Tiểu luận Những bước chuyển biến trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước asean trước và sau sự kiện campuchia

MỤC LỤC

A. LỜI NÓI ĐẦU .2

B. NỘI DUNG

I. Giai đoạn 1975 - 1979

1. Bối cảnh .4

a. Tình hình thế giới .4

b. Tình hình trong nước .4

2. Chính sách của Việt Nam .5

3. Đánh giá .6

II. Giai đoạn 1979 - 1986

1. Bối cảnh .6

2. Chính sách của Việt Nam .8

3. Đánh giá .9

III. So sánh Chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước ASEAN trong hai giai đoạn trên .9

IV. Trả lời câu hỏi mở rộng .11

1. Ngoài nước .11

2. Trong nước .12

a. Ý thức hệ .12

b. Cơ sở hạ tầng .13

C. KẾT LUẬN .14

Đánh giá tinh thần tham gia của các thanh viên nhóm

Tài liều tham khảo

 

doc16 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 6599 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những bước chuyển biến trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước asean trước và sau sự kiện campuchia, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ôi xin chia giai đoạn này thành 2 giai đoạn nhỏ, lấy năm 1979 làm cột mốc: 1975 - 1979: Mở rộng quan hệ 1979 - 1986: Đấu tranh chống bao vây, cô lập. Năm 1979 có thể coi là mốc quan trong quan hệ Việt Nam – ASEAN bởi đây là năm diễn ra nhiều biến động trong quan hệ đối ngoại của Việt nam.Việc Việt Nam đưa quân vào Campuchia khiến cho quan hệ giữa Việt Nam và ASEAN giai đoạn này trở nên lạnh nhạt, đối đầu. ASEAN cho rằng Việt Nam đưa quân vào Capuchia là hành động xâm lược, và cùng nhiều nước khác tham gia vào chính sách bao vây, cô lập Việt Nam. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến những khó khăn thách thức trong quá trình gia nhập ASEAN của Việt Nam. Việc phân chia giai đoạn 1975-1986 dựa trên sự kiện Campuchia1979 như trên nhằm trả lời rõ hơn cho câu hỏi lớn mà chúng tôi đưa ra cho bài tiểu luận: “ Những bước chuyển biến trong chính sách đối ngoại Việt Nam với các nước ASEAN trước và sau sự kiện Campuchia”. Mở rộng hơn nữa, trong quá trình nghiên cứu, có một vấn đề chúng tôi luôn đặt câu hỏi, đó là, ngay từ những năm đầu sau thống nhất 1975, Việt Nam luôn có những chính sách mở rộng quan hệ với các nước ASEAN. Nhưng trong hơn 10 năm từ 1975 đến 1986, vẫn chưa thể gia nhập vào tổ chức này, nguyên nhân tại sao? Phải chăng có những nhân tố tác động đến chính sách đối ngoại của ta vào giai đoạn này, dẫn đến những hạn chế, làm chậm bước tiến hội nhập khu vực của Việt Nam? NỘI DUNG I. Giai đoạn 1975-1978 1. Bối cảnh Sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ mùa xuân năm 1975, một trang mới trong lịch sử dân tộc được mở ra, hòa bình được lập lại trên toàn vẹn lãnh thổ. Cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội với khí thế của một dân tộc vừa giành được thắng lợi vĩ đại trong cuộc kháng chiến chống lại kẻ thù mạnh nhất lúc đó - Đế quốc Mỹ. Với thắng lợi của Việt Nam và các nước Đông Dương, có thể nói hệ thống xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới đã không ngừng được mở rộng, phong trào cách mạng thế giới phát triển ngày càng mạnh mẽ. a. Tình hình thế giới Việc Mỹ rút quân khỏi Đông Nam Á lục địa đã khiến cho nền chính trị thế giới bước vào thời kỳ "sau Việt Nam". Cục diện quan hệ giữa các nước lớn cũng diễn biến phức tạp. Nước Mỹ suy giảm thế và lực, khủng hoảng toàn diện về chính trị, kinh tế, xã hội. Trong khi đó, Tây Âu và Nhật Bản vươn lên, trở thành các trung tâm kinh tế thế giới cạnh tranh với Mỹ, các khối quân sự trở nên lỏng lẻo hoặc tan rã ( SEATO). Xu hướng độc lập với Mỹ trong thế giới phương Tây không ngừng tăng lên. Năm 1975, Liên Xô thúc đẩy ký Định ước Helsinki, kết thúc 30 năm đối đầu ở châu Âu. Liên Xô cũng tăng cường mở rộng ảnh hưởng đến Mỹ Lantinh, châu Á, châu Phi, đặc biệt là ở các nước thuộc khối thuộc địa của Bồ Đào Nha mới giành được độc lập và bắt đầu quan tâm nhiều hơn tới Đông Nam Á, châu Á – Thái Bình Dương. Trên mặt trận quốc tế lúc này, xu thế hòa hoãn đang thay thế dần xu thế đối đầu. b. Tình hình trong nước Tranh thủ tình hình quốc tế thuận lợi với Việt Nam sau chiến tranh, Đảng và nhà nước đã mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác kinh tế với nước ngoài nhằm thu hút vốn, thiết bị kỹ thuật phục vụ công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, xây dựng lại đất nước. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã đạt được một số thành tựu quan trọng . 2. Chính sách của Việt Nam Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12-1976), Đảng ta xác định nhiệm vụ đối ngoại là “ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn những vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, khoa học kỹ thuật, củng cố quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta” Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Nxb Sự thật, Hà Nội. . Trong quan hệ với các nước, Đại hội IV chủ trương củng cố và tăng cường tình đoàn kết chiến đấu và quan hệ hợp tác với tất cả các nước xã hội chủ nghĩa; bảo vệ và phát triển mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào – Campuchia; sẵn sàng thiết lập, phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực; thiết lập và mở rộng quan hệ bình thường giữa Việt Nam với tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi. Nhìn lại quá khứ, vào những năm 1960 khi cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam đang ở cao trào và có sự tham gia (trực tiếp hay gián tiếp) của một số nước ASEAN, hai bên hầu như không có quan hệ với nhau (trừ mối quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Indonesia). Cho tới những năm 1970, quan hệ Việt Nam - ASEAN đã dần được thiết lập và phát triển cùng với thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước. Ngày 27/11/1971 các nước ASEAN ra tuyên bố ở Kuala Lumpur thành lập "một khu vực hòa bình, tự do và trung lập ở Đông Nam Á" (ZOPFAN). Tiếp đó, ngày 24/2/1976, các nước ASEAN đã ký kết "Hiệp ước thân thiện và hợp tác" ở Bali với mục tiêu là xây dựng những mối quan hệ hòa bình, thân thiên và hợp tác giữa các nước trong khu vực, tạo nên "một cộng đồng Đông Nam Á hùng mạnh" trên cơ sở tự cường khu vực. Hiệp ước này có điều khoản để ngỏ cửa cho các nước khác ở Đông Nam Á tham gia. (Hồ Sỹ Khoách Quan hệ Việt Nam - ASEAN chuyển sang đối thoại, hợp tác và hội nhập để phát triển - Tập san KHXH nhân văn số 4/1997) Ngày 5/7/1976, để từng bước xóa tan mối lo ngại từ phía các nước ASEAN, trả lời phỏng vấn Thông tấn xã Việt Nam, Ngoại trưởng Việt Nam Nguyễn Duy Trinh đã công bố chính sách bốn điểm của nước ta đối với các nước Đông Nam Á, mà chủ yếu là các nước ASEAN. Nội dung bốn điểm đó là: · Thiết lập quan hệ hữu nghị láng giềng thân thiện, hợp tác kinh tế, văn hoá toàn diện trên cơ sở công bằng và tôn trọng lẫn nhau; · Nỗ lực phát triển hợp tác vì sự nghiệp xây dựng đất nước phồn vinh theo điều kiện riêng của mỗi nước vì lợi ích độc lập dân tộc, hòa bình, trung lập thực sự ở ĐNÁ; · Không để lãnh thổ nước mình cho bất kì nước ngoài nào sử dụng làm căn cứ xâm lược và can thiệp vào công cuộc nội bộ và hợp tác khu vực Đông Nam Á; · Nguyên tắc quan trong nhất là tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi và chung sống hoà bình. Có thể nói, tuyên bố bốn điểm của Việt Nam đã được các nước ASEAN hoan nghênh, vì nó phù hợp với các nguyên tắc của Hiệp ước Bali. Nó đã thể hiện lòng mong muốn của Việt Nam là hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á trong cùng tồn tại hòa bình và vì một Đông Nam Á hòa bình, trung lập thực sự, không có căn cứ quân sự và quân đội của nước ngoài. Sau khi công bố chính sách bốn điểm này, Việt Nam nhanh chóng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Philippin ngày 12/7/1976, với Thái Lan ngày 6/8/1976. Nếu tính cả Indonesia đã có quan hệ ngoại giao với ta từ 1964, Malaysia và Singapore đã có quan hệ với ta từ năm 1973 sau khi Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết, thì ta đã có quan hệ ngoại giao với cả 5 nước ASEAN (khi đó chưa có Brunei). Các cuộc viếng thăm các nước ASEAN của Ngoại trưởng Nguyễn Duy Trinh cuối năm 1976 và đầu năm 1977, của Thủ tướng Phạm Văn Đồng tháng 9 và tháng 10/1978 đã giúp các nước ASEAN hiểu rõ hơn chính sách hữu nghị và hợp tác của Việt Nam, làm tăng thêm hứa hẹn về tương lai quan hệ giữa các nước trong khu vực. Lưu Văn Lợi, "ASEAN: con đường 30 năm" 3. Đánh giá Có thê thấy điểm nổi bật trong Chính sách đối ngoại với các nước ASEAN giai đoạn 1976-1979 là Chính sách Bốn điểm. Chính sách này đã thể hiện lòng mong muốn của Việt Nam là hữu nghị và hợp tác với các nước trong khu vực Đông Nam Á trong cùng tồn tại hòa bình và vì một Đông Nam Á hòa bình, trung lập thực sự, không có căn cứ quân sự và quân đội của nước ngoài. Cũng tranh thủ tình hình quốc tế thuận lợi đối với Việt Nam sau chiến tranh, Đảng và Nhà nước Việt Nam sau đó đã mở rộng quan hệ đối ngoại và hợp tác kinh tế với nước ngoài. Sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta đã hoàn thành, cả nước đã bắt đầu đi vào hàn gắn nhứng vết thương chiến tranh. Vì vậy trên mặt trận đối ngoại, ngoài việc tăng cường quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta luôn chủ trương tập trung mở rộng quan hệ với các nước láng giếng, các nước trong khu vực, đặc biệt là với các nước ASEAN. Việc bước đầu thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước trong tổ chức ASEAN trong giai đoạn này sẽ tạo thuận lợi cho việc triển khai các hoạt động đối ngoại trong giai đoạn sau nhằm xây dựng Đông Nam Á trở thành khu vực hòa bình hữu nghị và hợp tác. Tuy nhiên, giai đoạn này, những nỗ lực ngoại giao của chúng ta là chưa đủ. Bởi sự thật mặc dù đã bình thường hóa quan hệ với ta trên cở sở chính sách bốn điểm trên nhưng các nước ASEAN vẫn thật sự không yên tâm với ý đồ lâu dài của ta. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải kể đến các lực lượng đế quốc và phản động quốc tế đang mưu mô chia rẽ ta với thế giới. II. Giai đoạn 1979 - 1985 Tuy nhiên, công cuộc xây dựng tiến hành chưa được bao lâu thì quan hệ giữa Việt Nam và các nước láng giềng có chung biên giới xuất hiện nhiều trắc trở và phát triển theo chiều hướng ngày càng phức tạp. 1. Bối cảnh Từ 1975-1978, tin vào sự hậu thuẫn của chính quyền Trung Quốc, chính quyền Khmer Đỏ đã nhiều lần tấn công biên giới Tây Nam Việt Nam, tàn sát dân thường, đánh phá các cơ sở kinh tế và quân sự dọc biên giới với mục đích làm kiệt quệ đối phương. Những hành động này, cùng với làn sóng di tản của người Campuchia chạy trốn chính quyền Khmer Đỏ đã làm quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia đổ vỡ hoàn toàn. Sợ rằng Việt Nam sẽ có phản ứng về mặt quân sự, Pol Pot phát lệnh tấn công phủ đầu Việt Nam. Ngày 30/4/1977, quân Khmer đỏ đồng loạt mở các cuộc tấn công lớn vào 14 xã trên tuyến biên giới thuộc các tỉnh từ Tây Ninh đến Kiên Giang, thị xã Hà Tiên bị chiếm. Sau mọi cố gắng đề nghị thương lượng của Việt Nam bị bác bỏ, kể cả các đề nghị thông qua trung gian của Liên Hợp Quốc và Phong trào Không liên kết. Ngày 25/12/1978, bộ đội chủ lưc Việt Nam tổ chức phản công đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia, và tới ngày 7 tháng 1 năm 1979 họ đã tiến quân vào thủ đô Phnôm Pênh, chấm dứt sự thống trị của Khmer đỏ. Phản ứng quốc tế cũng như trong khu vực đối với việc Việt Nam đưa quân vào Cam-pu-chia nói chung không thuận. Chỉ có Liên Xô, Lào và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu ra tuyên bố ủng hộ. Các thế lực thù địch thì lên án Việt Nam đưa quân vào Cam-pu-chia, đòi Việt Nam rút quân và tiến hành tập hợp lực lượng, thực hiện chính sách bao vây cấm vận nhằm làm suy yếu và tạo sức ép với Việt Nam. Còn các nước ASEAN lo ngại chiến tranh có thể lan rộng sang Thái Lan và có thể kéo họ vào cuộc xung đột khu vực; nên dẫn đến những căng thẳng và đối đầu trong quan hệ giữa các nước ASEAN và Việt Nam kéo dài hơn một thập kỷ về vấn đề Cam-pu-chia. Việc Việt Nam nhanh chóng đánh bại Khmer Đỏ khiến Thái Lan lo ngại cuộc chiến sẽ lan rộng do Campuchia không còn là vùng đệm giữa Việt Nam và Thái Lan. Đặc biệt Thái Lan sợ rằng mình sẽ là quân bài Đô-mi-nô tiếp theo. Vì vậy, nước này đã đồng ý cho lực lượng đối lập Campuchia thiết lập căn cứ tại vùng biên giới để tạo thành một vùng đệm giữa Việt Nam và Thái Lan, đồng ý cung cấp các phương tiện giao thông vận tải phục vụ Khmer Đỏ và để các lãnh đạo Khmer Đỏ đi qua đất Thái Lan khi ra nước ngoài. 2. Chính sách của Viêt Nam Trước tình hình khu vực diễn ra đặc biệt phức tạp và sau nhiều Hội nghị ngoại trưởng ba nước Đông Dương với ASEAN được diễn ra, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ V (1982) xác định nội dung chính trong chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước ASEAN: "Việt Nam chủ trương thiết lập những quan hệ láng giềng tốt với ASEAN, sẵn sàng cùng ASEAN xây dựng khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định, kêu gọi đối thoại với ASEAN, thi hành chính sách tranh thủ và đấu tranh với ASEAN". Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội. Với chủ trương, chính sách này của Đảng và Nhà nước, một loạt các biện pháp đã được triển khai để thúc đẩy đối thoại giữa ta với các nước ASEAN. Trước hết, vào tháng Giêng năm 1980, Hội nghị Ngoại trưởng ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia tỏ ý sẵn sàng đàm phán để kí kết Hiệp định song phương về không xâm lược với các nước Đông Nam Á và bàn về vấn đề xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, độc lập, tự do, trung lập, ổn định, phồn vinh. Những động thái tích cực từ phía các nước Đông Dương còn được thể hiện trong việc mong muốn tăng cường hợp tác kinh tế, văn hóa giữa hai nhóm nước này. Đặc biệt, ngày 28/9/1981, Lào đã thay mặt Đông Dương nêu tại Liên Hợp Quốc những nguyên tắc chỉ đạo mối quan hệ cùng tồn tại hòa bình giữa Đông dương và các nước Đông Nam Á vì khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác. Về phía Việt Nam, bên cạnh việc kêu gọi đối thoại, chúng ta còn gắn việc yêu cầu Thái Lan phải chấm dứt viện trợ cho các nhà lãnh đạo của Khmer Đỏ, khẳng định chúng ta sẽ không đưa quân sang phía họ. Tại Hội nghị ngoại trưởng ba nước Đông Dương họp tháng Bảy năm 1982, Việt Nam và Campuchia đã tuyên bố việc Việt Nam rút một bộ phận quân tình nguyện ở Campuchi về nước. Song song với đó, chúng ta cũng luôn nêu rõ sự có mặt của quân đội Việt Nam ở Camphchia là theo yêu cầu của nước bạn và sẽ rút hết quân về nước khi an ninh nước này được đảm bảo. Từ thực tế trên chúng ta có thể thấy rõ chính sách của Việt Nam giai đoạn này là vừa tranh thủ vừa đấu tranh với các nước ASEAN. 3. Đánh giá Giai đoạn 1979 - 1985 là giai đoạn quan hệ giữa Việt Nam với ASEAN ở trong tình trạng đối đầu căng thẳng, có nhiều khó khăn trở ngại mà nguyên nhân chính là vấn đề Campuchia. Mặc dù Việt Nam cũng như Lào và Campuchia đã có nhiều cố gắng để cải thiện tình hình, nhưng không được các ASEAN chấp nhận, họ cho rằng cần phải giải quyết vấn đề Campuchia trước rồi mới giải quyết vấn đề hòa bình, hợp tác khu vực. Quan điểm của cả hai bên còn khá xa nhau. Có thể nói, tư tưởng coi Việt Nam là một nước cấu thành khu vực Đông Nam Á đã được đưa ra trong chính sách 4 điểm nổi tiếng của Chính phủ ta ngày 5/7/1976, tức là ngay sau khi nước ta hoàn toàn thống nhất, thể hiện những quan điểm đúng đắn của Việt Nam trong quan hệ với Đông Nam Á, trước hết là ASEAN. Nhưng rất tiếc trong một thời gian khá dài sau đó cho đến cuối thập kỉ 80, chúng ta đã quán triệt tư tưởng đó chưa sâu sắc. Đồng thời, chúng ta cũng đã chịu ảnh hưởng khá nhiều từ ý thức hệ. "Việt Nam đã xem ASEAN là một khối quân sự - chính trị trá hình được lập ra thay thế SEATO chống Việt Nam, Trung Quốc và các lực lượng cách mạng ở Đông Nam Á. Cách đánh giá võ đoán trên đã khiến nước ta không thấy được mặt tích cực trong chính sách đối ngoại của ASEAN, ngay từ khi tổ chức này được thành lập. Việc xem ASEAN là một tổ chức thân Mỹ hoàn toàn thù địch với ba nước Đông Dương đã làm cho hố ngăn cách giữa Việt Nam và các nước láng giềng Đông Nam Á ngày càng sâu, rộng thêm" Thu Mỹ (1992), "Tư duy chính trị quốc tế mới của Việt Nam và tác động của nó tới quan hệ của nước ta và các nước ASEAN", Quan hệ Việt Nam - ASEAN, Viện Châu Á và Thái Bình Dương, Tr23 . Và kết quả là Việt Nam chúng ta vẫn chưa thể gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) này. III. So sánh Chính sách đối ngoại của Việt Nam với các nước ASEAN trong hai giai đoạn trên Giai đoạn 1975 - 1985, Ngoại giao Việt Nam ngoài việc đặt quan hệ hòa bình, hữu nghị với bạn bè quốc tế còn phải góp phần ngăn chặn thêm 2 cuộc chiến tranh mà trong đó có chiến tranh biên giới Tây Nam với Campuchia. Dù rằng đã sử dụng mọi biện pháp Ngoại giao đề nghị, thương lượng nhưng đối phương không hợp tác, dẫn đến chiến tranh. Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận được những nỗ lực đấu tranh Ngoại giao của Chính phủ Việt Nam. Dẫu vậy vấn đề Campuchia đã bị các lực lượng đế quốc và phản động quốc tế khai thác để bao vây, cấm vận về kinh tế và cô lập về chính trị nước ta trong thời gian khá dài sau này. Chính sách đối ngoại của ta thời kỳ này đã thể hiện sự khóe léo, nhạy bén trước tình hình để đưa ra được những sách lược đúng đắn. Chính phủ đã tập trung hơn vào việc đặt quan hệ Ngoại giao, giúp phát triển các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, gìn giữ hòa bình thế giới sau ngày nước nhà được độc lập. Vấn đề phát triển kinh tế được chú tâm hàng đầu. Đại hội V đã xác định: Công tác đối ngoại phải ra sức tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn về nhiều mặt cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Đặc biệt công tác đối ngoại phải trở thành một mặt trận chủ động, tích cực... Sau chiến tranh biên giới Tây Nam và việc thiết lập ngoại giao với các quốc gia ASEAN giai đoạn 1975-1978, Đại hội cũng đã khẳng định: Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia là một quy luật phát triển của cách mạng ba nước, là điều có ý nghĩa sống còn đối với vận mệnh của ba dân tộc nên nhân dân ta phải giữ gìn tình hữu nghị trong sáng và truyền thống đoàn kết giữa ba dân tộc, không ngừng củng cố tăng cường quan hệ đặc biệt và liên minh chiến đấu giữa ba nước. Thiết lập quan hệ láng giềng tốt với các nước ASEAN, luôn sẵn sàng cùng các nước này phối hợp cố gắng để xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hòa bình, ổn định. Có thể hiểu, để phát triển kinh tế, đất nước ta, nhân dân ta cũng như các quốc gia láng giềng anh em, cần giữ vững đoàn kết hòa bình, có an cư thì mới lập nghiệp được. Nhiệm vụ tối quan trọng của Ngoại giao là phải thắt chắt mối quan hệ với các quốc gia trong khu vực giúp tạo thành liên minh vững chắc để phát triển kinh tế cũng như hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau trong nhiều lĩnh vực. Trong nỗ lực khôi phục đoàn kết và hợp tác ba nước Đông Dương đó, Việt Nam chủ trương cùng Lào, Campuchia xây dựng liên minh đặc biệt. Hội nghị cấp cao ba nước Lào - Campuchia - Việt Nam họp vào 23/2/1983 đã thông qua nguyên tắc chỉ đạo quan hệ đoàn kết, hợp tác giữa ba nước và thông qua bốn thỏa thuận: Hội nghị cấp cao Lào - Campuchia -Việt Nam sẽ được triệu tập sau khi lãnh đạo ba nước tham khảo ý kiến của nhau thông qua các Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba nước. Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba nước họp mỗi năm hai lần để giải quyết mọi vấn đề liên quan đến quan hệ ba nước trong thời gian giữa hai hội nghị cấp cao. Thành lập ở mỗi nước một Ủy ban Hợp tác Kinh tế Lào - Campuchia -Việt Nam để thúc đẩy hợp tác kinh tế và phối hợp kế hoạch phát triển kinh tế quốc dân giữa ba nước. Ba Ủy bạn sẽ họp mỗi năm hai lần. Tùy theo điều kiện cho phép, có thể thành lập các Ủy ban hợp tác giữa ba nước trong các ngành chuyên môn về kinh tế, văn hóa, Khoa học Kỹ thuật, Thể dục Thể thao... Điểm khác biệt lớn nhất trong chính sách đối ngoại giai đoạn 1979 - 1986 so với giai đoạn 1975 - 1978 là Việt Nam đã thiết lập được quan hệ liên minh, xác định cơ cấu tổ chức cho mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương. Đặc biệt là các thỏa thuận rút quân hàng năm của Việt Nam trên đất Campuchia khi đảm bảo không còn mối nguy hiểm nào đe dọa an ninh khu vực. Ngày 24/1/1986, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ba nước, ta nhắc lại đề nghị năm điểm và nhấn mạnh hai mặt của vấn đề Campuchia, cam kết rút hết quân tình nguyện, chấm dứt viện trợ quân sự và can thiệp nước ngoài vào Campuchia, thiết lập khu vực Đông Nam Á hòa bình, ổn định; tạo cơ sở thúc đẩy nhanh giải pháp cho vấn đề Campuchia. Ngoại giao còn có nhiệm vụ thúc đẩy đối thoại với các nước ASEAN do các nước này là những quân tốt trong bàn cờ của Mĩ, Trung Quốc và các nước phương Tây. Đó là những quốc gia đã sử dụng chiêu bài bao vây, cô lập và cấm vận Việt Nam, ủng hộ chính phủ ba phái Campuchia lưu vong và đi tới đối đầu với ba nước Đông Dương. Thông qua việc nhận thấy khả năng đối thoại từ phía Indonesia và một số quốc gia ASEAN khác mà các cuộc gặp chính thức của Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam và Lào tới các nước ASEAN đã được thực hiện. Bên cạnh đó, với sáng kiến hòa bình tại diễn đàn Liên hợp Quốc từ phía các nước Đông Dương đã cho thấy mong muốn các nước ASEAN hãy cùng Việt Nam, Lào và Campuchia tiến hành đối thoại và thương lượng để giải quyết những vấn đề trong quan hệ giữa hai nhóm nước, tiến tới thực hiện một Đông Nam Á hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác. Mặc dù với rất nhiều các sáng kiến của ba nước Đông Dương trong những năm 1980 - 1983 như Hiệp định song phương giữa 3 nước này với ASEAN về không xâm lược và xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, độc lập, trung lập, ổn định, phồn vinh; Hội nghị giữa 2 nhóm nước đề bàn về vấn đề bình ổn, hòa bình khu vực được một Hội nghị quốc tế đảm bảo; chỉ ra 7 nguyên tắc chỉ đạo quan hệ cùng tồn tại hòa bình giữa 2 nhóm nước; lập khu phi quân sự ở 2 bên biên giới Thái Lan - Campuchia.... nhưng phải đến mãi đến tháng 2/1985, Hội nghị Ngoại trưởng các nước ASEAN mới cử Indonesia đối thoại với các nước Đông Dương. Song quan hệ giữa 2 Việt Nam với các nước Đông Dương không tiến trển nhanh do ASEAN chịu tác động mạnh từ Hoa Kì, Trung Quốc và ta vẫn nặng phê phán ASEAN, gắn việc rút quân với yêu cầu Thái Lan chấm dứt viện trợ về mọi mặt cho lực lượng ba phái Campuchia. Nhìn chung, chính sách đối ngoại của Việt Nam ở 2 giai đoạn 1975-1978 và 1978-1985 đều nhằm thúc đẩy quan hệ với 2 nước láng giềng và các quốc gia ASEAN, mong tìm giải pháp hòa bình, hợp tác, giúp phát triển kinh tế nước nhà. Tuy rằng quan hệ với các nước Đông Dương của Việt Nam đã đạt được những thành công, đặc biệt là cải thiện đáng kế với Campuchia nhưng vẫn vấp phải sự cô lâp từ phía ASEAN do nhiều nguồn tác động. Đối với ASEAN, cả 2 giai đoạn này vẫn là một tiến trình thiết lập quan hệ ngoại giao với nhóm nước này. Tuy gặp nhiều khó khăn nhưng cũng là bài học kinh nghiệm cho nỗ lực ngoại giao sau này với các quốc gia đó. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI cũng chỉ ra nguyên nhân chủ quan của các khó khăn trên mặt trận đối ngoại thời kì 1979-1986 này là "bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội,...", là "những sai lầm nghiêm trọng về chủ trương chính sách lớn, về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện..." IV. Trả lời câu hỏi mở rộng Giai đoạn 1975-1985, Việt Nam phải đối mặt với những thách thức không nhỏ trước những biến đổi lớn trên thế giới cũng như trong khu vực. Những điều này đã tác động trực tiếp đến những chính sách đối ngoại của ta giai đoạn này, đặc biệt trong quan hệ với các nước ASEAN. Mặt khác, đó là những nhân tố tác động làm cản trở con đường Việt Nam đến với tổ chức này: 1. Ngoài nước Có thể thấy, đây là thời kỳ bị chi phối rất mạnh mẽ bởi mâu thuẫn Đông - Tây hay nói cách khác đó là bởi Chiến tranh lạnh. Cục diện thế giới không ngừng xoay vần dưới sự nhào nặn của các cường quốc lớn. Liên Xô - anh cả của phe Xã hội chủ nghĩa là một nhân tố cần được nhắc đến đầu tiên. Đây vẫn là một "hòn đá tảng" trong chính sách đối ngoại của Việt Nam ta Đảng Cộng sản Việt nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1982, tập I, tr.144-145 . Người anh này là nhà tài trợ, viện trợ lớn nhất trong việc giúp Việt Nam tái thiết lại đất nước sau chiến tranh. Đặc biệt giai đoạn này, mối quan hệ Liên Xô - ASEAN đang bị ngưng trệ, thậm chí không ít thời gian trở nên căng thẳng trong trạng thại thù địch. Do vây, nếu Việt Nam gia nhập ASEAN lúc này thì dường như đó là một công việc gậy ông đập lưng ông. Chắc hẳn các nhà hoạch định chính sách cũng đã đặt ra giả thuyết này. Liệu chúng ta sẽ ra sao khi người anh cả đó rút toàn bộ viện trở trong khi chúng ta lại đang trong tình thế bị bao vay cấm vận. Và lựa chọn đã được đưa ra, chúng ta chưa thể gia nhập được tổ chức các quốc gia Đông Nam Á này được. Một người láng giềng gần mà chúng ta không thể không nhắc tới ở đây chính là Trung Quốc. Chúng ta chắc hẳn đã rút ra được rất nhiều bài học sau chiến tranh biên giới phía Bắc với người bạn, người đồng chí trong phe Xã hội chủ nghĩa này. Chính Trung Quốc là kẻ giật dây chính quyền PolPốt trong hàng loạt vụ tấn công, xâm lược lãnh thổ Việt Nam từ Hà Tiên đến Tây Ninh. Bên cạnh đó, mối quan hệ Trung - ASEAN không nói là rất tốt thời điểm đó. Do vậy, có thực sự là tích cực cho tiên strinhf Việt Nam gia nhập ASEAN hay không vẫn còn là một vấn đề khó nói. Lực cản cuối cùng mà chúng tôi muốn nhắc tới ở đây chính là Hoa Kỳ. Trước 1975, chúng ta thường coi tổ chức các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN như là một khối SEATO trá hình, một tay sai của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Vì vậy, Hoa Kỳ ít nhiều sẽ còn có tiếng nói trong tổ chức này. Việt Nam có thể tin tưởng để bắt tay với ASEAN trong sự ủng hộ của Hoa Kỳ mà không có bất kỳ sự lo lắng nào chăng? Câu trả lời là có. 2. Trong nước a. Ý thức hệ Nhìn từ phía hoạch định chính sách, có thể thấy, trong giai đoạn này, rất khó để có thể thay đổi một cách nhanh chóng tư duy ý thức hệ cũng như cái nhìn không mấy thiện cảm với ASEAN. Trên thực tế, phía Việt Nam đã có những nỗ lực rất đáng ghi nhận. Tuy nhiên, sự bùng nổ của vấn đề Campuchia đã gần như xóa sạch những nỗ lực đó. Việc thay đổi ý thức hệ trong vấn đề này là một điều không thể và không nên thực hiện, bởi vấn đề Campuchia đối với Việt Nam là vấn đề có thể ảnh hưởng tới an nguy của biên giới quốc gia- một vấn đề không thể đem ra thỏa hiệp đổi chác dễ dàng khi mà sự hiểu biết lẫn nhau của hai bên còn hạn chế. Đồn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu luan chinh sach doi ngoai-nhom Nguyen Anh Quang.doc