Trong giai đoạn phát triển hiện nay, hoạt động của tổ chức bảo hiểm không chỉ dừng lại ở việc chi trả bảo hiểm theo nguyên lý “số đông bù cho số ít”, mà cần tiến tới giúp cho khách hàng nhận biết rủi ro, phân bố, quản lý, giám sát và kiểm soát rủi ro; ngăn ngừa và hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp xảy ra rủi ro và cuối cùng mới là chi trả bảo hiểm nhằm bù đắp tổn thất khi xẩy ra rủi ro. Mặt khác, cũng cần xuất phát từ đặc thù của hoạt động ngân hàng là luôn tiềm ẩn những rủi ro mang tính hệ thống; dễ gây ra hiệu ứng dây chuyền “đổ bể dây chuyền”. Do đó, rất cần tạo lập một hệ thống nhận biết rủi ro cũng như giám sát và kiểm soát rủi ro một cách đa chiều và hiệu quả.
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1826 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nhóm các quy định trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong việc tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của người gửi tiền
Trong bối cảnh ngân hàng tìm mọi cách để thu hút khách hàng về phía mình bằng việc cố gắng mang lại lợi ích cao nhất cho người gửi tiền thì việc tạo tâm lý yên tâm về sự an toàn tiền gửi là một vấn đề quan trọng và góp phần thúc đẩy quá trình huy động vốn. Bảo hiểm tiền gửi có vai trò quan trọng góp phần củng cố niềm tin cho người gửi tiền. Trong chiến lược phát triển của mình bảo hiểm tiền gửi luôn hướng tới mục tiêu bảo vệ tốt nhất quyền lợi của người gửi tiền với phương trâm lấy khách hàng làm tiêu điểmvới quan điểm chủ đạo như vậy không chỉ người gửi tiền mà tất cả các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi ngày càng được hưởng nhiều lợi ích từ tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
Thứ hai, tạo sự cạnh tranh bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng
Trong cuộc chạy đua thị phần khách hàng, thì thông thường lợi thế cạnh tranh sẽ thuộc về các “ông lớn” tuy nhiên khi có bảo đảm tiền gửi thì khoảng cách đó sẽ được rút ngắn dần, bởi vai trò của bảo hiểm tiền gửi là góp phần đảm bảo an toàn cho hệ thống tín dụng chứ không phải chỉ cho một tổ chức đơn lẻ nào. Chính điều đó đã tại ra sự bình đẳng trong cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng.
Thứ ba, góp phần đảm bảo an toàn hệ thống ngân hàng qua các công cụ kiểm tra, giám sát của bảo hiểm tiền gửi
Trong bối cảnh mới của thời kỳ hội nhập thì bên cạnh những rủi ro thuyền thống còn xuất hiện nhiều rủi ro mới. Kiểm soát được những rủi ro đó là một vấn đề quan trọng góp phần đảm bảo an ninh kinh tế quốc gia. Sử dụng một các hữu hiệu các công cụ bảo đảm của Chính phủ – Công cụ bảo hiểm là một điều hết sức cần thiết. Công tác kiểm tra, giám sát tổ chức tín dụng của bảo hiểm tiền gửi cần được các tổ chức tín dụng nhìn nhận dưới “góc nhìn mới”. Việc kiểm tra, giám sát bảo hiểm tiền gửi giúp các tổ chức tín dụng biết nhìn nhận chính mình thông qua việc cảnh báo các rủi ro tiềm ẩn và các sai phạm yếu kém dể từ đó các tổ chức tín dụng có những giải pháp bảo đảm an toàn hệ thống. bảo hiểm tiền gửi luôn chú trọng đến công tác kiểm tra giám sát và coi đó là công cụ gián tiếp để bảo vệ tích cực và triệt để người gửi tiền. Việc ứng dụng chuẩn mực an toàn theo thông lệ quốc tế trong kiểm tra và giám sát cũng luôn được quan tâm và có những lộ trình thực hiện để đạt được mục đích cuối cùng là bảo vệ người gửi tiền, góp phần bảo vệ an toàn hệ thống tài chính, ngân hàng. Tuy nhiên, để công tác này thật sự phát huy hiệu quả phải có sự phối hợp tốt giữa các bên có liên quan. Bản thân các tổ chức tín dụng cũng cần có sự nhìn nhận và đánh giá đúng vai trò của công tác kiểm tra, giám sát của bảo hiểm tiền gửi để từ đó có sự phối hợp chặt chẽ và hiệu quả hơn. Bởi chính việc kiểm tra giám sát của bảo hiểm tiền gửi là mang lại lợi ích cho các tổ chức tín dụng. Bảo hiểm tiền gửi là một trong cơ cấu giám sát tài chính quốc gia.
Thứ tư, vai trò của của bảo hiểm tiền gửi còn là một công cụ tài chính thể hiện sự hòa nhập trong xu thế hội nhập.
Hiện nay, hệ thống bảo hiểm tiền gửi đã được thực hiện thành công tại hơn 80 quốc gia trên thế giới và là xu thế của nền kinh tế hiện đại. Những nước có nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng phát triển hàng đầu trên thế giới thì công cụ bảo hiểm tiền gửi cũng được sử dụng từ lâu như: Mỹ, Nhật Bản, Pháp, Canada, Hà lan,… Bảo hiểm tiền gửi là một thông điệp thể hiện sự hòa nhập của Việt Nam với xu thế quốc tế về khía cạnh đảm bảo sự an toàn hệ thống trong hoạt động Tài chính – Ngân hàng. Là một tổ chức mới, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam luôn ý thức xây dựng hệ thống bảo hiểm tiền gửi trên hai tiêu chí cơ bản là hợp với thông lệ quốc tế và phù hợp với tình hình Việt Nam thông qua tham khảo nhiều mô hình bảo hiểm tiền gửi đã thực hiện thành công trên thế giới; phân tích điều kiện của Việt Nam và tìm ra giải pháp thích hợp.
* Chức năng của bảo hiểm tiền gửi
- Chức năng tham gia giám sát, đánh giá rủi ro trong hoạt động của các tổ chức tham giabảo hiểm tiền gửi, góp phần bảo đảm an toàn và sự phát triển bình thường của hệ thống tài chính – tín dụng. Đây là chức năng không thể thiếu của tổ chức bảo hiểm tiền gửi và có tính chất bổ trợ cho chức năng bảo hiểm nói trên. Để thực hiện tốt chức năng bảo hiểm, nhằm giảm thiểu tối đa chi phí cũng như phòng chống đổ vỡ, ngăn chặn trước những sự kiện bảo hiểm có thể xẩy ra, tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải tham gia vào quá trình giám sát, đánh giá rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Từ kết quả giám sát, tổ chức bảo hiểm tiền gửi đưa ra những khuyến nghị cho các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nhằm ngăn ngừa rủi ro, hạn chế đổ vỡ và trong giới hạn cho phép, tổ chức bảo hiểm tiền gửi còn có thể hỗ trợ, thậm chí có quyền can thiệp vào hoạt động của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi có dấu hiệu mất an toàn.
- Chức năng đầu tư kinh doanh. Đây là một chức năng còn nhiều tranh cãi, nhất là trong nghiên cứu xây dựng mô hình bảo hiểm tiền gửi ở các nước đang phát triển. Loại quan điểm thứ nhất cho rằng, bảo hiểm tiền gửi chỉ đơn thuần là một công cụ trong tay Chính phủ để thực hiện nhiệm vụ chi trả tiền cho dân cư khi có một tổ chức tín dụng bị đổ vỡ. Và do vậy, tổ chức bảo hiểm tiền gửi không phải là một tổ chức có chức năng kinh doanh, không đầu tư, không tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, trong điều kiện của kinh tế hiện đại, tổ chức bảo hiểm tiền gửi ở các nước phát triển không phải chỉ đơn thuần là công cụ của Chính phủ nhằm hạn chế những đổ vỡ tín dụng mang tính dây chuyền mà còn là một định chế tài chính độc lập, được quản trị và điều hành như một công ty và hoạt động vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận. Và khả năng tài chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi không phải chỉ lệ thuộc vào những đồng vốn ngân sách luôn ít ỏi của Chính phủ mà nó phải tăng cường năng lực tài chính từ chính hoạt động của mình. Một tổ chức bảo hiểm tiền gửi có tiềm lực tài chính hùng mạnh càng thoát ly nguồn vốn ngân sách và sự lệ thuộc vào tài trợ của Chính phủ bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu. Và vì vậy, bảo hiểm tiền gửi cần phải có và phải làm tốt chức năng đầu tư tự tìm kiếm lợi nhuận, trước hết là nhằm bảo toàn và phát triển nguồn vốn nhà nước giao, sau đó là tự tăng cường năng lực tài chính để bảo đảm có đủ khả năng xử lý rủi ro mà không cần đến sự hỗ trợ thường xuyên của Chính phủ. Tất nhiên, ở mỗi quốc gia, tùy thuộc vào từng thời kỳ mà xác định chức năng này của bảo hiểm tiền gửi là khác nhau. Chẳng hạn như ở nước ta, bảo hiểm tiền gửi Việt Nam hiện nay là tổ chức hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, nhưng trong tương lai đây sẽ là vấn đề cần phải được nghiên cứu điều chỉnh cho phù hợp khi tổ chức bảo hiểm tiền gửi đã thực sự lớn mạnh.
* Bản chất của hoạt động bảo hiểm tiền gửi
Xét về mặt thuật ngữ bảo hiểm tiền gửi là một loại hình bảo hiểm có dối tượng bảo hiểm chính là “tiền gửi”. Theo quy định tại khoản 9 Điều 20: “Tiền gửi là số tiền của khách hàng gửi tại tổ chức tín dụng dưới hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi tiền.”
Như vậy, về bản chất tổ chức bảo hiểm tiền gửi dù được tổ chức và hoạt động dưới bất kỳ hình thức nào thì nó vẫn mang bản chất của một tổ chức bảo hiểm. Và do vậy, họat động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi vẫn cơ bản dựa theo nguyên lý của hoạt động bảo hiểm là bù đắp rủi ro theo cơ chế lấy số đông bù cho số ít. Tuy nhiên, bảo hiểm tiền gửi là một hoạt động bảo hiểm mang đầy rủi ro, vì vậy, ít tổ chức bảo hiểm thương mại nào dám kinh doanh loại hình bảo hiểm này, và do vậy, thông thường Nhà nước phải đứng ra thành lập tổ chức bảo hiểm tiền gửi để bảo vệ quyền lợi của công chúng khi họ gặp rủi ro về tiền gửi.
Bảo hiểm tiền gửi là cam kết công khai của tổ chức bảo hiểm tiền gửi đối với tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi và người gửi tiền về việc tổ chức bảo hiểm tiền gửi sẽ trả tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị chấm dứt hoạt động và mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền.
Bảo hiểm tiền gửi là hoạt động cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho người gửi tiền. Dịch vụ này mang tính xã hội cao, theo cách phân loại của các nhà kinh tế học, dịch vụ bảo hiểm tiền gửi thuộc loại hàng hoá công không thuần tuý. Cơ sở để gọi dịch vụ bảo hiểm tiền gửi là hàng hoá công không thuần tuý, căn cứ vào tính không loại trừ thụ hưởng một cách tuyệt đối của dịch vụ này.Xuất phát từ một trong các mục đích của hoạt động bảo hiểm tiền gửi là góp phần đảm bảo tính ổn định của hệ thống tài chính quốc gia, người thụ hưởng dịch vụ bảo hiểm tiền gửi là toàn xã hội. Người gửi tiền có tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm sẽ được lợi trực tiếp từ chính sách bảo hiểm tiền gửi qua việc họ được tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi trả tiền bảo hiểm, khi tổ chức nhận tiền gửi của họ bị đóng cửa và mất khả năng thanh toán. Người đi vay sẽ được hưởng lợi từ dịch vụ bảo hiểm tiền gửi ở chỗ tính ổn định của hệ thống tài chính giúp cho họ sử dụng tiền vay được an toàn và thuận tiện hơn. Có được hệ thống tài chính ổn định sẽ giúp cho các ngành kinh tế khác phát triển thuận lợi v.v… Chính vì đặc tính không loại trừ thụ hưởng tuyệt đối mà dịch vụ bảo hiểm tiền gửi được xếp vào loại hàng hoá công không thuần tuý.
Quy định của pháp luật về bảo hiểm tiền gửi
Hoạt động của các tổ chức tài chính nói chung và các ngân hàng nói riêng luôn có những rủi ro, trong đó mất khả năng thanh toán là rủi ro lớn nhất. Hậu quả có thể dẫn tới là hệ thống tài chính quốc gia bị tê liệt; xã hội bị bất ổn và niềm tin của các nhà đầu tư sẽ bị giảm sút. Và đây chính là lý do để Bảo hiểm tiền gửi Việt nam – DIV - ra đời với vai trò là một trong những công cụ phòng ngừa quan trọng và hữu hiệu.
Quy định về cơ quan thực hiện bảo hiểm tiền gửi
Cơ quan nhận bảo hiểm là tổ chức Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, có tên giao dịch quốc tế là Deposit Inurance of Việt Nam (viết tắt là DIV). Tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính nhà nước hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, bảo đảm an toàn vốn và tự bù đắp chi phí. Tổ chức bảo hiểm tiền gửi có tư cách.pháp nhân, có bảng cân đối riêng, được mở tài khoản tại các ngân hàng trong nước và nước ngoài, có con dấu, được Nhà nước cấp vốn điều lệ, được miễn nộp các loại thuế.
Xét về phương diện lý thuyết, với tên gọi là tổ chức bảo hiểm thì tất nhiên tổ chức bảo hiểm tiền gửi phải thực thi chức năng và nhiệm vụ mang tính chất truyền thống vốn có của một tổ chức bảo hiểm là chi trả bảo hiểm cho người được bảo hiểm trong trường hợp xảy ra sự kiện bảo hiểm. Tuy rằng tổ chức bảo hiểm ở đây có những đặc thù như: là tổ chức tài chính Nhà nước trực thuộc Chính phủ hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận; người được hưởng quyền lợi bảo hiểm là người gửi tiền, nhưng nghĩa vụ đóng phí bảo hiểm lại là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Trong giai đoạn phát triển hiện nay, hoạt động của tổ chức bảo hiểm không chỉ dừng lại ở việc chi trả bảo hiểm theo nguyên lý “số đông bù cho số ít”, mà cần tiến tới giúp cho khách hàng nhận biết rủi ro, phân bố, quản lý, giám sát và kiểm soát rủi ro; ngăn ngừa và hạn chế đến mức thấp nhất các trường hợp xảy ra rủi ro và cuối cùng mới là chi trả bảo hiểm nhằm bù đắp tổn thất khi xẩy ra rủi ro. Mặt khác, cũng cần xuất phát từ đặc thù của hoạt động ngân hàng là luôn tiềm ẩn những rủi ro mang tính hệ thống; dễ gây ra hiệu ứng dây chuyền “đổ bể dây chuyền”. Do đó, rất cần tạo lập một hệ thống nhận biết rủi ro cũng như giám sát và kiểm soát rủi ro một cách đa chiều và hiệu quả.
Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/8/2005 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định của Chính phủ số 89/1999/NĐ–CP ngày 01/09/1999 tuy có những quy định mới và tăng quyền chủ động cho tổ chứcbảo hiểm tiền gửi, nhưng nhìn chung về cơ bản không có gì thay đổi lớn về chức năng nhiệm vụ chính của tổ chức bảo hiểm tiền gửi so với quy định tại Nghị định số 89/1999/NĐ–CP.
Xét theo phương diện lý luận và thực tiễn, thì rõ ràng là: Mô hình tổ chức BHTG phải được tạo lập sao cho chứa đựng và kết hợp được những yếu tố nói trên một cách thích hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam theo từng giai đoạn phát triển khác nhau. Việc Nghị định 89/1999/NĐ–CP và Nghị định 109/2005/NĐ–CP quy định tổ chức bảo hiểm tiền gửi là tổ chức tài chính Nhà nước độc lập, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền, góp phần duy trì sự phát triển an toàn và lành mạnh hoạt động ngân hàng như hiện nay là phù hợp với thông lệ quốc tế và đặc thù của Việt Nam. Mặc dù là tổ chức tài chính Nhà nước nhưng tổ chức bảo hiểm tiền gửi không thuộc diện cơ quan quản lý nhà nước và cũng không thuộc phạm trù các tổ chức bảo hiểm thương mại thông thường.
Quy định về đối tượng tham gia
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Nghị định của Chính phủ số 89/1999/NĐ–CP ngày 01 tháng 9 năm 1999 về bảo hiểm tiền gửi thì: “Các tổ chức tín dụng và tổ chức không phải là tổ chức tín dụng được phép thực hiện một số hoạt động ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng có nhận tiền gửi của cá nhân phải tham gia bảo hiểm tiền gửi bắt buộc.” bên cạnh đó các tổ chức này phải niêm yết công khai về việc tham gia bảo hiểm tiền gửi tại trụ sở và các địa điểm giao dịch. Chủ thể tham gia bảo hiểm tiền gửi chỉ có thể là tổ chức, tài chính có nhận tiền gửi của công chúng dưới các hình thức nhất định. Với hệ thống bảo hiểm tiền gửi công khai thì sự tham gia của các tổ chức này là bắt buộc nhằm tạo sân chơi bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng, tạo nguồn vốn hoạt động cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Bên cạnh đó rủi ro sẽ được phân bổ cho các đối tượng đa dạng, tránh tình trạng chỉ có ngân hàng, tổ chức tín dụng yếu kém mới mua bảo hiểm. Trên cơ sở đó làm giảm mức độ rủi ro của bản thân tổ chức bảo hiểm tiền gửi và gánh nặng cho Chính phủ trong việc hỗ trợ tài chính chi trả bảo hiểm. Ở điểm này ta thấy, bảo hiểm tiền gửi khác với loại hình bảo hiểm khác như bảo hiểm xã hội (có thể bắt buộc và có thể tự nguyện) hoặc loại hình bảo hiểm theo Luật kinh doanh bảo hiểm (tham gia hoàn toàn do ý chí của các bên.
Quy định về đối tượng và giới hạn bảo hiểm
Trong pháp luật các các nước có quy định các loại tiền được bảo hiểm. Tuy nhiên do quan niệm, điều kiện của mỗi nước khác nhau nên quy định cũng không giống nhau. Theo quy định của pháp luật Việt Nam: ''Tiền gửi được bảo hiểm là tiền gửi bằng đồng Việt Nam của người gửi tiền là cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, trừ những trường hợp sau đây:
a) Tiền gửi của người gửi tiền là cổ đông sở hữu trên 10% vốn điều lệ hoặc nắm giữ trên 10% vốn cổ phần có quyền bỏ phiếu của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó;
b) Tiền gửi của người gửi tiền là thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó;
c) Tiền gửi dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của người gửi tiền;
d) Tiền mua các giấy tờ có giá, trừ một số giấy tờ có giá theo hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.”
Với quy định mới này đối tượng được bảo hiểm đã được mở rộng khá nhiều. Nếu tại Nghị định số 89/1999/NĐ–CP quy định “tiền gửi được bảo hiểm là Đồng Việt Nam của cá nhân gửi tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi”. Tthì tại Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngoài cá nhân, đối tượng người gửi tiền được bảo hiểm còn mở rộng thêm gồm: Hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh. Như vậy, số người gửi tiền tại tổ chức nhận tiền gửi được bảo hiểm sẽ tăng lên đáng kể, điều này là phù hợp với thông lệ Quốc tế là bảo vệ ngày càng tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền.
Việc quy định số tiền gửi được bảo hiểm tối đa ở mỗi quốc gia phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: thức trạng kinh tế, tài chính quốc gia, tỉ lệ số người gửi tiền được bảo hiểm, độ rủi ro trong hoạt động kinh doanh của nền kinh tế và hệ thống ngân hàng, thu nhập bình quân tính theo đầu người, thực lực tài chính của bản thân tổ chức bảo hiểm tiền gửi. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì giới hạn bảo hiểm tối đa là 50 (năm mươi) triệu đồng được trả cho tất cả khoản tiền gửi được bảo hiểm gồm cả gốc và lãi.Quy định này có vẻ vẫn chưa hợp lý bởi lẽ, thực tế những người gửi tiền với số lượng lớn thì rủi ro vẫn rất cao. Vậy có nên quy định một cách mềm dẻo hơn về vấn đề này hay không.
Quy định về phí, sự kiện bảo hiểm và việc chi trả các khoản tiền được bảo hiểm
* Phí bảo hiểm
Phí bảo hiểm tiền gửi là khoản tiền mà tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi có nghĩa vụ nộp cho tổ chức bảo hiểm tiền gửi để được bảo hiểm cho tiền gửi của khách hàng. Phí bảo hiểm tiền gửi được hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phải nộp phí bảo hiểm cho bảo hiểm tiền gửi Việt Nam với mức 0,15%/năm tính trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Phí bảo hiểm được tính và thu 4 lần /năm. Việc thu phí được thực hiện theo các quý và số tiền phí của mỗi quý được nộp vào ngày cuối của tháng đầu quý tiếp theo. Tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi nếu nộp chậm phí bảo hiểm thì sẽ bị phạt. Việc thu phí bảo hiểm được thực hiện thông qua hội sở của các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi hoặc theo phương thức khác do các bên thỏa thuận.
Việc điều chỉnh mức phí bảo hiểm tiền gửi theo loại hình tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi hoặc trên cơ sở đánh giá, xếp loại của cơ quan nhà nước có thẩm quyền do Thủ tướng Chính phủ quyết định trên cơ sở đề nghị của tổ chức bảo hiểm tiền gửi và ý kiến của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Bộ Tài chính.
Mức phí bảo hiểm tiền gửi sẽ được điều chỉnh theo sự đánh giá của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về chất lượng hoạt động của các tổ chức nhận tiền gửi (điểm 3 khoản 4 Điều 1);
Theo Nghị định số 89/1999/NĐ–CP mức phí bảo hiểm tiền gửi được áp dụng đồng hạng đối với tất cả các tổ chức tín dụng là 0,15%/năm tính trên số dư tiền gửi bình quân của các loại tiền gửi được bảo hiểm tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi.
Nghị định số 109/2005/NĐ–CP quy định có thể áp dụng mức phí bảo hiểm phải nộp khác nhau giữa các tổ chức nhận tiền gửi khi các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền (Ngân hàng Nhà nước và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam ) đánh giá, phân loại đầy đủ và chính xác chất lượng hoạt động của tổ chức nhận tiền gửi.
Toàn bộ số phí bảo hiểm tiền gửi thu từ tổ chức nhận tiền gửi đều được dùng vào việc lập Quỹ dự phòng nghiệp vụ để thực hiện việc chi trả tiền bảo hiểm, hỗ trợ tài chính đối với tổ chức nhận tiền gửi mà không dùng vào việc trang trải chi phí hoạt động của tổ chức bảo hiểm tiền gửi.
* Sự kiện bảo hiểm
Theo quy định tại khoản 1 Điều 16 (đã được sửa đổi bổ sung): Đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn, trong vòng 60 ngày kể từ ngày cơ quan nhà nước có thẩm quyền có văn bản yêu cầu tổ chức này chấm dứt các giao dịch để tiến hành thanh lý tài sản hoặc kể từ ngày Tòa án thông báo quyết định mở thủ tục thanh lý tài sản theo quy định của pháp luật về phá sản, tổ chức bảo hiểm tiền gửi có trách nhiệm tiến hành chi trả tiền bảo hiểm cho người gửi tiền tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đó theo nguyên tắc được quy định tại Điều 4 của Nghị định này đồng thời làm thủ tục ra quyết định chấm dứt bảo hiểm tiền gửi.
Như vậy. sự kiện bảo hiểm trong bảo hiểm tiền gửi được xác định dựa trên cơ sở có đồng thời cả hai căn cứ là có văn bản chấm dứt hoạt động đối với tổ chức tín dụng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tổ chức tín dụng đó mất khả năng thanh toán.
* Các khoản tiền được chi trả
Theo quy định hiện hành thì mức tiền chi trả bảo hiểm đã tăng: Tại Nghị định số 89/1999/NĐ-CP quy định số tiền bảo hiểm được trả cho người gửi tiền: “Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi (gồm cả gốc và lãi) của một cá nhân tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi tối đa là 30 triệu đồng Việt Nam”;Tại Nghị định số 109/2005/NĐ-CP quy định lại: “Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi bao gồm cả gốc và lãi của một người gửi tiền (một cá nhân hoặc người đại diện theo pháp luật) tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi thuộc đối tượng quy định tại Điều 3 của Nghị định này, tối đa là 50 (năm mươi) triệu đồng.”
Ta thấy, mức chi trả tiền bảo hiểm tối đa đã tăng gần 30% so với quy định cũ. Việc tăng mức bảo hiểm tối đa lên 50 triệu đồng sẽ góp phần làm cho người gửi tiền thêm tin tưởng vào chính sách của Nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức nhận tiền gửi huy động các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi trong dân cư.
Chính sách này khẳng định rõ: Giấy chứng nhận bảo hiểm tiền gửi là cam kết trả tiền của Nhà nước cho người gửi tiền và được thực hiện bởi Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ cấp Giấy chứng nhận mới và sử dụng nhiều hình thức thông tin để thông báo những thay đổi quan trọng này tới được người gửi tiền.
Số tiền gửi (gồm cả gốc và lãi) vượt quá mức tối đa được tổ chức bảo hiểm tiền gửi chi trả sẽ được trả cho người gửi tiền trong quá trình thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phù hợp với quy định của pháp luật về giải thể, phá sản.
III. Thực tiến áp dụng pháp luật bảo hiểm tiền gửi tại các ngân hàng thương mại
Ngày 1/8/2000, Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam đã cấp Giấy chứng nhận Bảo hiểm tiền gửi số 01/ CN/ BHTG cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, đây là vị khách hàng đầu tiên của bảo hiểm tiền gửi Việt Nam và ngay say đó hàng loạt các ngân hàng khác cũng tham gia bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Tại lễ cấp đổi chứng nhận bảo hiểm tiền gửi tại Hà Nội năm 2006, lãnh đạo Ngân hàng ngoại thương đã phát biểu: “Chúng tôi hy vọng thông tin về Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sẽ được phổ biến rộng rãi hơn nữa trong công chúng để mọi người dân hiểu được quyền lợi của mình khi gửi tiền tại các tổ chức tín dụng đã tham giabảo hiểm tiền gửi, qua đó nâng cao hơn nữa lòng tin của người dân với hoạt động của các ngân hàng thương mại nói chung và Ngân hàng ngoại thương nói riêng.”
Các ngân hàng được thàng lập và hoạt động theo quy định của pháp luật. Việc thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật về bảo hiểm tiền gửi nói riêng có sự khác nhau sẽ có những khác biệt nhất định. Chính vì vậy, bài viết xin trình bày một thức tiễn áp dụng pháp luật tại ngân hàng: “Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”. Đây có thể coi là một điển hình cho việc áp dụng pháp luật về bảo hiểm tiền gửi.
Có thể nhận thấy, sau một thời gian dài hoạt động, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã và đang tiếp tục khẳng định tốt vai trò của mình trong việc bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo sự phát triển an toàn của hệ thống ngân hàng, ổn định an ninh chính trị và đời sống xã hội.
Bảo hiểm tiền gửi được xem như một lời đảm bảo công khai và hữu hiệu của Chính phủ để củng cố lòng tin của công chúng vào hệ thống ngân hàng; thậm chí ngay cả trong trường hợp thực sự có sự đổ vỡ của một ngân hàng, Bảo hiểm tiền gửi cũng chính là công cụ để Chính phủ can thiệt kịp thời nhằm tránh sự lây lan sang tổ chức tín dụng đang hoạt động lành mạnh khác.
Là một Ngân hàng thương mại lớn của Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam luôn quan tâm tới vấn đề quản trị rủi ro để đảm bảo an toàn cho ngân hàng và khách hàng, trong đó có vấn đề tiền gửi. Cũng vì lý do đó mà Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã trở thành tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đầu tiên - “mở hàng” cho hoạt động Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Căn cứ vào tình hình tài chính lành mạnh và tỷ lệ nợ quá hạn thấp nhất trong hệ thống các Ngân hàng Thương mại Nhà nước của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, ngày 1/8/2000, Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam đã cấp Giấy chứng nhận Bảo hiểm tiền gửi số 01/ CN/ BHTG cho Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Đây là sự kiện được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và các khách hàng gửi tiền tại ngân hàng chào đón rất trân trọng. Kể từ đó, chứng nhận bảo hiểm tiền gửi số 01 được sao chụp và công bố tại tất cả các quầy giao dịch của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam trên toàn quốc, không chỉ làm vững lòng khách hàng tham gia gửi tiền mà còn góp phần làm tăng trách nhiệm của cán bộ giao dịch trong việc bảo vệ uy tín thương hiệu ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam
Tháng 8/2006, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã tiến thêm một bước trong quan hệ hợp tác song phương. Bằng việc ký Thỏa thuận hợp tác toàn diện, hai bên đã thiết lập cơ sở quan trọng thúc đẩy mối quan hệ hợp tác hai chiều thêm chặt chẽ và hiệu quả. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam với tư cách là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, luôn thực hiện nộp đầy đủ, kịp thời phí bảo hiểm tiền gửi để đảm bảo đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp của các khách hàng gửi tiền. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam cũng tuân thủ nghiêm túc công tác kiểm tra, giám sát hoặc hỗ trợ tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam để đảm bảo sự phát triển an toàn, lành mạnh trong hoạt động ngân hàng. Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam với tư cách là tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi đã th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nhóm các quy định trách nhiệm của tổ chức tín dụng trong việc tham gia tổ chức bảo toàn hoặc bảo hiểm tiền gửi theo quy định của pháp luật.doc