Tiểu luận Nhiệm vụ và quyền hạn của của Chủ tịch nước Việt Nam qua Hiến Pháp 1946 và 1959

Mục lục

A. Lời nói đầu 1

B. Nội dung 1

1. Vị trí của Chủ tịch nước trong Hiến Pháp 1946 và 1959 1

a. Trong Hiến Pháp 1946 1

b. Trong Hiến Pháp 1959 2

2. So sánh chế định Chủ tịch nước qua hai bản Hiến Pháp 1946 và 1959 2

2.1. Điểm giống nhau 2

2.2. Điểm khác nhau 2

2.2.1. Vị trí, tính chất và trật tự hình thành 3

2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước 5

2.2.3. Mối quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan khác 6

C. Kết luận 8

Danh mục tài liệu tham khảo.

 

 

 

 

doc11 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6482 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nhiệm vụ và quyền hạn của của Chủ tịch nước Việt Nam qua Hiến Pháp 1946 và 1959, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Lời mở đầu. Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Nhưng mỗi nước nguyên thủ quốc gia có tên gọi, khác nhau (vua, Hoàng đế, Tổng thống, Đoàn Chủ tịch hội đồng liên bang, Hội đồng Nhà nước, Chủ tịch nước), vị trí, chức năng khác nhau tuỳ thuộc vào thể chế chính trị và cách thức tổ chức nhà nước. Nhưng có một điểm chung là đều là người đứng đầu Nhà nước, đại diện cho Nhà nước về đối nội và đối ngoại. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946, 1959, 1992, riêng Hiến pháp năm 1980 Chủ tịch nước tồn tại dưới hình thức là Hội đồng Nhà nước, là một chế định nguyên thủ quốc gia tập thể. Về nhiệm vụ và quyền hạn của của Chủ tịch nước Việt Nam qua các bản Hiến Pháp khác nhau đều có những đặc điểm không giống nhau, đặc biệt là qua Hiến Pháp 1946 và 1959. B. Nội dung. 1. Vị trí của Chủ tịch nước trong Hiến Pháp 1946 và 1959. a. Trong Hiến Pháp 1946. Sau cách mạng tháng Tám, nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà ra đời là nhà nước dân chủ nhân dân. Sau tám mươi năm tranh đấu, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan. Nước nhà đã bước sang một quãng đường mới. Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn này là bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiết quốc gia trên nền tảng dân chủ.Với bản Hiến pháp 1946, bộ máy Nhà nước đã bước đầu được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền song vẫn còn mang nhiều cách tổ chức theo kiểu đại nghị, thể hiện ở Nghị viện nhân dân và chính phủ liên hiệp với sự đoàn kết rộng rãi ở các lực lượng, giai cấp, đảng phái. Sự ra đời của chế định Chủ tịch nước trong hiến pháp 1946 có thể nói bắt đầu từ chủ trương thành lập một chính phủ nhân dân cách mạng theo tinh thần đoàn kết rộng rãi tất cả các tầng lớp nhân dân. Những quy định về Chủ tịch nước không được tách thành một chương riêng biệt mà được quy định chung trong chương Chính phủ từ điều 43 đến điều 56. b. trong Hiến Pháp 1959. Hiến pháp năm 1959 được Quốc hội Khoá I, kì họp thứ 11 thông qua trong bối cảnh lịch sử Cách mạng Việt Nam chuyển sang thời kì mới. Nhà nước đứng trước hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất nước nhà. Đứng trước những yêu cầu mới của sự nghiệp cách mạng, Hiến Pháp cần có những thay đổi mới cho phù hợp hơn. Cho nên, bản Hiến pháp mới, Hiến pháp năm 1959 đã được thông qua. Đây là bản Hiến pháp thể hiện sự vận dụng mạnh mẽ nguyên tắc tập quyền XHCN trong tổ chức bộ máy Nhà nước, tất cả quyền lực tập trung vào Quốc hội. Trong bản Hiến pháp này, chế định nguyên thủ quốc gia vẫn là Chủ tịch nước, nhưng đã có những điểm thay đổi về căn bản so với chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946. Hiến pháp năm 1959 ghi nhận chế định nguyên thủ quốc gia tại chương V, gồm 10 điều (từ Điều 61 đến Điều 70). Việc ghi nhận chế định Chủ tịch nước thành một chương riêng biệt trong Hiến pháp chứng tỏ Hiến pháp năm 1959 có sự đổi mới rõ rệt so với Hiến pháp năm 1946. 2. So sánh chế định Chủ tịch nước qua hai ban Hiến Pháp 1946 và 1959. 2.1 . Những điểm giống nhau. Theo quy định của Hiến Pháp chế định Chủ tịch nước qua hai bản Hiến Pháp có những đặc điểm chung như sau: - Đều là nguyên thủ quốc gia (người đứng đầu Nhà nước ), thay mặt nhà nước trong đối nội và đối ngoại. - Do Quốc hội hay Nghị viện bầu ra. - Công bố lệnh đại xá, đặc xá. - Quyết định thưởng huân chương và các danh hiệu vinh dự của Nhà nước khác. - Công bố các đạo luật đã được Quốc hội hoặc Nghị viện phê chuẩn. 2.2 . Những điểm khác nhau. Tuy có những đặc điểm giống nhau nhưng chế định Chủ tịch nước theo hai bản Hiến Pháp nay có rất nhiều điểm khác biệt nhau. Đặc biệt là quyền hạn của Chủ tịch nước theo Hiến Pháp 1959 có xu hướng thu hep và quyền hạn của Quốc hội mở rộng. Có thể thấy qua bảng so sánh sau: Hiến pháp 1946 Hiến pháp 1959 Vị trí, tính chất và trật tự hình thành. Vị trí, tính chất. Về vị trí, tính chất của Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1946, từ những quy định về cách thức thành lập và thẩm quyền của Chủ tịch nước thì Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước đồng thời là người đứng đầu Chính phủ. Thiết chế Chủ tịch nước phái sinh từ Quốc hội - thực hiện các chức năng nguyên thủ Quốc gia. Như vậy, so với Hiến Pháp 1946 thì Chủ tịch nước chỉ còn có thẩm quyền là người đứng đầu Nhà nước. Quyền hạn đã bị thu hẹp hơn so với Hiến Pháp 1946. Nguyên thủ quốc gia Tính chất đứng đầu Nhà nước (nguyên thủ quốc gia) của Chủ tịch nước thể hiện ở chỗ: Chủ tịch nước thay mặt cho nước, giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, bổ nhiệm thủ tướng, Nội các, ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quyết nghị, thưởng huy chương và bằng cấp danh dự, đặc xá, kí hiệp ước với các nước, phái đại biểu Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước, tuyên chiến hay đình chiến.Vị trí đứng đầu Nhà nước này cũng giống như ở các nước dân chủ, là có sự phân công phối hợp giữa Nghị viện, Ban thường vụ và Chủ tịch nước. Chủ tịch nước được xác định là người đứng đầu Nhà nước nhưng không còn là người đứng đầu Chính phủ như trong Hiến pháp năm 1946. Chủ tịch nước thay mặt Nhà nước thực hiện các chức năng thuộc về đối nội, đối ngoại (Điều 61 Hiến pháp 1959). Sự phân định chức năng nguyên thủ giữa Chủ tịch nước, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chuyển sang hướng mới. Mọi quyền hạn quan trong đều thuộc về Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Chủ tịch nước chủ yếu thực hiện các công việc có tính đại diện cá nhân và tham gia nhất định vào các hoạt động của Nhà nước như lập pháp, thành lập các cơ quan Nhà nước, tặng thưởng huân chương, tuyên bố chiến tranh… nhưng đều dựa trên quy định của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội Người đứng đầu Chính phủ Tính chất đứng đầu Chính phủ thể hiện ở chỗ Chủ tịch nước Chủ tọa Hội đồng Chính phủ, cùng với Chính phủ ban hành các sắc lệnh quy định các chính sách thi hành các đạo luật và quyết định của Nghị viện. Theo Hiến Pháp 1959, Chủ tịch nước không nằm trong Chính Phủ mà tách riêng thành một chế định độc lập cho nên không có tính chất, chức năng của người đứng đầu Chính Phủ như Hiến Pháp 1946. Trật tự hình thành Về trật tự hình thành, Hiến pháp năm 1946 quy định tại Điều 45: "Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong Nghị viện nhân dân và phải được hai phần ba tổng số nghị viên bỏ phiếu thuận. Nếu bỏ phiếu lần đầu mà không đủ số phiếu ấy, thì lần thứ nhì sẽ theo đa số tương đối. Chủ tịch nước Việt Nam được bầu trong thời hạn 5 năm và có thể được bầu lại. Trong vòng một tháng trước khi hết nhiệm kỳ của Chủ tịch, Ban thường vụ phải triệu tập Nghị viện để bầu Chủ tịch mới.". Như vậy, theo Hiến Pháp thì Chủ tịch nước bắt buộc phải là thành viên của Nghị viện và phải được 2/3 số nghị viên bỏ phiếu thuận. Và nhiệm kỳ của Chủ tịch nước không theo nhiệm kỳ của Nghị viện. Trật tự hình thành của Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1959 được quy định trong Điều 62: "Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bầu ra. Công dân nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà từ ba mươi lăm tuổi trở lên có quyền ứng cử Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà theo nhiệm kỳ của Quốc hội". Theo Hiến Pháp 1959, Chủ tịch nước không nhất thiết phải là đại biểu Quốc hội, mà mọi công dân đủ từ 35 tuổi trở lên đều có quyền ứng cử, và nếu được quá nửa đại biểu Quốc hội bỏ phiếu thuận thì sẽ trở thành Chủ tịch nước. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. 2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước. Thẩm quyền đối với quốc gia. Thay mặt cho nước (Điểm a Điều 49); tổng chỉ huy quân đội và các lực lượng vũ trang (Điểm b Điều 49); kí hiệp ước với các nước (Điểm h Điều 49); _ Tiếp nhận đại diện toàn quyền ngoại giao của nước ngoài cử đến; cử, triệu hồi đại diện toàn quyền ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài. (Điều 64). _ Căn cứ vào quyết định của Quốc hội hoặc Ủy ban Thường vụ Quốc hội mà phê chuẩn hiệp ước kí với nước ngoài. (Điều 64). _ Thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc; giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng. (Điều 65). Thẩm quyền đối với lĩnh vực lập pháp và hành pháp. - Đối với quyền lập pháp: Chủ tịch nước là thành viên của Nghị viện có quyền yêu cầu Nghị viện về sự tín nhiệm Nội các; có quyền triệu tập phiên họp bất thường; và quyền phủ quyết tương đối các dự án luật (có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại các đạo luật trước khi ban bố). _ Về lĩnh vực lập pháp, Không phải là thành viên của Quốc hội. Chủ tịch nước có quyền: + Trình dự án luật ra trước Quốc hội và dự án pháp lệnh ra trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Điều 15 và 28 Luật Tổ chức Quốc hội 1960). Đối với quyền hành pháp: Chủ tịch nước là thành viên Chính phủ, trực tiếp điều hành Chính phủ bằng cách chủ toạ các phiên họp Chính phủ; Chủ tịch nước kí sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng Chính phủ, nhân viên Nội các và nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ (Điểm c Điều 49), các đại sứ (Điểm i Điều 49); kí các sắc lệnh của Chính phủ; yêu cầu Nghị viện thảo luận lại vấn đề tín nhiệm Nội các. _ Về lĩnh vực hành pháp, Chủ tịch nước tham gia thành lập Chính phủ (không còn là thành viên Chính Phủ); bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; bổ nhiệm, bãi miễn Phó Chủ tịch và các thành viên khác của Hội đồng Quốc phòng. (Điều 63. Để đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hiến pháp 1959 cũng quy định Chủ tịch nước, khi xét thấy cần thiết, có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ (Điều 66) hoặc triệu tập và chủ tọa Hội nghị chính trị đặc biệt (Điều 67). Tuy nhiên Chủ tịch nước không còn nằm trong Chính Phủ như Hiến Pháp 1946. Mối quan hệ với các cơ quan nhà nước khác. Với Ngị viện, Quốc hội. Chủ tịch nước có những quyền hạn lớn đối với Nghị viện như: yêu cầu Nghị viện thảo luận lại những luật mà Chủ tịch nước không đồng ý (Điều 31); Chủ tịch nước không phải chịu một trách nhiệm nào trừ khi phản bội Tổ quốc (Điều 50). Khác với Hiến pháp năm 1946, Chủ tịch nước không còn quyền yêu cầu Quốc hội thảo luận lại các dự án luật mà Quóc hội đã thông qua và Chủ tịch nước phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Điều đó cho thấy ở Hiến pháp năm 1959, vị trí của Chủ tịch nước gắn bó với Quốc hội hơn so với Hiến pháp năm 1946, và điều này phù hợp hơn với nguyên tắc tổ chức bộ máy Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Với Chính Phủ. Chủ tịch nước là người đứng đầu Chính phủ. Chủ tịch nước chọn Thủ tướng chính phủ trong Nghị viện; kí sắc lệnh bổ nhiệm Thứ trưởng và các nhân viên cao cấp khác thuộc cơ quan chính phủ (Điều 47, 48); mỗi sắc lệnh của Chính phủ phải có chữ kí của Chủ tịch nước, và phải có một hay nhiều Bộ trưởng thuộc lĩnh vực đó tiếp ký (Điều 53). Chủ tịch nước vẫn có vai trò khá lớn đối với Hội đồng Chính phủ. Chủ tịch nước đề nghị Thủ tướng để Quốc hội quyết định, căn cứ vào quyết định của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ mà bổ nhiệm, bãi miễn Thủ tướng, Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Hội đồng Chính phủ; khi cần thiết có quyền tham dự và chủ toạ các phiên họp của Hội đồng Chính phủ. Đây là những điểm kế thừa vị trí của Chủ tịch nước đối với Chính phủ ở Hiến pháp trước. Qua sự so sánh trên có thể thấy, Chủ tịch nước theo quy định của Hiến pháp năm 1959 có nhiều điểm rất khác biệt so với những quy định trong Hiến Pháp 1946, đặc biệt là có nhiệm vụ, quyền hạn rộng lớn hơn. Chủ tịch nước theo Hiến Pháp 1946 có vị trí tương tự như Tổng thống ở chế độ Cộng hoà Tổng thống hay Cộng hoà lưỡng tính tư sản. Đó là: Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà không những là người đứng đầu Nhà nước mà còn là người trực tiếp điều hành bộ máy hành pháp. Điểm d, Điều 49, Hiến pháp năm 1946 quy định: Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà có quyền chủ toạ Hội đồng Chính phủ. Nhưng lại khác với chính thể Cộng hoà Tổng thống ở chỗ: Chủ tịch nước không do nhân dân trực tiếp bầu ra hay gián tiếp bầu ra mà do Nghị viện bầu và phải là thành viên của Nghị viện. Một điểm khác với Chính thể Cộng hoà Tổng thống nữa, đó là bên cạnh người đứng đầu bộ máy hành pháp còn có một bộ máy có tính Hiến định, bảo đảm việc thực thi quyền lực hành pháp ở Nội các, bao gồm Thủ tướng, các Bộ trưởng và Thứ trưởng. Điều 47 Hiến pháp 1946 quy định: "Chủ tịch nước Việt Nam chọn Thủ tướng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết. Nếu được Nghị viện tín nhiệm, Thủ tưóng chọn các Bộ trưởng trong Nghị viện và đưa ra Nghị viện biểu quyết toàn thể danh sách. Thứ trưởng có thể chọn ngoài Nghị viện và do Thư tướng đề cử ra hội đồng Chính phủ duyệt, nhân viên ban thường vụ Nghị viện không được tham gia vào Chính phủ". Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà giống Tổng thống Mỹ ở chỗ được quyền phủ quyết các dự án luật đã được Nghị viện thông qua, nhưng lại khác với quyền phủ quyết của Tổng thống Mỹ ở chỗ Nghị viện chỉ cần biểu quyết lại, không cần phải biểu quyết mạnh mẽ hơn là 2/3 như ở Mỹ, thì Chủ tịch nước buộc phải công bố thành luật có hiệu lực thi hành. Đây là điểm khác biệt so với Hiến Pháp 1959. Nếu như ở Chính thể Cộng hoà Tổng thống, Tổng thống phải chịu trách nhiệm về mọi hành vi của mình, có thể bị Nghị viện luận tội theo thủ tục đàn hạch, thì Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà giống như nguyên thủ quốc gia của mô hình Cộng hoà đại nghị là không phải chịu trách nhiệm nào, trừ khi phản bội Tổ quốc. Tuy Chủ tịch nước được quy định thực hiện các quyền hạn lớn hơn cả về lập pháp lẫn hành pháp, song Hiến pháp cũng quy định những hạn chế đối với Chủ tịch nước, bảo đảm tính cơ quan có quyền lực cao nhất của Nghị viện. Đó là Nghị viện bầu ra Chủ tịch nước trong số nghị sĩ, chuẩn y các hiệp ước do Chính phủ kí với nước ngoài. Những luật mà Chủ tịch nước yêu cầu thảo luận lại nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch nước phải ban bố. Khi Nghị viện không họp được, Ban thường vụ cùng với Chính phủ quyết định nên tuyên chiến hay đình chiến, Chủ tịch nước tuyên chiến hay đình chiến theo quyết định đó. Và đặc biệt, Nghị viện nhân dân không bị giải tán (như ở các nước tư bản). C_ Kết luận. Chế định Chủ tịch nước qua hai bản Hiến Pháp (1946 và 1959) của Việt Nam tuy có những đặc điểm giống nhau nhưng sự khác biệt nhau thì rất lớn. Điêu này có nhiều nguyên nhân tác động đến, nhưng suy đến cùng cũng là do nguyên nhân của lịch sử. Ở vào từng thời điểm khác nhau, Đảng và Nhà nước ta đã có những thay đổi để cho phù hợp với tình hình của Đất nước. Hiến Pháp 1946 quy định rất rộng quyền hạn của Chủ tịch nước cũng phù hợp với tình hình Đất nước khi đó mới độc lập, kẻ thù còn quá mạnh, và khi đó trong Nghị viện vẫn có 70 ghế không qua bầu cử. Chế định nguyên thủ quốc gia trong hiến pháp nước ta qua các giai đoạn có những đặc điểm, tính chất và vị trí không giống bất kỳ một nguyên thủ quốc gia nào. Có sự đặc thù như vậy vì ở nước ta do cơ chế tổ chức quyền lực theo nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Danh mục tài liệu tham khảo. Giáo trình Luật Hiến Pháp Việt Nam, Trường ĐH Luật Hà Nội, Nxb Tư pháp, HN 2009. Hiến pháp năm 1946 và sự kế thừa, phát triển trong các hiến pháp Việt Nam / văn phòng Quốc hội, Nxb CTQG, HN 1998. Hiến pháp và luật tổ chức bộ máy - Học viện Hành chính Quốc gia. Chế định Nguyên thủ quốc gia ở nước ta qua các bản Hiến pháp (Trích Nội San Trường Chính trị (Vĩnh Phúc) năm 2006). Tìm hiểu các bản Hiến pháp Việt Nam, PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Tư pháp, Hà Nội 20073 Tổ chức bộ máy nhà nước Việt Nam qua các bản Hiến pháp, PGS.TS Nguyễn Đăng Dung, Nxb Tư pháp, Hà Nội 2007 Hiến pháp 1946 sự kế thừa và phát triển, Nxb Tư pháp Lịch sử lập hiến Việt Nam, PTS. Luật học (PGS-TS) Thái Vĩnh Thắng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Hiến pháp Việt Nam năm 1946, 1959, 1980, 1992 [right][size=1][url=]Copyright © Diễn đàn Sinh viên - NgoiNhaChung.Net - Posted by _[K]iD_[/url][/size][/right]   Mục lục A. Lời nói đầu 1 B. Nội dung 1 1. Vị trí của Chủ tịch nước trong Hiến Pháp 1946 và 1959 1 a. Trong Hiến Pháp 1946 1 b. Trong Hiến Pháp 1959 2 2. So sánh chế định Chủ tịch nước qua hai bản Hiến Pháp 1946 và 1959 2 2.1. Điểm giống nhau 2 2.2. Điểm khác nhau 2 2.2.1. Vị trí, tính chất và trật tự hình thành 3 2.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước 5 2.2.3. Mối quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan khác 6 C. Kết luận 8 Danh mục tài liệu tham khảo.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhiệm vụ và quyền hạn của của Chủ tịch nước Việt Nam qua các bản Hiến Pháp.doc
Tài liệu liên quan