Tiểu luận Những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát nội bộ của Ngân hàng nhà nước Việt nam

MỤC LỤC

Lời mở đầu.

PHẦN I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KIỂM SOÁT NỘI BỘ CỦA NHTW.

I. Sự cần thiết của kiểm soát nội bộ đối với NHTW.

1. Khái niệm.

2. Đối tượng kiểm soát của NHTW

3. Nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống kiểm soát.

4. Mô hình, tổ chức của kiểm soát nội bộ.

II. Nội dung và phương pháp kiểm soát nội bộ của NHTW.

1. Kiểm tra kế toán.

2. Kiểm tra hoạt động về kho quỹ.

3. Kiểm tra việc chấp hành chế độ tài chính.

4. Kiểm tra hiệu quả làm việc của đơn vị thuộc NHTW.

5. Kiểm tra máy tính.

PHẦN II: THỰC TRẠNG VỀ KIỂM SOÁT NỘI BỘ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM .

I. Thực trạng về kiểm soát nội bộ của NHNN Việt nam trong thời gian qua.

II. Thành tựu và hạn chế của hoạt động kiểm soát nội bộ của NHNN Việt nam.

1. Thành tựu.

2. Hạn chế.

PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT NỘI BỘ ĐỐI VỚI NHNN VIỆT NAM.

1. Xác định đúng đắn vị trí, vai trò của kiểm soát nội bộ đối với NHTW.

2. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ.

3. Kiện toàn lại bộ máy, phương pháp chỉ đạo điều hành, đào tạo đội ngũ kiểm soát viên có năng lực.

4. Tăng cường công tác kiểm soát nội bộ tại các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố.

5. Nhanh chóng áp dụng tin học vào hệ thống kiểm soát nội bộ.

6. Xây dựng và hoàn thiện các nội dung ghi chép của kiểm soát.

7. Xây dựng và hoàn thiện nội dung về kiểm soát an toàn tài sản.

8. Lập ra một tổ chức có chức năng đánh giá rủi ro và phân loại rủi ro có liên quan đến hoạt động cuả Ngân hàng Nhà nươc.

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1698 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát nội bộ của Ngân hàng nhà nước Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tại vụ tổng kiểm soát có: Tổng kiểm soát Các phó tổng kiểm soát Các kiểm soát viên cấp I, II, III, cao cấp. Tại chi nhánh có kiểm soát trưởng, kiểm soát phó và kiểm soát viên. II. Nội dung và phương pháp kiểm soát hoạt động của NHTW Kiểm tra kế toán Nội dung gồm : Kiểm tra tài khoản kế toán nhằm đảm bảo việc hạch toán đầy đủ đúng tính chất, nội dung, thời gian, số tiền và số dư. Phương pháp kiểm tra: xem xét việc mở tài khoản, đối chiếu chứng từ với tài khoản, đối chiếu tài khoản phân tích với tài khoản tổng hợp, đối chiếu sự phù hợp giữa qui định về nội dung, tính chất tài khoản với những khoản được hạch toán, rút số dư tài khoản, xem xét thủ tục đóng và phong toả tài khoản. Kiểm tra chứng từ: nhằm đảm bảo các chứng từ hợp lệ và chấp hành đúng tính chất pháp lí. Phương pháp kiểm tra: Xem xét tính hợp lý của chứng từ thu chi (chữ ký của các thành viên phải ký, số tiền, chứng từ thật hay giả. Xem xét tính hợp lý của nghiệp vụ ghi trên chứng từ. Kiểm tra báo cáo kế toán: Kiểm tra tính hợp lý trên các báo cáo kế toán nhằm đảm bảo tính trung thực của báo cáo. Phương pháp kiểm tra báo cáo kế toán: Cơ sở dữ liệu để lập báo cáo phải đảm bảo hợp lệ, đầy đủ và chính xác, đảm bảo tính cân đối của báo cáo, tính pháp lý của việc lập báo cáo, việc chấp hành chế độ báo cáo. Kiểm tra các hoạt động về kho quỹ Khái niệm: Kiểm tra các hoạt động về kho quỹ là đảm bảo an toàn tuyệt đối về tiền, giấy tờ có giá trị như tiền, vàng bạc, đá quý. Nội dung kiểm tra các hoạt động về kho quỹ: + Kiềm tra sự an toàn của kho quỹ: Kiểm tra vị trí đặt kho quỹ, thiết bị đảm bảo an toàn và các biện pháp bảo vệ kho quỹ, chế độ ra vào kho, việc quản lý sử dụng chìa khoá kho. Kiểm tra việc in tiền và giấy tờ có giá, kiểm soát sự khớp đúng giữa số liệu hạch toán và số liệu kiểm kê về giấy in tiền. Kiểm tra sự khớp đúng giữa giấy in tiền đã xuất dùng với số lượng tiền đã in được. Kiểm soát số lượng tiền in hỏng và biện pháp thanh lý tiền in hỏng. Kiểm soát tính hợp pháp của các lệnh xuất, giao tiền và thủ tục xuất giao tiền. Kiểm kê tồn kho tiền, sự khớp đúng giữa số liệu kiểm kê và số liệu hạch toán. Kiểm tra chế độ báo cáo. + Kiểm tra việc xuất nhập, tồn kho tiền. Kiểm tra tính hợp pháp của các lệnh xuất, nhập, điều chuyển tiền và các chứng từ thu chi khác; kiểm tra tính chính xác, kịp thời của thanh toán tiền mặt hàng ngày; kiểm tra qui trình kiểm quĩ, đối chiếu số liệu hàng ngày giữa kho quĩ với sổ sách; kiểm tra chế độ quản lý chìa khoá kho quĩ, két. + Kiểm tra việc tiêu huỷ tiền hỏng: mục đích nhằm ngăn ngừa việc tham ô. lạm dụng… Nội dung và phương pháp chủ yếu kiểm soát là xác định tính chất đúng đắn của chủng loại, số lượng tiền phải thanh lý, tính hợp pháp của hội đồng tiêu huỷ tiền, việc chấp hành qui trình tiêu huỷ tiền, kĩ thuật tiêu huỷ. Kiểm tra việc chấp hành chế độ tài chính Kiểm tra việc chấp hành chế độ tài chính nhằm đảm bảo tôn trọng các định mức chi theo quy định, sử dụng chi tiêu có hiệu quả, chống phung phí, tham ô, lợi dụng. Nội dung và phương pháp kiểm soát: Kiểm soát việc chấp hành kỷ luật dự toán thu - chi. Kiểm tra nội dung thu - chi chủ yếu là: tính hợp pháp của các khoản thu, chi, tính hợp lệ của thủ tục, chứng từ, sổ sách mở tài khoản và hạch toán, sự chính xác trong việc tính toán các khoản thu, chi; kiểm tra các tài khoản ngoài bảng. Kiểm tra việc chấp hành chế độ báo cáo quyết toán. Kiểm tra hiệu quả làm việc của đơn vị thuộc NHTW Kiểm tra việc thực hiện các mục tiêu công tác kiểm tra các biện pháp tổ chức hoạt động, kiểm tra tổ chức dân sự. Tóm lại hoạt động kiểm soát hết sức quan trọng và cần thiết cho hệ thống NHNN. Nếu có một hệ thống kiểm soát nội bộ tốt thì tạo điều kiện cho NHNN hoạt động an toàn và có hiệu quả. Kiểm tra máy tính. Việc kiểm tra hệ thống máy tính nhằm đảm bảo cho hệ thống máy tính hoạt động có hiệu quả và chống sự lạm dụng, phá hoại máy tính. Phần II: Thực trạng về kiểm soát nội bộ của NHNN Việt nam. I. Thực trạng về kiểm soát nội bộ của NHNN Việt nam trong thời gian qua. Kiểm soát nội bộ là yêu cầu tất yếu quan trọng trong hoạt động của bất cứ một tổ chức nào, đặc biệt là đối với một tổ chức thuộc “khu vực công” như NHTW của một quốc gia. Trên thực tế, hầu hết các NHTW trên thế giới đều rất quan tâm đến việc xây dựng một cơ cấu kiểm soát nội bộ hiệu quả cho mình đảm bảo đạt được những mục tiêu dài hạn cũng như ngắn hạn đặt ra. ở Việt nam trước năm 1990 hoạt động kiểm soát nội bộ của NHTW chưa được quan tâm một cách đầy đủ. Từ khi Thống đốc NHNN ký quyết định số 115/NH- QĐ ngày 27/12/1990 thành lập vụ “Tổng kiểm soát” trên cơ sở tách chức năng từ vụ kế toán và tổng kiểm soát theo tinh thần pháp lệnh NHNN, công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộNHNN mới thực sự được quan tâm một cách có hệ thống. Ngày 7/3/1991 Thống đốc NHNN đã ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của vụ tổng kiểm soát trong đó xác định nhiệm vụ chủ yếu của vụ tổng kiểm soát là: Tham mưu cho Thống đốc NHNN về ban hành và thực hiện quy chế về kiểm soát đối với các đơn vị thuộc hệ thống NHNN, kiểm tra định kỳ và đột xuất các cơ quan, đơn vị thuộc NHNN, kiểm soát an toàn hoạt động kho quỹ, in đúc tiền, xuất nhập tài sản, kiểm soát tính chính xác, đầy đủ của các bảng cân đối quyết toán lỗ, lãi của NHNN hàng năm, xem xét giải quyết đơn thư khiếu tố thuộc hệ thống NHNN, tham gia ý kiến xây dựng văn bản pháp quy của NHNN, kiến nghị Thống đốc chỉ đạo và kiến nghị các đơn vị được kiểm tra thực hiện bổ sung, chỉnh sửa các tồn tại, sai phạm đã được phát hiện qua kiểm tra kiểm soát… Hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ của NHNN việt nam được tổ chức theo quy định tại điều 57 luật NHNN do Quốc hội nước CHXHCNVN thông qua tháng 12 năm 1997 và có hiệu lực thi hành ngày 1 tháng 10 năm 1998. Tại điều 57 của luật này đã quy định: Vụ tổng kiểm soát là đơn vị tham mưu của Thống đốc NHNN việt nam được thành lập với 5 phòng chuyên môn, thực hiện kiểm soát hoạt động của các đơn vị thuộc hệ thống NHNN, kiểm toán nội bộ toàn bộ các đơn vị thuộc hệ thống tổ chức bộ máy của NHNN bao gồm 61 chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố, văn phòng đại diện NHNN tại TP. HCM, 17 Vụ, Cục thực hiện chức năng quản lý Nhà nước tại NHTW, 6 đơn vị sự nghiệp. Ngoài ra hiện nay vụ tổng kiểm soát còn thực hiện nhiệm vụ kiểm tra đối với hệ thống Tổng công ty vàng bạc đá quý và các công ty, xí nghiệp trực thuộc. Trong hệ thống NHNN Việt nam hiện nay các khái niệm về kiểm soát được hiểu là kiểm soát hoạt động của các đơn vị thuộc hệ thống NHNN là quá trình kiểm tra và giám sát các hoạt động nghiệp vụ NH tình hình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị và chấp hành pháp luật, các chính sách, chế độ của Nhà nước, của NHNN. Thống đốc NHNN chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ trong NHNN, thủ trưởng các đơn vị thuộc hệ thống NHNN chịu trách nhiệm về hệ thống kiểm soát nội bộ của đơn vị mình. Theo số liệu của NHNN thì có 150 cán bộ kiểm soát viên (cả TW và địa phương) trong đó có 2 thạc sĩ kinh tế và khoảng 80% trình độ đại học, cao đẳng. Toàn bộ hệ thống có 3 kiểm soát viên chính và trên 100 kiểm soát viên được chuyển tương đương từ ngạch chuyên viên sang. Quy mô, nhiệm vụ mà hệ thống kiểm soát NHNN Việt Nam được sơ lược như sau: Hệ thống các cơ quan, đơn vị trực thuộc NHNN có một số vụ chức năng, văn phòng đại diện NHNN phía Nam, 61 chi nhánh NHNN tỉnh, 6 đơn vị sự nghiệp có bảng cân đối tài chính và báo cáo quyết toán hàng năm thuộc diện phải tiến hành kiểm toán nội bộ. Các vụ chức năng có bảng cân đối tài chính hàng năm đều là các đầu mối thu, chi lớn thì bộ phận kiểm soát nội bộ thực hiện kiểm soát thường xuyên; vụ tổng kiểm soát tiến hành kiểm toán mỗi năm một lần. Tại văn phòng đại diện phía Nam cũng thành lập một phòng kiểm soát nội bộ được uỷ quyền kiểm soát kho tiền, giám sát nhà in tiền khu vực phía Nam và thực hiện một số nhiệm vụ kiểm soát khác. Lĩnh vực quan trọng nhất, luôn được quan tâm hàng đầu là kiểm soát an toàn các kho tiền. Tại vụ phát hành kho, quỹ, phòng kiểm soát nội bộ được giao thường xuyên giám sát các hoạt động nghiệp vụ, bảo đảm an toàn kho, quỹ: Vụ tổng kiểm soát cũng có bộ phận chức năng giám sát kho tiền và nghiệp vụ in tiền để cùng phối hợp thực hiện. Thống đốc giao thêm cho vụ tổng kiểm soát kiểm toán toàn diện 7 doanh nghiệp trực thuộc NHNN, kiểm tra toàn diện hoạt động của Tổng công ty vàng bạc đá quý Trung ương. Với các doanh nghiệp trực thuộc, Vụ tiến hành kiểm soát toàn diện khoảng 2 năm một lần, đối với Tổng Công ty vàng bạc đá quý được tổ chức kiểm tra khi có quyết định của Thống đốc. Qua hơn 10 năm NHNN đã 4 lần thay đổi mô hình tổ chức hoạt động, sửa đổi chức năng, nhiệm vụ nhằm đưa hoạt động kiểm soát nội bộ của NHNN theo đúng thực sự bản chất vốn có của nó và phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Với khoảng thời gian không phải là dài so với lịch sử hoạt động của các hoạt động nghiệp vụ NHTW khác, song hoạt động kiểm soát nội bộ của NHNN trong những năm qua đã đạt được một số kết quả nhất định. Cụ thể là: đã tăng cường kiểm soát hoạt động của các đơn vị cũng như các nghiệp vụ NHTW nhất là các nghiệp vụ có liên quan đến tài chính, tài sản, kho quỹ, xây dựng cơ bản, quản lý, kinh doanh ngoại tệ, nghiệp vụ tín dụng… Sau khi luật NHNN được ban hành có hiệu lực ngày 1 tháng 10 năm 1998 hoạt động kiểm soát nội bộ đã có những bước chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hành động. Nhận thức về vai trò, vị trí của Vụ tổng kiểm soát và công tác kiểm soát nội bộ NHNN đã được nâng lên một bước, công tác tổ chức, chỉ đạo điều hành hoạt động nghiệp vụ đã dần đi đúng nguyên lý cơ bản của kiểm soát nội bộ. Vai trò, chức năng, nhiệm vụ của kiểm soát được xác định chủ yếu là thực hiện kiểm toán nội bộ. II- Thành tựu và hạn chế của hoạt động kiểm soát nội bộ của NHNNVN. Thành tựu Đã xây dựng hệ thống văn bản pháp quy và quy trình hướng dẫn nghiệp vụ cho việc triển khai thực hiện kiểm soát, kiểm toán nội bộ theo quy định của luật NHNN. Hoạt động kiểm soát nội bộ chỉ có thể hoạt động tốt và đạt hiệu quả cao trên cơ sở có một hệ thống các văn bản pháp lý đầy đủ, đồng bộ và phù hợp. Thấy rõ được ý nghĩa của vấn đề đó, với tinh thần tích cực khẩn trương chuẩn bị tháng 12 năm 1998 quy chế tổ chức và hoạt động của Vụ tổng kiểm soát được Thống đốc ký ban hành. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, theo đó cơ cấu, tổ chức của Vụ tổng kiểm soát được hình thành và đi vào hoạt động. Tiếp đó việc ban hành một số văn bản pháp quy cơ bản như quy chế kiểm soát và kiểm toán nội bộ, quy chế kiểm soát viên NHNN và một số văn bản hướng dẫn kỹ thuật nghiệp vụ là cẩm nang quan trọng để kiểm soát viên thực hiện kiểm toán theo tinh thần luật NHNN Việt nam. Trong thời kỳ tư năm 1991 đến năm 1998 với chức năng kiểm soát hoạt động theo quy định của pháp lệnh NHNN Việt nam, có thể nói hoạt động của Vụ tổng kiểm soát chủ yếu tập trung vào kiểm tra, kiểm soát chỉ tiêu tài chính và công tác an toàn kho quỹ. Theo thực tế, hàng năm Vụ tiến hành kiểm soát khoảng 1/3 đầu mối các đơn vị trực thuộc và hoạt động nghiệp vụ của NHNN. Trong năm 1998 vụ tổng kiểm soát đã tiến hành kiểm toán báo cáo tài chính của 20 chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố, kiểm toán toàn bộ hệ thống NHNN tại vụ kế toán tài chính đã phát hiện có sai sót là 4250 triệu đồng; năm 1999, vụ tổng kiểm soát đã thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính năm của 19 chi nhánh tỉnh, thành phố và phát hiện có sai sót là 3180 triệu đồng. Năm 2000 đã thực hiện kiểm soát hoạt động và kiểm toán bằng cân đối tài chính 19/ 61 chi nhánh, 2 Vụ chức năng và cơ quan đại diện phía Nam, đến 10/2000 đã cơ bản hoàn thành kế hoạch. Năm 2000 Thống đốc còn giao thêm nhiệm vụ kiểm toán toàn bộ 3 công trình XDCB. Năm 2002 hoạt động kiểm soát NHNN đã có sự chuyển biến tích cực cả về số lượng và chất lượng. Cụ thể như sau: Nhận thức về vai trò của kiểm soát nội bộ. Tại các đơn vị Vụ, Cục, chi nhánh NHNN được nâng lên, tạo môi trường kiểm soát tốt. Hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN đã đi vào nề nếp, mở rộng các mặt hoạt động Ngân hàng cả về chiều rộng và chiều sâu. Các sai phạm và tồn tại qua kiểm toán nhìn chung đã giảm tài sản được quản lý và đảm bảo an toàn. Công tác kiểm soát của NHNN đã được trú trọng. Các quy trình, nghiệp vụ có thể dẫn đến rủi ro đã được xây dựng hệ thống kiểm soát, các cấp độ kiểm soát đã được hình thành. rộng và chiều sâu. Các sai phạm và tồn tại qua kiểm toán nhìn chung đã giảm tài sản được quản (1) Một số vụ, Cục chức năng Vụ tổng kiểm soát Kiểm soát cấp độ III Phòng hoặc bộ phận kiểm soát Kiểm soát cấp độ I Kiểm soát cấp độ II (2) (3) (5) (6) (4) (7) Thường do những người trực tiếp thực hiện nghiệp vụ thực hiện Thường do những người quản lý ở các cấp thực hiện Thường do kiểm toán nội bộ, kiểm toán Nhà nước thực hiện Sơ đồ hoạt động kiểm soát NHNN Việt nam hiện nay Vụ Tổng kiểm soát thực hiện kiểm toán nội bộ. Vụ Tổng kiểm soát chỉ đạo nghiệp vụ kiểm soát, kiểm toán nội bộ cho các phòng, bộ phận kiểm soát ở một số đơn vị và ở 61 chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố. Vụ Tổng kiểm soát tham gia giám sát trực tiếp hàng ngày về xuất nhập tiền tại kho tiền Trung ươngI, tại nhà máy in tiền quốc gia, tham gia giám sát tiêu huỷ tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông. Phòng hoặc bộ phận kiểm soát tham gia kiểm toán nội bộ. Phòng hoặc bộ phận kiểm soát tham gia giám sát trực tiếp một số nghiệp vụ về tiền tệ, kho quỹ, mua sắm tài sản, kiểm soát trực tiếp một số công việc của kế toán, tài chính. Phòng hoặc bộ phận kiểm soát tham gia quản lý một số công việc nghiệp vụ. Một số Vụ, Cục chức năng NHTW tham gia kiểm tra theo chuyên ngành quản lý. Một số chỉ tiêu kiểm soát, kiểm toán nội bộ của NHNN hai năm 1998 và 1999 là: Giám sát trực tiếp các kho tiền, các nhà máy thực hiện in tiền gồm có: Các kho tiền TW thì thường xuyên theo dõi mỗi lần xuất nhập kho. Các kho tiền đặt tại các chi nhánh tỉnh, thành phố thì giám sát kiểm kê vào cuối mỗi lần xuất nhập kho. Các nhà máy thực hiện in tiền thì giám sát từng lần xuất nhập giấy in tiền, mực in, xuất nhập tiền. Số lượng kiểm soát viên: Tại Vụ tổng kiểm soát: năm 1998 là 48 người, năm 1999 là 47 người. Tại chi nhánh: năm 1998 là 125 người, năm 1999 là 123 người. Tại các đơn vị phụ thuộc: năm 1998 là 17 người, năm 1999 là 12 người. Số lượng cuộc kiểm toán: Kiểm toán báo cáo tài chính: năm 1998 có 21 cuộc kiểm toán, năm 1999 có 19 cuộc kiểm toán. Kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động: năm 1998 có 2 cuộc kiểm toán, năm 1999 có 1 cuộc kiểm toán. Tổng giá trị kiểm toán phát hiện có sai sót: năm 1998 là 4250 triệu đồng, năm 1999 là 3180 triệu đồng. Các quy chế kiểm soát đã được hình thành gắn liền với các quy định và chức năng, nhiệm vụ của các đơn vị, các quy trình nghiệp vụ nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các rủi ro có thế xảy ra. 2. Hạn chế Theo nhận định của NHNN thời gian qua công tác kiểm soát nội bộ đã được củng cố một bước và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên công tác này vẫn còn nhiều bất cập. Đó là: Kiểm soát, kiểm toán nội bộ lĩnh vực ngoại hối, tin học của NHNN tuy đã có nhưng chưa đầy đủ và đồng bộ. Có thể nói trong hai lĩnh vực này các cơ chế, chính sách còn thiếu, các cán bộ trực tiếp kiểm soát cũng như cán bộ tác nghiệp lĩnh vực này còn yếu về mặt nghiệp vụ, bất cập với những công việc liên quan. Một số đơn vị chưa thực sự quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ dẫn đến vẫn còn để xảy ra mất tiền trong kho quỹ. Vi phạm các quy định về quản lý kinh tế, tài chính. Tình hình chấp hành chế độ, chính sách, tổ chức bộ máy, trình độ, năng lực của cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ. Phòng hoặc bộ phận kiểm soát ở các Vụ, Cục, tổ chức chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố đều trực thuộc quyền quản lý trực tiếp của thủ trưởng các đơn vị. Trên thực tế hoạt động kiểm soát, kiểm toán nội bộ NHNN đang gặp phải không ít khó khăn do một số quy định về bộ máy, tổ chức, trình độ cũng như tiêu chuẩn kiểm soát viên chưa sát hợp thực tế, trang thiết bị hoạt động thiếu thốn và một số bất cập khác trong quy định về hoạt động này. Sau khi thống đốc chỉ thị việc tăng cường công tác kiểm soát, kiểm toán nội bộ, vụ tổng kiểm soát đã xây dựng đề án về hoàn chỉnh, xây dựng lại bộ máy. Đề án cũng xác định lại chức năng, nhiệm vụ của vụ tổng kiểm soát nhằm nâng cao chất lượng kiểm soát, kiểm toán nội bộ cho phù hợp với yêu cầu trước mắt và trong tương lai. Hướng điều chỉnh là chức năng chính của vụ tổng kiểm soát là kiểm toán nội bộ với 2 nội dung là kiểm toán hoạt động và kiểm toán báo cáo tài chính các cơ quan, đơn vị trong hệ thống NHNN, nhiệm vụ kiểm soát sẽ giao cho kiểm soát nội bộ các đơn vị. Trong những năm qua, lực lượng kiểm soát tại các đơn vị, chi nhánh tuy cũng góp một phần thực hiện nhiệm vụ kiểm soát nội bộ ngành nhưng hoạt động còn nhiều hạn chế. Nhận xét về hoạt động kiểm soát tại các chi nhánh, ông Trương Đình Song- Vụ trưởng Vụ tổng kiểm soát cho biết: “Mặt tốt của lực lượng này là thực hiện kiểm soát tại chỗ và thường xuyên, tham mưu cho lãnh đạo chi nhánh hạn chế rủi ro trong quản lý hoạt động và thực hiện các nghiệp vụ. Mặt hạn chế là do chịu sự lãnh đạo trực tiếp của chi nhánh nên lực lượng này chưa phát huy tối đa được tính độc lập, chủ động.” Hiện nay chỉ có một số ít chi nhánh làm được tốt công tác kiểm soát nội bộ, đó là những chi nhánh kiểm soát được toàn diện các hoạt độngcác phòng ban kể cả ban giám đốc, kiểm soát báo cáo tài chính, kiểm soát an toàn kho tiền. Theo quy chế kiểm soát nội bộ các chi nhánh NHNN, kiểm soát nội bộ trực thuộc giám đốc, nhưng thực tế hiện nay còn khá nhiều chi nhánh do phó giám đốc phụ trách. ở NHNN công tác kiểm soát cũng do một phó thống đốc phụ trách. Bố trí như vậy khi kiểm soát, kiểm toán nội bộ các lĩnh vực của các phó thống đốc khác làm phát sinh một số khó khăn trong phối hợp giữa cấp phó phụ trách kiểm soát nội bộ với cấp phó phụ trách lĩnh vực đang được kiểm soát. Công tác kiểm soát của NHNN đã được trú trọng. Các quy trình, các nghiệp vụ có thể dẫn đến rủi ro đã được xây dựng hệ thống kiểm soát. Các cấp độ kiểm soát đã được hình thành. Tuy nhiên, đối với NHNN Việt nam hiện nay các cấp độ kiểm soát chưa được phân biệt rõ ràng, do đó trách nhiệm thực hiện trong từng cấp độ kiểm soát cũng chưa được thực hiện cụ thể như ngoài những cán bộ trực tiếp thực hiện các công việc liên quan thì trong từng khâu, từng mắt xích đều có sự kiểm soát lẫn nhau, lại còn có những bộ phận kiểm soát chuyên trách (Vụ tổng kiểm soát ở Trung ương, các phòng hoặc các bộ phận kiểm soát ở một số đơn vị thuộc NHNN Trung ương, ở các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố) có lúc thì trực tiếp kiềm soát ở cấp độ I, có lúc thì kiểm soát ở cấp độ II, có lúc thì thực hiện ở cấp độ III. Một số Vụ, Cục chức năng ở NHTW cũng được giao nhiệm vụ kiểm tra theo chức năng. Chính vì những quy định về chính sách, mô hình kiểm soát chưa thật rõ ràng về mặt bản chất, các cấp độ kiểm soát chưa phân biệt cụ thể nhiệm vụ và trách nhiệm của những người liên quan trong hệ thống kiểm soát Ngân hàng Nhà nước nên tự bản thân hệ thống kiểm soát đã không phân biệt được chức năng, nhiệm vụ cụ thể của mỗi cấp trong chức năng kiểm soát. Hệ thống NHNN có rất nhiều các rủi ro có thể xảy ra như: - Rủi ro in đúc tiền, phát hành, điều chuyển tiền, tiêu huỷ tiền giấy, tiền kim loại. - Rủi ro trong dự trữ kinh doanh ngoại hối như thất thoát trong mua bán, thanh toán lỗ do tỷ giá, do biến động của thị trường. - Rủi ro trong công nghệ tin học. - Rủi ro do mất tài sản, tiền, vàng… - Rủi ro do thiên tai, hoả hoạn… Tất cả các loại rủi ro này cần có phân loại và đánh giá chi tiết để phục vụ cho hoạt động của NHNN. ở NHNN Việt nam hiện nay đã xác định được một số nghiệp vụ có rủi ro cao để ban hành quy chế giám sát chặt chẽ như quy chế dự trữ và kinh doanh ngoại hối, quy chế in, vận chuyển bảo quản, tiêu huỷ tiền. Tuy nhiên hiện nay NHNN Việt nam chưa có một tổ chức nào được giao chức năng đánh giá rủi ro và phân loại rủi ro có liên quan đến các hoạt động của NHNN. Trong năm 2002 Vụ đã thường xuyên chỉ đạo các chi nhánh giám sát, kiểm tra công tác an toàn kho quỹ thường xuyên, chặt chẽ đảm bảo an toàn tuyệt đối tài sản, cho đến nay, qua đánh giá và kiểm soát kho quỹ của NHNN đảm bảo an toàn, không mất mát tài sản. Mặt khác Vụ đã thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động xuất nhập tài sản tại kho tiền Trung ương, thực hiện chế độ kiểm kê tài sản tại kho tiền Trungương theo đúng chế độ quy định, tham gia cùng các Bộ tài chính, Bộ công an giám sát, đảm bảo an toàn tài sản trong công tác tiêu huỷ tiền không đủ tiêu chuẩn lưu thông. Trong năm 2002 Vụ tổng kiểm soát đã tiến hành kiểm soát nội bộ tại 13 chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố cho thấy nhìn chung các đơn vị đã đảm bảo tuyệt đối tài sản kho quỹ, chấp hành nghiêm túc việc chấn chỉnh sau kiểm soát. Tuy nhiên, qua kiểm soát phát hiện một số tồn tại là việc ban hành quy chế làm việc của Ban giám đốc còn chậm hoặc có điểm chưa phù hợp với quyết định 25/1999/QĐ- NHNN9 ngày 11/1/1999 của Thống đốc hoặc chưa bổ sung, chỉnh sửa quy định về chức năng, nhiệm vụ của các Phòng, ban theo quyết định 25/1999/QĐ- NHNN9 mà vẫn thực hiện trên cơ sở quyết định 361/ QĐ- NHNN9 ngày 31/12/1996. Một số chi nhánh chưa lưu trữ văn bản theo Quyết định 252- QĐ/NH ngày 28/12/1993 của Thống đốc về thời hạn bảo quản hồ sơ lưu trữ trong ngành ngân hàng, thực hiện chế độ thông tin báo cáo theo quyết định 516/2000/QĐ- NHNN1 ngày 18/12/2000 của Thống đốc có lúc còn chậm, trong công tác thanh toán: hệ thống mạng máy của các chi nhánh được làm từ năm 1993 theo thiết kế mạng BUS, nay đã xuống cấp. Một số chi nhánh đã tiến hành cải tạo, nâng cấp nhưng mang tính chắp vá, thiếu đồng bộ. Với thực trạng hệ thống mạng như hiện nay sẽ ảnh hưởng đến tốc độ công tác thanh toán, việc thực hiện chế độ thông tin báo cáo và triển khai kiểm soát qua mạng máy của Kiểm soát viên theo Quyết định số 271/2002/QĐ- NHNN ngày 1/4/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Về thời hạn sử dụng mã khoá bảo mật trong thanh toán chậm thay đổi, sau khi có phản ánh của Vụ tổng kiểm soát và chỉ đạo của Thống đốc, đến ngày 20/6/2002, Vụ kế toán- tài chính mới có công văn số 810/CV?KTTC2- tm ngày 24/6/2002 cấp mã khoá bảo mật mới và huỷ mã khoá bảo mật cũ, nhưng theo phản ánh của một số chi nhánh thì các mã khoá mới này chưa quy định cụ thể thời hạn sử dụng cụ thể, có tiềm ẩn rủi ro. Trong công tác an toàn kho quỹ: tồn tại nổi lên là còn có chi nhánh chưa chấp hành nghiêm túc chế độ sử dụng bảo quản chìa khoá kho như: chìa khoá dự phòng két, tủ sắt chưa được niêm phong và bảo quản tại két của Giám đốc, giấy uỷ quyền của Giám đốc cho Phó giám đốc thực hiện nhiệm vụ quản lý tiện mặt và kho tiền không quy định thời gian cụ thể; khi bàn giao chìa khoá kho tiền không kiểm kê bàn giao tài sản theo quy định. Tại một số chi nhánh kho tiền được xây dựng từ những năm trước nên diện tích hẹp, không có gian đếm, vị trí và cấu trúc kho chưa đáp ứng tiêu chuẩn quy định hiện hành. Phần III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kiểm soát nội bộ đối với NHNN Việt nam. Như em đã trình bày ở trên, trong những năm tới và cả về lâu dài NHNN luôn là bộ phận chủ chốt, quan trọng trong hệ thống NH Việt nam. Tuy nhiên hoạt động của hệ thống các NHNN có tính chất chủ đạo ở tầm vĩ mô. Vì vậy hệ thống kiểm soát nội bộ là vô cùng quan trọng. Từ những hạn chế em đã trình bày ở trên, để xây dựng cơ cấu kiểm soát nội bộ NHNN hợp lý và có hiệu quả, em xin nêu một số giải pháp và kiến nghị sau đây: Từng bước xác định đúng đắn vị trí, vai trò của kiểm soát, kiểm toán nội bộ đối với Ngân hàng Trung ương. Kiểm soát nội bộ có lịch sử phát triển khá lâu ở NHTW các nước đặc biệt là các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Đối với nước ta kiểm soát nội bộ mới được đưa vào nghiên cứu và ứng dụng hơn 10 năm trở lại đây. Vì vậy cần xác định đúng vai trò của nó đối với hệ thống các NHNN tỉnh, thành phố, phải thường xuyên kiểm soát các hoạt động của NHTW. Kiểm soát viên có thể kiểm kê đột xuất tài sản trong kho tiền nhưng không vì thế mà thay thế trách nhiệm kiểm kê cuối ngày, cuối tháng của ban quản lý kho. Trách nhiệm của các đơn vị là phải thiết lập một môi trường kiểm soát lành mạnh và thực hiện các hình thức kiểm soát hữu hiệu trong qúa trình điều hành và thực hiện nhiệm vụ nhằm kịp thời phát hiện và ngăn chặn những rủi ro có thể xảy ra. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế tổ chức và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ nói chung và Vụ tổng kiểm soát nói riêng theo tinh thần luật NHNN Việt nam và phù hợp với chuẩn mực kiểm toán nội bộ NHTW theo thông lệ quốc tế. Tổng kết và tiếp thu lý thuyết hiện đại về kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ để chỉnh sửa, bổ sung hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy, các quy trình nghiệp vụ làm cẩm nang cho các kiểm soát viên. Kiện toàn lại bộ máy, phương pháp chỉ đạo điều hành, đào tạo đội ngũ kiểm soát viên có năng lực. Điều cần nhất là phải đào tạo cho được một đội ngũ kiểm soát viên có khả năng làm việc độc lập và chịu sự điều hành theo hệ thống dọc, hạn chế tối đa việc lệ thuộc về quyền lợi của kiểm soát viên vào các nhà lãnh đạo cơ sở. Kiểm soát nội bộ phải là người đứng bên ngoài để kiểm soát mọi nghiệp vụ phát sinh hàn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35434.doc
Tài liệu liên quan