ Phật tử), thỡ thử hỏi xó hội sẽ tốt đẹp biết chừng nào! Vỡ đó là những nguyên tắc sống rất nhân bản, rất đời thường và rất dễ thực hiện, ai cũng có thể vận dụng để hoàn thiện phẩm giỏ của chớnh mỡnh và gúp phần tạo dựng một cộng đồng nhân loại hũa bỡnh, an lạc.
Túm lại, qua những gỡ đó trỡnh bày trờn đây, chúng ta thấy giới luật của éức Phật dạy con người phỏt huy lũng từ bi, cứu khổ; thực hiện nếp sống tri tỳc, kiệm ước; giữ gỡn đức thanh liêm công chính, tôn trọng tài sản kẻ khác; kính nhường bậc trưởng thượng, tôn trọng danh dự kẻ khác... Thiết nghĩ, đây là những nguyên tắc giáo dục rất lý tưởng không riêng gỡ cho đệ tử của Phật mà là cho tất cả mọi hạng người, không riêng gỡ cho thời đại éức Phật mà là cho tất cả mọi thời đại, nhất là trong thời đại văn minh tiến bộ ngày nay.
Phật giáo giúp chung ta nhận thức đựoc chinh mình:
Thông thường chúng ta có hai con mắt, có thể nhỡn thế gian, nhỡn vạn vật, nhỡn người khác chớnh xỏc, rừ ràng. Nhưng lại không nhỡn được chính mỡnh.
Núi rừ hơn, con người có tầm thức phân biệt, có thể nhận thức người khác, nhận thức sự vật, nhận thức thế giới, nhưng không nhận thức được chính mỡnh. Lại nữa, con người chúng ta có thể nhỡn thấy được lỗi lầm sai trái của người khác rất rừ ràng, nhạy bộn, nhưng lại không nhỡn thấy được khuyết điểm của chính mỡnh. Nhỡn thấy được sự tham muốn của người khác mà không nhỡn thấy được các tập khí, các tiểu khí của chính mỡnh. Nhỡn thấy được tà kiến của người khác, nhưng không thấy được cái ngu si của chính mỡnh.
Chúng ta có thể nhận thức được sự hoạt động của thế giới; có thể nhận thức được lịch sử, nhận thức được xó hội, nhận thức được thân thích bằng hữu, nhưng rồi cũng không thể nhận thức được chính xác chớnh mỡnh.
Như vậy bằng giáo lý Phật giáo thì con người có thể nhìn ra bản ngã của mình thông qua thì biết sống thế nao cho tốt sống thế nào cho hợp với lương tâm của một con người sống không chỉ vì mình mà còn sống vì mọi người .Đấy là chân lý mà Phật giáo muốn nhắc nhở mỗi người.
Tuy nhiên, trên đời này không có bất cứ một thứ gỡ là hoàn hảo tuyệt đối, giới luật của Phật cũng không ra ngoài công lệ ấy, cho nên khó mà tránh khỏi một vài nhược điểm. éú là điều mà chúng ta sẽ bàn đến trong phần sau đây:
Giáo sử cho chúng ta biết rằng trong giai đoạn đầu, Phật chỉ đề ra những nguyên tắc khái quát như thế mà chưa quy định thành những giới điều cụ thể. Thế nhưng, đến năm thứ 12 sau khi Phật thành đạo, trong hàng ngũ Tỷ kheo có người làm những việc sai trái khiến cho người đời chê trách, làm tổn thương đến thanh danh của Thánh chúng, gây trở ngại cho sự tu tập, do đó Phật mới tùy phạm tùy chế, nghĩa là vi phạm việc gỡ thỡ chế định ngay việc ấy. Thế rồi, dần dần trải qua thời gian, những giới luật mà Phật đó chế định được gom lại thành Ngũ thiên bát tụ (5 cột 8 nhóm) mà cụ thể là 250 giới của Tỷ kheo và 348 giới của Tỷ kheo ni theo luật Pàli. Tất nhiên, ở đây có sự dị biệt giữa Nam tông và Bắc tông, nhưng rất nhỏ, không đáng kể.
Đó là sự hình thành của giới luật thời Phật cũn tại thế và được kết tập lần đầu sau khi Phật nhập Niết bàn. Thế rồi, các đệ tử của Phật căn cứ theo đó mà hành trỡ cho đến ngày nay. Thiết nghĩ không gian và thời gian luôn luôn thay đổi, nếu cứ áp dụng nguyên xi một thứ giới luật được quy định từ thời éức Phật thỡ khú mà trỏnh khỏi cú nhiều điều bất cập. Chúng ta thấy rằng những bản hiến pháp và những bộ luật của thế gian luôn luôn được cập nhật hóa (bằng cách thay đổi và bổ sung) thỡ mới thớch ứng được với sự biến đổi của hoàn cảnh và thời đại. Nếu như chúng không được điều chỉnh và bổ sung đúng lúc thỡ sau một thời gian, ắt hẳn sẽ cú nhiều điều trở nên lỗi thời và vô tác dụng. éú là quy luật đào thải rất khắt khe của vạn sự trong vũ trụ.
Thế cũn đối với giới luật thỡ sao? Chỳng ta biết rằng éức Phật sinh tại ấẽn éộ, cỏch nay 25 thế kỷ, và giới luật được chế định từ lúc đó. Nhưng mỗi quốc gia có những truyền thống văn hóa, khí hậu, địa lý, phong tục tập quỏn khỏc nhau và mỗi thời đại cũng luôn luôn tiến hóa đổi khác, thế thỡ giới luật của Phật có thể thích hợp với mọi không gian và mọi thời đại hay không? Và nếu như không hoàn toàn thích hợp thỡ tại sao cỏc đệ tử của Phật không điều chỉnh để cho phù hợp với từng không gian và từng thời đại.
Thiết nghĩ có mấy lý do như sau:
1. Giới luật chỉ do Phật chế định. Chúng ta biết rằng kinh do Phật thuyết, ngoài ra cũn do cỏc cao đồ của Phật cũng như những vị thánh hiền xưa nay tuyên thuyết, cũn luận thỡ do cỏc bậc cao tăng thạc học, các vị luận sư uyên bác mổ xẻ phân téch, chỳ giải kinh điển mà tạo thành. Thế nhưng, giới luật thỡ chỉ cú Phật chế định, ngoài ra không ai được phép chế định cũng như không đủ thẩm quyền để chế tác. éú là điều mà giáo sử đó khẳng định.
2. Lý do thứ hai là trong lần kết tập phỏp tạng thứ nhất, tụn giả A Nan cho tôn giả Ca Diếp biết rằng trước lúc nhập diệt, Phật có di chúc rằng trong những giới luật do Ngài chế định, sau này nếu các Tỷ kheo thấy có những giới nhỏ nào không cũn phự hợp thỡ cú thể tựy nghi bỏ đi. Ca Diếp bèn hỏi A Nan: "Vậy chứ Phật có nói cụ thể những giới nào được xem là nhỏ có thể bỏ đi hay không?", thỡ A Nan đáp rằng: "Phật không nói cụ thể". Do đó, tôn giả Ca Diếp kết luận: "Vỡ Phật khụng núi cụ thể, cho nờn, nếu giờ đây chúng ta cho rằng những giới éột-cỏt-la (ỏc hạnh) là nhỏ nhiệm nờn bỏ đi, thỡ cú người sẽ nói rằng không những giới éột-cỏt-la nờn bỏ đi mà giới Ba-la-đề-đề-xá-ni cũng nên bỏ đi. Rồi người khác lại nói, không những giới Ba-la-đề-đề-xá-ni nên bỏ mà giới Ba-dật-đề (bị đọa lạc) cũng nên bỏ v.v..., cứ như thế thỡ khụng biết đến đâu là giới hạn và trong đại chúng sẽ nảy sinh sự tranh cói, khú mà nhất trớ. Bởi vậy, tốt hơn hết là những gỡ Phật đó chế định, chúng ta phải kết tập đầy đủ (và khi áp dụng thỡ tựy nghi chõm chước), cũn những gỡ Phật khụng chế định thỡ chỳng ta khụng được tùy tiện đặt thêm". Chung cuộc, lời kết luận ấy đó được đại chúng đồng thanh nhất trí tán thành (2).
3. Lý do thứ ba là sự kiện éề Bà phỏ Tăng: éề Bà éạt éa (
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- NNH 24.doc