MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 0
I. NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA HÔN NHÂN THEO TỪNG GIAI ĐOẠN 0
1. Quan niệm về hôn nhân cổ truyền 0
2. Các tục lệ trong hôn nhân cổ truyền 3
3. Quan hệ và ứng xử giữa vợ chồng. 13
4. Một số tục lệ hôn nhân của dân tộc thiểu số. 15
II. XU HƯỚNG CỦA HÔN NHÂN TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY 19
III. NGHĨA CỦA HÔN NHÂN 22
MỤC LỤC 28
30 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3698 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những biến đổi của hôn nhân theo từng giai đoạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là nhà gái thách cưới bằng số lượng cụ thể gạo nếp, thịt lợn, bún, rượu, các loại gia vị. Số lượng cau nhà gái yêu cầu trong lễ cưới thường là 500 quả trở lên. Cau cưới phải đẹp, liền buồng không cắt rời… Buông cau đều quả, quả cau phải có dâu, càng dài càng tốt. Việc đi mua cau cho đám cưới thường phải kén chọn người và do nữ đảm nhiệm. Chè khoảng 2 kg. Các loại bánh phải đủ để biếu mỗi gia đình tỏng làng 1 chiếc. Đồ sính lễ cô dâu gồm quần áo, chăn màn, nón, khăn, giày dép, nhẫn, khuyên tai và dây xà tích bằng bạc (riêng đồ trang sức chỉ người nhà khá giả mới có). Các đồ sính lễ cô dâu thường do nhà gái sắm sửa, nhà trai phải chi tiền. Ngoài các lễ vật thách cưới trên, nhà gái còn yêu cầu nhà trai chuẩn bị cho 3 lễ mặn để cúng tổ tiên: Lễ mặn cúng tại nhà thờ ông cậu (1 thủ lợn, 1 mâm xôi, 1 chai rượu), được nhà trai mang sang vào buổi sáng ngày cưới và chiều hôm để ông cậu phải mời anh em họ hàng cùng hưởng lễ. Lễ mặn lễ tại nhà tộc trưởng bên vợ (gà, rượu). Lễ mặn lễ gia tiên tại nhà gái (gà, rượu). Các lễ tại nhà tộc trưởng và gia tiên nhà gái được nhà trai mang sang từ chiều hôm trước ngày cưới. Ngoài các lễ vật ở đây có tục phải thách cưới thêm tiền mặt. Bình thường từ 100 đồng tiền cũ, nhưng nhà nghèo cũng phải có ít nhất 15 - 20 đồng.
2.5. Lễ dẫn cưới (lễ nạp tài).
Sau khi được nhà gái chấp thuận ngày giờ cưới và yêu cầu thách cưới, nhà trai tiến hành chuẩn bị đồ sính lễ để làm lễ xin cưới. Tuỳ theo yêu cầu của nhà gái mà việc dẫn cỗ cưới có thể bằng tiền mặt hay hiện vật. Ccác đồ sính lễ do nhà gái tự mua sắm là trang phục cho cô dâu, riêng nhẫn, hoa tai, xà tích thì nhà trai chuẩn bị và do mẹ chồng mang sang khi đi xin dâu cùng bà mối. Trước lễ cưới 2 à 3 ngày, nhà trai tiến hành làm lễ xin dâu và bao giờ cũng đi buổi sáng. Đoàn đi xin cưới gồm mẹ chàng rể, bà mối và một số bà con họ hàng. Trước khi đi dẫn cưới (nạp tài), nhà trai làm lễ cáo gia tiên. Đến nhà gái, cá thứ nếp, lợn, bún, rượu được nhà trai bày ở sân, còn cau, tràu, bánh và tiền được đưa vào nhà đặt lên bàn thờ để trình báo tổ tiên nhà gái. Mẹ chồng thưa chuyện và bàn giao đồ lẽ. Nhà gái nhận và kiểm tra số lượng và chất lượng. Các thứ gạo, thịt, rượu… được nhà gái dùng làm cỗ bàn mời họ hàng làng xóm. .. Bánh cốm, bánh dầy được biếu cùng trầu cau cho họ hàng, dân làng tượng trưng cho thiếp mới vưới.
2.6. Lệ nộp cheo.
Lệ này được nhà gái tiến hành nhưng phí tổn do nhà trai chịu, cheo chủ yếu nộp bằng tiền, có nơi nộp bằng mâm đồng hay bằng gạch để lát đường làng. Tiền nộp cheo, ghi vào sổ, làng trao cho đương sự tờ phái lai (biên lai) ghi số tiền “lan nhai”.
2.7. Lễ cưới.
Đám cưới được tổ chức cả phía nhà trai và nhà gái. Tuy nhiên, đám cưới ở nhà trai bao giờ cũng là chính. Về hình thức và lễ thức có sự khác biệt giữa tục lệ cưới của nhà trai và nhà gái.
- Các tục lệ liên quan đến chuẩn bị cho đám cưới.
Công việc chuẩn bị cho lễ cưới có sự tham gia của họ tộc, bạn bè bằng hữu và láng giềng gần. Ngoài việc chuẩn bị lễ vật cho lễ dẫn cưới (nạp tài) nhà trai còn làm những công việc sau:
+ Chuẩn bị giường chiếu và phòng tân hôn: phòng tân hôn, phòng là một gian đầu hòi nhà được sửa sang và quét vôi mới cho sáng sủa. Phòng của vợ chồng mới cưới thường không có trang trí gì thêm. Riêng nhà giàu có thêm lọ hoa, gương soi, chữ song hỷ, hay tranh ảnh. Giường cưới phải đóng mới, được đóng bằng tre đực, không bị sâu ở thân, cây phải nguyên ngọn, được chặt và ngâm kỹ dưới ao để tránh mối mọt và bền hơn. Việc đóng giường phải kén chọn người đóng. Giường cưới chỉ dùng đinh tre. Ngày phát mộc phải chọn và khi lắp giường cũng chọn ngày giờ tốt. Chiếu rải giường phải là chiếu mới và phải mua cả đôi. Khi rải chiếu lần đầu cũng phải kén chọn người. Lễ rải chiếu thường làm trong ngày cưới. Chiếu được rải làm sao hai mặt trái úp vào nhau.
+ Tục mời cưới: Trước ngày cưới khoảng vài ngày, nhà trai phải mời họ hàng và dân làng đến dự cưới. Khi đi mời gia đình nhà trai mang theo 1 quả cau, 1 lá trầu đến từng gia đình để mới đến ăn cưới. Ăn cỗ cưới nhà gài thì đa số là các bà đi dự, còn tiệc cưới tại nhàt rai thì đàn ông đi là chính. Riêng trẻ em không mời nhưng chúng tự đến và có cỗ đơn giản giành cho chúng.
+ Chuẩn bị trang phục cưới cho chú rể: Gồm hai áo the dài (1 trắng, 1 đen), quần trắng, khăn xếp, đi giầy ký long (nhà nghèo đi guốc mộc). Trang phục phải mới hoàn toàn.
+ Dựng rạp, chuẩn bị phòng cưới: Cưới hỏi tại gia nên trước ngày cưới một hôm phải dựng rạp, rạp dựng bằng tre, che bằng vải hay phên, bàn ghế thường đi mượn của hàng xóm. Ngày dựng rạp nhà trai thường ăn từ 10 - 15 mâm.
+ Chuẩn bị cỗ bàn: cỗ bàn to hay bé, nhiều hay ít tuỳ thuộc vào dòng tộc đó lớn hay bé, nhưng không thể không có. Cỗ chỉ khác nhau về số lượng nhưng rất giống nhau về cách bài trí và số lượng các món. Mỗi mâm thường có các món: thịt mỡ luộc, thịt nạc, lòng dồi, thịt nướng, tiết canh, chả nướng, canh, xôi, rượu. Ngày xưa chỉ nhà giàu mới có giò, chả, thịt gà. Riêng mâm phù dâu, phù rể thì có thêm các loại bánh để họ mang về làm quà cho gia đình. Việc mua sắm, chuẩn bị cỗ cưới do một người chỉ đạo và cỗ được chuẩn bị vào đêm hôm trước. Cỗ nhà gái cũng không khác gì cỗ nhà trai, chỉ khác là số lượng ít hơn.
+ Ăn cỗ và mừng cưới. Cỗ bàn được mời ăn vào buổi sáng ngày cưới. Cỗ thường xếp 4 người theo vai vế. Việc mừng cưới có thể mừng tối hôm trước hoặc sáng ngày ăn cỗ. Đa số là mừng bằng tiền, số lượng nhiều hay ít là tuỳ mối quan hệ với gia chủ. Tiền mưng do một hai người được họ hàng cử ra nhận. Tiền mừng được ghi vào một cuốn sổ để sau này gia chủ dựa vào đó để “trả nợ”. Nhà gái có mời khách ăn cỗ nhưng không được nhận tiền mừng.
- Lễ cưới ở nhà trai.
Lễ cưới chính thức được tổ chức vào buổi chiều, lễ tục diễn ra như sau:
+ Lễ xin dâu: Buổi sáng trước lúc đón dâu bà mẹ chồng cùng với bà mối và một vài bà, vài cô trong họ hàng sang nhà gái làm lễ xin dâu. Đoàn đi mang 1 cơi trầu, trong xếp đủ 12 miếng trầu cánh phượng, 12 miếng cau cánh tiên đến lễ nhà cô dấu. Sau khi trò chuyện và đưa dẫn trầu cau theo lệ mẹ chồng và đoàn xin dâu trở về nhà trước khi đoàn đón dâu nhà trai xuất phát.
+ Lễ đón rước dâu: Đoàn gồm có bố chú rể chú bác và một số người cao tuổi trong nội tộc. Những người đi đón dâu ăn mặc đẹp, sang trọng. Dẫn đầu đoàn là một ông cầm hương và đồng thời cũng là chủ hôn. Người ta thường mời “Cụ từ” (là người được làng cử ra để coi sóc việc thờ tự ở đình) đảm nhiệm. Ông cầm hương mặc áo dài đỏ, quần tơ tằm vàng. Tiếp theo ông cầm hương là một bà bưng một khay “trầu trăm” đúng 100 miếng để sang cũng lễ bên nhà gái… Bà mang trầu trăm cũng được chọn. Trầu này sau khi lễ bái ở nhà gái được mang về để cho đôi vợ chồng mới cưới ăn. Chú rể đi đón vợ ăn mặc đẹp, áo the 2 lớp, quần trắng, khăn đóng, đi giày ký long. Phù rể thường cử 5 người trở lên, họ ăn mặc giống chú rể. Chú rể và phù rể thường đi cuối đoàn đón dâu. Trước khi lên đường, chủ nhân cáo gia tiên và cáo thổ công. Con trai cúi đầu xin vâng, lạy tạ hai lạy rồi lui ra… Giờ xuất hành đi đón dâu, phải là giờ hoàng đạo (giờ tốt). Trước lúc đi nhà trai đốt 1 bánh pháo để cầu mong cho cuộc rước dâu tốt đẹp và để thông báo cho mọi người. Trước lúc ra khỏi ngõ, nhà trai thường nhờ một người ra đón ngõ nhằm cầu mong cho cuộc rước may mắn. Người này cũng được chọn. Khi đoàn đón dâu đi ra một người trong đoàn kêu lên “gặp may mắn rôi”. Sau đó nhà trai mới xuất hành đi đón dâu. Trên đường đi nhà trai cho một người đàn ông trong họ mang theo gạo, muối đi đầu cùng với ông cầm hương. Vừa đi ông ta vừa ném muối và gạo ra tứ phía để cho ma quỉ không quấy nhiễu.
+ Tục chăng dây, đóng cổng làng, cổng ngõ.
Nhà trai phải chịu tục này khi lấy vợ làng khác do một số người bên làng nhà gái tổ chức, đó là “Chăng dây đón đường” và “đóng cửa làng”. Còn đối với những đám trai làng lấy gái làng thì có tục chăng dây ngõ hay đóng cổng vào nhà gái. Hình thức phổ biến là trên đường dẫn vào ngõ nhà gái, người ta để một chiếc bàn nhỏ có để một lo hoa và có một sợi chỉ chăng ngang đường. Khi đoàn nhà trai đến, người ta đốt một bánh pháo để ngụ ý chào nhà trai và đợi ý tứ nhà trai. Bố chú rể phải có lời xin và đưa một ít tiền mừng xin phép cởi dây.
+ nghi lê rước dâu bên nhà gái: Đúng giờ đã chọn, nhà gái mời nhà trai vào nhà. Nhà trai đặt đồ lễ lên bàn thờ và ông cầm hương thắp hương làm lễ gia tiền bên nhà gái. Người chủ bên có lời thưa gửi đối với họ nhà gái. Chú rể phải vào làm lễ gia tiền nhà vợ. Sau đó, chú rể được nhà gái dẫn đến làm lễ ở nàh thờ họ và ở nhà ông cậu. Các đồ lễ bái ở đây đã được nhà trai mang sang từ trước. Sau khi lễ xong hai nơi này, chú rể quay trở về nhà vợ. Lúc này cô dâu và phù dâu từ trong nhà đi ra gặp chú rể. Cô dâu mặc áo dài mớ ba mớ bẩy, thắt lưng xanh hoặc điều, đầu búi, chít khăn, đeo hoa tai, nhẫn bằng vàng và một xà tích bằng bạc, chân đi dép cánh cong bằng da trâu.
Cô dâu chú rể cùng vào làm lễ gia tiên theo thể thức chú rể “bái gối” và cô dâu “ngồi vẹt” lễ gia tiên xong, cô dâu chú rể ra lễ mừng bố mẹ. Khi chàng rể lễ mừng, bố mẹ vợ cho tiền các phù rể nhận hộ tiền mừng cho chú rể. Bái yết gia tiên xong, nhà gái làm “lễ mệnh” căn dặn con phép về làm dâu nhà chồng. Cô dâu quỳ xuống đón nhận và nhấp một tí rượu mà cha đưa cho, rồi lạy tạ bố mẹ và các bậc bề trên. Mọi người chúc mừng cô dâu và ai có tiền thì mừng cho cô dâu. Sau khi cô dâu, chú rể làm đủ mọi nghi thức, nhà gái mời nhà trai uống nước ăn trrầu và hai họ chúc trọng cho cô dâu chú rể những điều tốt lành. Đến giờ tốt thì người chủ hôn xin nhà gái cho rước dâu. Nhà gái bưng trầu mời mọi người. Một người khác đi thắp bó hương trao cho ông cầm hương và ông trịnh trọng tuyên bố nhận dâu và kết thông gia. Nói xong ông đi ra người không được ngoái lại. Bố mẹ cô dâu không được đưa con về nhà chồng.
+ lễ rước và đón dâu: Đoàn đón và rước dâu có thêm họ hàng và bạn bè hàng xóm nhà gái. Các cô phù dâu thường ít nhất là 5 người, trang phục như cô dâu. Cô dâu thường đội nón thúng quai thao để che mặt khi đi đường. Đoàn rước đi dầu vẫn là ông cầm hương, tiếp đến là bà bê trầu và sau đó là đoàn nhà trai và nhà gái, cô dâu và phù dâu đi sau cùng và không đi cùng chú rể.
+ Lễ cưới bên nhà tra: Khi đoàn đón rước dâu về gần đến nhà, một người trong đoàn đi về trước để thông báo với gia đình. Nhà trai chờ đoàn đón dâu và tới ngõ thì đốt một tràng pháo. Trước lúc đoàn đón dâu vào cổng, mẹ chồng mang bình vôi tránh sang nhà hàng xóm. Sau khi đoàn rước dâu đã yên vị, mẹ chồng mới lặng lẽ trở về đặt bình vôi vào chỗ cũ và ra tiếp chuyện. Ngay giữa cửa chính nhà trai đặt một bếp than củi, cô dâu phải bước qua để vào nhà.
Sau khi bố chú rể đại diện nhà trai đón đoàn rước dâu về, cô dâu, chú rể làm lễ gia tiên. Sau đó lễ lậy mừng bố mẹ chồng. Cô dâu quỳ lạy hai lạy sau đó bố mẹ chồng tặng cho cô dâu món quà. Tại đây cô dâu chú rể cũng lạy mừng các vị bề trên nhà chồng và họ cũng tặng quà cho cô dâu, chú rể. Sau đó mấy chị em họ nhà chồng dẫn cô dâu đi lễ nhà thờ họ, các phù dâu cùng đi theo. Sau đó, cô dâu trở lại nhà chồng để làm lễ “tơ hồng”. Lễ tế tơ hồng thường tế ngoài trời phía trước sân nhà. Bàn tế được thiết lập ngay sau khi đoàn đón dâu vào nhà gồm có: hương án, bát hương bài vị, 2 cây nên và 1 mâm cỗ giống như cỗ ăn buổi sáng, 1 chủ tế tơ hồng là ông cầm hương, ông khấn trước sau đó cô dâu lễ ngồi, chú rể lễ quỳ. Cô dâu chú rể đứng hàng ngang trên chiếu trước hương án, lạy 4 lạy rồi quỳ. Hai bên hương án có 2 người chấp sự, một người đọc văn tế, 1 người rót rượu, lễ mừng chủ tế 1 tuần rượu. Văn tế viết triên giấy hồng điều, đọc xong dìm vào chậu nước để sẵn trước hương án. Khi văn tế tơ hồng xong chú rể và cô dâu mỗi người 4 lễ. 2 người cùng uống chung 1 ly rượu (được đặt trên bàn thờ tế tơ hồng). Sau đó mỗi người ăn một miếng trầu, têm chung một quả cau và một lá trầu. Lễ tơ hồng chỉ diễn ra trong 15 - 30 phút.
Sau lễ cưới nhà trai mời cơm nhà gái, các mâm cỗ giống như cỗ ăn buổi sáng, riêng mâm của phù dâu và phù rể có thêm một đĩa bánh dày (bánh cốm). Lễ cưới kết thúc sau bữa cơm này.
+ Lễ nhập phòng: bái yết gia tiên xong, chào bố mẹ chồng, họ hàng nội, cô dâu và chú rể được ông cầm hương dẫn vào buồng cưới. Lúc này một bà có đủ “phúc, lộc, thọ” được mời đến để rải chiếu. Mâm cỗ cúng trong lễ tơ hồng được bê vào đặt giữa giường. Ông cầm hương đốt hương và rót một chén rượu san đều vào 2 chén đưa cho cô dâu và chú rể. Sau đó ông lui ra và khép cửa buồng lại. Người vợ đứng phía Đông, người chồng đứng phía Tây vái chéo nhau, cùng nhấp rượi, rồi cùng ăn mâm cỗ trong lễ tơ hồng.
2.8. Mâm cơm dành cho bố mẹ chồng.
Ngay ngày hôm sau, nàng dâu phải làm một mâm cơm dành riêng cho bố mẹ chồng. Nàng mời bố mẹ chồng vào mâm nàng đứng trước mặt lạy chào 2 lạy, rồi phải hầu rươj hầu cơm chu đáo. Bao giờ được mẹ chồng bảo cho lui mới lạy tạ để ra ngoài.
2.9. Lễ lại mặt.
Hai ngày sau lễ cưới, vợ chồng đưa nhau về thăm cha mẹ vợ, lễ vật gồm 1 mâm xôi, 1 thủ lợn, 1 chai rượu và cau trầu. Đi cùng có bố mẹ chồng, 1 vài người con cháu trong gia đình đi để mang lễ vật. Bố mẹ nhận lễ thắp hương cúng tổ tiên. Nhà gái làm cỗ sẵn mời nhà trai.
3. Quan hệ và ứng xử giữa vợ chồng.
Sau khi lấy xu hướngồng, một phụ nữ về sống bên gia đình chồng phong tục phổ biến ở nhiều nơi là ngay sau khi cưới, người phụ nữ phải mang tên chồng. Điều đó phần nào khẳng định sự phụ thuộc của người phụ nữ đối với chồng. Người vợ không được chê chồng, tự ý bỏ chồng hoặc bỏ về nhà mẹ đẻ; vợ phải phục tùng chồng, không được chửi, đánh, làm sai ý của chồng; tiền của làm ra phải để cho chồng quyết định, dù vợ có làm ra thì cũng không được khinh chồng. Dân gian đã từng tổng kết:
“Tai tay không chẳng ăn mày vợ
Gái trăm vạn cũng thể nhờ chồng”.
Nghĩa vụ chung thuỷ của vợ chhồng đã được quy định rõ trong luật nước và được hỗ trợ bằng phong tục. Nếu chẳng may người vợ gian dâm thì phong tục không dung, pháp luật trường trị nặng. Quy định trong một số lệ làng cho phép người chồng có thể làm điều sỉ nhcụ vợ nếu bắt được vợ gian dâm. Sự chung thuỷ còn được quy định ở việc để tang chồng chưa hết 3 năm, người phụ nữa chưa được quyền tái giá.
Nhìn chung hôn nhân cổ truyền của người Việt Nam là chế độ hôn nhân phụ quyền gia trưởng với vai trò quyết định chính là nam giới. Sau khi đã là vợ chồng, quyền hành trong gia đình vẫn nằm phần lớn trong tay người chồng. Người phụ nữ ít có được quyền quyết định những vấn đề trọng đại liên quan đến gia đình, họ hàng, dòng tộc. Điều này mang đậm tính chất phong kiến “Trọng nam khinh nữ”.
Qua các tục lệ hôn nhân cổ truyền của người Việt cho thấy vị trí quan trọng của hôn nhân trong nghi lễ này vòng đời nói riêng và đời sống văn hoá của làng xã người Việt hàng ngàn năm qua. Hôn nhân của người Việt xưa mang đậm tính chất phong kiến, chịu ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo và các lễ giáo phong kiến của Trung Quốc. Tuy nhiên, nó chủ yếu ảnh hưởng tới vùng thị thành và tầng lớp trên, còn vùng nông thôn và tầng lớp bình dân vẫn giữ được nét truyền thống và chính điều đó đã làm lên phong tục tập quán, nếp sống, là biểu trưng của bản sắc dân tộc, giá trị truyền thống văn hoá của người Việt.
4. Một số tục lệ hôn nhân của dân tộc thiểu số.
4.1. Dân tộc Khơ-mú.
Dân tộc Khơ-mú ở Nghệ An cư trú tại các huyện vùng cao Kỳ sơn, Con Cuông, Tương Dương, Quế Phong có số dân trên 30 ngàn người với nhiều tên gọi khác nhau như Tày, Hay, Kho, Pu Thênh, Dinh, Xá, Lào Cang, Việt Cang, Căm Huội. Đồng bào ở nhà sàn, ăn xôi, có điệu hát “Tơm” và tục ở rể. Tục ở rể của người Khơ mú Kỳ Sơn chỉ kéo dài trong vòng 10 ngày à 1 tháng. Trong thời gian đó, chàng trai mang dao đến nhà cô gái làm đủ mọi việc như phát nương, dọn rẫy, chặt củi… để chứng minh cho cha mẹ nàng biết sức khoẻ, sưm cần mẫm của mình (sau khi được sự thuận tình của cha mẹ). Sau một thời gian gia đình nhà tra mang trầu cau sang nhà gái xin “đi lại”. Lễ lậy gồm 2 chai rượu trắng và một cơi trầu gắn trên sáp ong. Lễ xin đi lại chỉ có đôi bạn và họ hàng của hai gia đình. Nhà trai bưng cơi trầu dâng lên bàn thờ và đọc lời chương (ông vua của người Khơ mú). dạy từ thuở xưa sau đó đặt cơi trầu xuống chờ cho nhà gái đáp lại lời chương. Từ đây, hai bên chính thức trở thành thông gia. Sau lần gặp gỡ này là đến lễ ăn hỏi chính thức. Lễ vật nhà trai mang đến dâng cho nhà gái gồm: 4 vò rượu cần, 2 chiếc túi màu trắng và đồ trong đó đựng một đôi váy, một đôi áo, một đôi khuyên tai, 1 đôi vòng, 4 chai rượu, 2 bó trầu cau. Nhà gái phải giữ những lễ vật này để làm tin. Nếu nhầgí bực bội thì nhà trai được quyền phạt gấp đôi số lễ vật đó. Dự lễ đám hỏi có họ hàng hai bên, bạn bè của đôi bạn trẻ. Ông mối thay mặt cho nhà trai đọc lời chương khuyên hai trẻ sau này phải biết yêu thường đùm bọc nhau, hai gia đình phải khang khít hơn nữa. Sau đó, họ cùng nhau uống rượu, ăn cỗ, hát tỏm chúc tụng rôm rả.
Lần nộp lễ thứ 3 của nhà trai là vào dịp đám dưới… Người Khơ mú có câu “Phong tục là 12, tập quán là 24” để chỉ lượng chum rượu cần mà hai họ phải chuẩn bị trong ngày cưới của con. Mỗi gia đình phải chuẩn bị 2 con lơn từ 40 - 60 kg (có gia đình còn chuẩn bị con lơn con khoàng 15 kg để cúng). Người Khơ Mú tổ chức đám cưới vào ban đêm, mời rượu lúc 8 - 9 h; 10 - 12h thì ăn cỗ và chọn giờ tốt mới rước dâu. Bà mối sẽ cầm tay và dắt cô dâu về. Cô dâu mang theo của hồi môn (Khrương păn) trong ngày cưới.
4.2. Dân tộc Dao.
Người Dao ở Sơn Tang thuộc dòng Dao đỏ, hiện sống tập trung ở vùng suối Quyền - huyện Văn Chấn và các chòm xóm của họ nằm rải rác tại các vùng Lục Yên, Văn Yên, Yên Bình … thuộc tỉnh Yên Bái. Do điều kiện sống, tục cưới vợ của người Dao ở đây rất phức tạp, kéo dài trong vài ba ngày đến cả tuòân, nhưng lại ít tốn kém và rườm rà như những đám cưới ở các dân tộc khác.
Tục đặt trầu - dạm ngõ: Đôi trai gái ưng thuận nhau, bố mẹ nhà trai chọn ngày sang nhà gái dạm - đặt trầu, gồm 6 miếng trầu được xếp vào 1 gói mang sang nhà gái. Đến nhà gái, nhẩti đặt lời “ông bà có tin cậy và ưng ý xin ghé làm theo một tý nương với ông bà”. Nói rồi đặt trầu vào 2 bát, mỗi bát 7 miếng và đặt lên bàn thờ. Nếu gia đình nhà gái ưng thuận thì đến ngày thứ 3 sẽ mang trả lại trầu và nói “Nương không thuận, không biết ông bà có đồng ý khồng? Ưng đát xấu thì làm”. Gia đình nhà trai nhận lại trầu, coi như hai bên đầu đã bằng lòng.
Dam hỏi: Sau khi đã bàn bạc kĩ, nhẩt i têm 6 miéng trầu, chuẩn bị một phong bì trong đó có 2 hào bạc trắng, buộc 2 sợi chỉ đỏ 8 đen trên phong bì rồi mang đến nhà gái dạm hỏi: “Ông bà ta giúp cho, xin ca hơn! Xin để cho và đường cho ai nữa” Hai đồng bặc trắng tượng trưng cho xương cốt. Sau ngày sau, nhà gái mang trả lễ nhà trai. Nhà trai nhận lại hai hào bạc trắng, tức là nhận xương cốt” sống gửi thân, chết gửi xương”. Nhà gái mừng vui và tin tưởng vào 18 nhà trai.
Lễ xin cưới: Có cả ông Mõ (ông mai mối) cùng đi. Lễ gồm 24 miếng trầu được làm thành 12 gói, mỗi gói 2 miếng, 1 miếng bôi vôi và 1 miếng không bôi vôi, 2 quả trứng gà và 2 đồng tiền kẽm. Đến nhà gái, trứng được xào lên rồi cho vào bát buộc 2 đồng tiền kẽm vào đầu đũa rồi gác lên bát trứng. Đó là tục xin cưới lâu đời của người Dao Sơn Tang .
Gia đình nhà gái đặt giá, thách cưới. Do nhu cầu cuộc sống con trai cưới vợ phải ở rể 3 năm, nên việc thách cưới cũng rất đơn giản, chỉ đòi 1 ít tiền, 1 ít gạo và con lợn khoảng 50 kg. Như vậy việc xin cưới đã xong. Hai bên thoả thuận ngày cưới và rước dâu. Đám cưới diễn ra trong 3 ngày: 2 ngày ở nhà gái, 1 ngày rước dâu về nhà trai.
Đám cưới: Việc chuẩn bị cho đám cưới, do mỗi bên tự lo liệu lấy. Trước ngày cưới, gia đình nhà tra tổ chức bữa cơm thân mặt gọi là “lấy trai”, gồm 10 người con trai, tính cả cô dâu - chú rể là đủ 12 người. Bữa cơm đó được chọn ngày giờ và phân công các việc cho ngày hôm sau. Giờ được chọn là khoảng từ 18h - 19h. Vì đi vào giờ này đỡ xấu hổ hơn. Đoàn nàh trai đến cổng nhà gái phải gọi to để bố mẹ nhà gái đi tránh mặt con rể. Con rể vào nhà nộp tiền lễ cưới và trầu cau. Cả gia đình nhà gái đi lánh mặt để gia đình nàh trai vào nhà làm lễ. Làm xong lễ, chú rể được gọi vào buồng cô dâu trước. Ông Mê lấy 1 bát nước gọi là bát nước đoàn tụ đưa cho cô dâu, chú rể, mỗi người uống một tí, uống xong cô dâu đi lánh mặt. Ông Mơ cùng một người khác mặc quần áo cúng đứng trước bàn thờ vừa cúng, vừa múa (múa xúc tôn giả), tức là múa chào anh em ,họ hàng, cô dì chú bác trong gia tiên nhà gái, rồi ra thay quần áo nghỉ ăn cơm. Ăn cơm xong, cô dâu - chú rể được gọi đến trước bàn thờ quỳ lạy, chú rể lạy chào bố mẹ, chú bác rồi chào gia tiên bên ngoại.
Tất cả mọi việc đã hết ngày thứ 2. Sáng ngày thứ 3 - ngày rước dâu. Chú rể và cô dâu được gọi vào xếp hàng theo thứ tự cùng với đoàn nhà trai. Đoàn có bố, mẹ và ông Mơ đi trước, cô dâu, chú rể và những người còn lại đưa dâu về nhà trai. Gần đến ngõ nhà trai, ông Nờ làm phép (hoá mây) rồi đưa cho cô dâu, chú rể một cái quạt để che mặt, quan niệm rằng che mặt đỡ xấu hổ. Rồi cứ thế đi thẳng vào trong nhà là xong. Vào nhà cô dâu quỳ, chú rể lạy theo thứ tự gia đình rồi cùng nhau đi chức rượu mọi người tỏng nhà và những người dự đám. Rượu xong là ăn uống và đám cưới kết thúc.
Lễ lại mặt và ở rể 3 năm: 3 ngày sau, đôi vợ chồng về lại mặt nhà gái. Trước ngày đi, gia đình đã mổ lợn vf để lại cái thủ, khi chú rể về mới phá thủ lợn để tiếp đãi con. Lễ cưới vào cuối năm thì 3, 4 ngày sau, đôi vợ chồng trẻ lại quay về nhà trai ở một tuần, rồi lại sang nhà gái 1 tuần, chô đến hết ngày 7, tháng riêng âm lịch mới đi ở rể. Cứ 1 năm ở rể, lại 1 năm về cho hết 3 năm thì đôi vợ chồng trẻ mới xin về gia đình bên trai. Phong tục này, hiện nay vẫn còn lưu giữ trong từng gia đình của người Dao ở Sơn Tang.
II. XU HƯỚNG CỦA HÔN NHÂN TRONG THỜI ĐẠI NGÀY NAY
Sự phát triển của xã hội gắn liền với sự biến đổi của hôn nhân. Cũng như các hiện tượng khác. Trong tiến trình lịch sử của dân tộc, hôn nhân của người Việt cũng đã có nhiều biến đổi. Nhìn chung sự thay đổi lớn nhất so với trước là nhiều “hủ tục” cổ truyền đã được bãi bỏ, nhiều tục lệ được cải tạo, với xu hướng phục hồi trở lại hình thức cưới xin truyền thống trong môi trường văn hoá mới, xã hội mới và dân trí cao. Các tập tục hôn nhân mới tiếp tục hình thành trên nền tảng, sự kết hợp giữa tinh thần dân tộc và tính thời đại. Hôn nhân gnày nay có sự kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, theo chiều hướng “nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Hôn nhân bây giờ không còn là việc riêng của cá nhân, gia đình, dòng họ, làng xã, mà được Đảng và Nhà nước đặc biệt quạ tâm, với chính sách : cải tạo tập tục hôn nhân cũ cho phù hợp với xã hội mới và xây dựng chế độ hôn nhân mới văn minh, tiến bộ.
Xu hướng hôn nhân ngày nay được biểu hiện ở một số khía cạnh như sau:
Nếu như trước kìa khi muốn dựng vợ gả chồng nhẩti thường phải đáp ứng theo sự thách cưới của nhà gái, nộp cheo mới lấy được vợ, thì này một cuộc hôn nhân hợp pháp chỉ cần được nhà nước cấp giấy kết hôn là đủ, còn các tục lệ khác thì không bắt buộc. Một sự kết hôn không có giấy đăng kí kết hôn thì vi phạm pháp luật và bị ngăn cấm.
Nam nữ tự do tìm hiểu lẫn nhau, nếu thấy hợp thì họ sẽ củng cố thêm tình yêu của mình. Cha mẹ không cấm đoán con cái đi tìm hiểu bạn đời tương lai. tự do hôn nhân thay thế cho quyết định của cha mẹ, họ hàng theo quan niệm “cha mẹ đặt đâu con ngồi đây”. Có những trường hợp bị cha mẹ “ép duyên” thì họ đấu tranh và có sự giúp đỡ của đoàn thể nên cha mẹ không thể cấm đoán được.
Mặc dù nếu hai người nam và nữ cảm thấy hợp nhau thì họ có thể tiến tới hôn nhân, nhưng các chuẩn mực chọn dâu, kén rể… một phần nào đó vẫn là yếu tố quyết định cho một đám cưới. Đó là khi lựa chọn bạn đời thì cả hai bên đều muốn chọn những gia đình có “lý lịch tốt” hay có hoàn cảnh hợp với nhau. Nhưng dù nam hay nữ thì những tiêu chuẩn cơ bản như: gia thế, nghề nghiệp, tính cách… phải được đảm bảo. Việc đưa ra các tiêu chuẩn không phải là mục đích “kén cá chọn canh” mà chính là lựa chọn một người tương xứng với mình. Một người mình thực sự mong muốn là nền tảng của một gia đình hạnh phúc.
Quan hệ hôn nhân ngày càng được mở rộng hơn. Quan niệm “lấy chồng khó giữa làng còn hơn lầy chồng sang thiên hạ” hầu như không còn tồn tại trong tư tưởng của nam nữ thanh niên ngày nay. Thêm vào đó là sự xuất hiện trào lưu kết hôn với người ngoại quốc. Thường thì dâu Việt rể Trung Quốc, Đài Loan… với nguyên nhân chủ yếu là sự tự nguyện của tình yêu, kinh tế khó khăn, bán người… Kết quả của kiểu hôn nhân này có nhiều điều đáng nói. Về mặt tích cực là đứa trẻ sinh ra, có thể tiếp xúc, hoà đồng với hai nền văn hoá khác nhau, hai ngôn ngữ khác nhau… Ngược lại việc kết hôn với người ngoại quốc cũng là hình thức che đậy cho một loại tệ nạn xã hội: bán phụ nữ qua biên giới. Đây là một hình thức khá phổ biến ở các tỉnh biên giới và Nam Bộ. Kết quả của những người phụ nữ này bị bóc lột sức lao động. đánh đập dã man, lấy một người đàn ông bằng tuổi ông mình, nhiều khi còn mất mạng do không đủ sức chịu đựng. Con cái thì bơ vơ không nơi nương tự, không được giáo dục đến nơi đến chốn… Và có thể trở thành trẻ bụi đời.
Ngày xưa quan niệm chữ trinh, tiết hạnh của người phụ nữ rất khắt khe. Đã có rất nhiều hình thức trừng phạt với người phụ nữ khi vi phạm quan niệm như: cạo trọc đầu bôi vôi hay bỏ rọ trôi sông. Thời nay: quan niệm đó không còn khắt khẽ nữa và thanh niên ít quan tâm . Để chứng minh cho sự
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- QTH (10).doc