Tiểu luận Những điều cần biết Công ty hợp danh

Thành viên hợp danh nắm vai trò hết sức quan trọng trong tất cả mọi công việc từ quản lý nội bộ đến điều hành các hoạt động kinh doanh của công ty, đòi hỏi thành viên hợp danh phải là cá nhân có năng lực, do đó việc vắng mặt cũng như việc thành viên hợp danh bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của công ty, vậy nên tư cách thành viên của người đó phải chấm dứt. Trong trường hợp này, phần vốn góp của người đó được hoàn trả công bằng và thoả đáng ( Khoản 4 Điều 138)

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4090 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những điều cần biết Công ty hợp danh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ả hai loại công ty hợp danh này đều được ghi nhận nhưng không có sự phân tách mà gộp chung dưới một tên gọi duy nhất là “ công ty hợp danh”. Thật vậy, pháp luật Việt Nam quy định công ty hợp danh là doanh nghiệp phải có ít nhất là hai thành viên hợp danh, ngoài các thành viên hợp danh còn có thể có thêm thành viên góp vốn. Nói như vậy có nghĩa là công ty hợp danh theo pháp luật Việt Nam có thể chỉ có một loại thành viên duy nhất là thành viên hợp danh, và phải có số lượng ít nhất là hai thành viên hợp danh mới được thành lập hợp pháp. Đây chính là hình thức công ty hợp danh thông thường mang bản chất “ hợp danh tuyệt đối” giống như quy định của pháp luật nhiều nước trên thế giới. Những điểm khác biệt ở đây là pháp luật Việt Nam đồng thời quy định “ ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn”, tức là đã ghi nhận loại hình công ty hợp danh hữu hạn hay chính là công ty hợp vốn đơn giản theo quy định của pháp luật các nước, và đây cũng là một loại hình công ty đối nhân. Đối với công ty hợp danh hữu hạn ở Việt Nam cũng phải đáp ứng điều kiện cần thiết đó là phải có ít nhất hai thành viên hợp danh và không quy định số lượng thành viên góp vốn, sự xuất hiện của chỉ một thành viên góp vốn cũng đủ làm cho bản chất của công ty hợp danh trở thành “ hợp danh không tuyệt đối” Như vậy, nếu pháp luật các nước chỉ ghi nhận một loại hình công ty hợp danh hay có sự phân tách riêng biệt hai loại hình của nó, thì pháp luật Việt Nam đã đồng thời ghi nhận sự tồn tại của cả hai loại hình công ty công ty hợp danh là: hợp danh thông thường và hợp danh hữu hạn và được gộp dưới một cái tên chung nhất đó là “ công ty hợp danh”. Đó cũng chính là điểm khác biệt cơ bản của pháp luật Việt Nam so với pháp luật các nước trên thế giới cũng như trong khu vực Đông Nam Á. Nhưng nhìn chung, khái niệm công ty hợp danh theo Luật Doanh nghiệp của Việt Nam có nội hàm công ty đối nhân theo pháp luật các nước. Việc quy định về công ty hợp danh, Luật Doanh nghiệp đã ghi nhận sự tồn tại của các công ty đối nhân ở Việt Nam.. 2_ Thành viên công ty hợp danh: Theo luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 quy định công ty hợp danh bao gồm hai loại thành viên: thành viên hợp danh và thành viên góp vốn. Vì vậy, tìm hiểu quy chế thành viên trong công ty hợp danh tức là phân tích hai loại thành viên này cùng những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của nó. 2.1_ Thành viên hợp danh: Thành viên hợp danh là loại thành viên cơ bản trong công ty hợp danh, là điều kiện cần thiết và tiên quyết cho sự ra đời của công ty hợp danh. Đối với Việt Nam, muốn thành lập công ty hợp danh phải có ít nhất là hai thành viên hợp danh. Điểm b Khoản 1 Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “ Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty”. Theo đó, thành viên hợp danh trong công ty hợp danh ở Việt Nam chỉ có thể là cá nhân, pháp luật không cho phép một pháp nhân, một tổ chức trở thành thành viên hợp danh trong công ty hợp danh. Đối với một số trường hợp đặc biệt, nếu công ty hợp danh hoạt động trong những ngành nghề như dịch vụ pháp lý, khám chữa bệnh, dược phẩm, dịch vụ thú y, thuốc thú y, thiết kế công trình, kiểm toán, môi giới chứng khoán,...thì thành viên hợp danh trong công ty đó phải có chứng chỉ hành nghề, trình độ chuyên môn hoặc bằng cấp, nghiệp vụ nhất định. Thành viên hợp danh chịu chế độ trách nhiệm vô hạn và liên đới bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa vụ và khoản nợ của công ty. Chủ nợ có quyền yêu cầu bất cứ thành viên hợp danh nào thanh toán các khoản nợ của công ty đối với chủ nợ. Mặt khác, các thành viên hợp danh phải bằng toàn bộ tài sản của mình ( tài sản đầu tư vào kinh doanh và tài sản dân sự) chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ của công ty. Với một chế độ trách nhiệm vô hạn như vậy, Luật Doanh nghiệp đồng thời trao ch thành viên hợp danh những quyền hạn chủ yếu trong việc điều hành và quản lý công ty. Nói cách khác, thành viên hợp danh giữ vai trò quyết định sự hình thành, phát triển và tồn tại của công ty hợp danh về cả mặt pháp lý lẫn thực tế. Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định những quyền hạn và nghĩa vụ cơ bản của thành viên hợp danh. Cụ thể, thành viên hợp danh trong công ty hợp danh có quyền từ việc điều hành, quản lý công ty, sử dụng tài sản của công ty vào việc kinh doanh nhân danh công ty đến những việc nội bộ khác của công ty...Bên cạnh đó, thành viên hợp danh phải có nghĩa vụ quản lý công ty theo đúng quy định của pháp luật, liên đới chịu trách nhiệm vô hạn đối với mọi khoản nợ của công ty...Có thể thấy, Luật Doanh nghiệp đã trao cho thành viên hợp danh quyền của một chủ công ty thực sự, đồng thời cũng áp dụng một chế độ trách nhiệm vô hạn mà loại thành viên này phải chịu khi thực hiện các hoạt động nhân danh công ty. Thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm về các hoạt động của công ty kể từ khi đăng ký vào danh sách thành viên công ty, bất kể thành viên đó có trực tiếp tham gia vào các hoạt động phát sinh trách nhiệm ấy hay không, trừ trường hợp thành viên đó và các thành viên còn lại có thoả thuận khác ( Khoản 3 Điều 139 Lụât Doanh nghiệp 2005). Ngay cả khi đã chấm dứt tư cách thành viên công ty hợp danh thì trong thời hạn hai năm, thành viên hợp danh vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của công ty đã phát sinh trước ngày chấm dứt tư cách thành viên ( Khoản 5 Điều 138 Luật Doanh nghiệp 2005). Xuất phát từ việc thành viên hợp danh nắm giữ vai trò quan trọng trong việc thành lập và quản lý công ty hợp danh mà điều kiện để trở thành thành viên hợp danh cũng chính là điều kiện được quy định tại Khoản 2 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2005, theo đó, các cá nhân sau đây không thể trở thành thành viên hợp danh của công ty hợp danh: - Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức; - Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân Việt Nam; - Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở hữu nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo uỷ quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác; - Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự; - Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Toà án cấm hành nghề kinh doanh; - Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản. Cũng chính từ vai trò quan trọng và chế độ trách nhiệm vô hạn của thành viên hợp danh mà Luật Doanh nghiệp 2005 ( Điều 133) đã có một số quy định hạn chế đối với quyền của thành viên hợp danh, đó là: - Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc làm thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác; trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại. - Thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tố chức, cá nhân khác. - Thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại. Việc pháp luật hạn chế quyền của thành viên hợp danh cũng là một điều dễ hiểu bởi thành viên hợp danh giữ vai trò quyết định trong sự tồn tại và phát triển của công ty hợp danh, hơn nữa tính đối nhân luôn gắn liền với loại thnhf viên này, do đó việc cho phép thành viên hợp danh được tự do chuyển nhượng vốn cũng như được tự do thoải mái trong hoạt động kinh doanh sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của công ty, đến trật tự của môi trường kinh doanh nói chung và làm méo mó bản chất đối nhân cơ bản của công ty hợp danh. Để tạo sự linh hoạt cho các thành viên hợp danh trong hoạt động kinh doanh, pháp luật một số nước đã trao tư cách thương nhân cho loại thành viên này, có nghĩa là thành viên hợp danh có quyền hoạt động thương mại một cách độc lập, nhân danh chính bản thân mình hoặc nhân danh công ty hợp danh. Về vấn đề này, pháp luật Việt Nam không có quy định cụ thể, nhưng xét trên tinh thần chung của các văn bản hiện hành: Luật Thương mại Việt Nam 2005 quy định: “ Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng lý kinh doanh”. Đồng thời, theo Luật Doanh nghiệp Việt Nam thì thành viên hợp danh có quyền “ nhân danh công ty tiến hành các hoạt động kinh doanh các ngành nghề kinh doanh đã đăng ký” và “ không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác” ( Theo Điều 134 và Điều 133 Luật Doanh nghiệp 2005). Theo đó, pháp luật Việt Nam ghi nhận cá nhân cũng có tư cách thương nhân nếu đáp ứng được điều kiện nhất định, tức là cá nhân đó có quyền nhân danh chính mình để hoạt động thương mại một cách độc lập. Nhưng đối với cá nhân là thành viên hợp danh trong công ty hợp danh thì không được nhân danh bản thân để hoạt động kinh doanh một cách độc lập, mà chỉ được phép nhân danh công ty tiến hành các hoạt động kinh doanh vì lợi ích của công ty. Như vậy, pháp luật Việt Nam vô hình chung đã không công nhân tư cách thương nhân của thành viên hợp danh. Chỉ có công ty hợp danh mới là chủ thể kinh doanh thực sự và có tư cách thương nhân. Về việc chấm dứt tư cách thành viên của thành viên hợp danh, tại Khoản 1 Điều 138 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: Tư cách thành viên hợp danh chấm dứt trong các trường hợp sau đây: - Tự nguyện rút vốn khỏi công ty; Việc cho phép các thành viên hợp danh được quyền rút vốn khỏi công ty đã tạo một cơ chế thông thoáng, linh hoạt cho các thành viên đó có thể tạm ngừng kinh doanh vì hoàn cảnh cá nhân hoặc chuyển hướng sang các mô hình kinh doanh khác có lợi hơn. Nhưng việc rút vốn cũng kéo theo việc thay đổi nhân sự, cơ cấu quản lý và điều hành công ty, gây khó khăn cho công ty, bởi thành viên hợp danh nắm vai trò quyết định. Bởi vậy, Luật doanh nghiệp cho phép các thành viên hợp danh có quyền rút vốn khỏi công ty đồng thời có những quy định ràng buộc đối với hành vi rút vốn của loại thành viên này: Thành viên hợp danh chỉ được rút vốn nếu được Hội đồng thành viên chấp thuận và phải thông báo bằng văn bản yêu cầu rút vốn chậm nhất sáu tháng trước ngày rút vốn; chỉ được rút vốn vào thời điểm kết thúc năm tài chính và báo cáo năm tài chính đó đã được thông qua ( Khoản 2 Điều 138 Luật Doanh nghiệp 2005). Và đương nhiên, khi đã rút vốn ra khỏi công ty thì cũng đồng nghĩa với việc cá nhân đó không còn tư cách là thanh viên hợp danh của công ty nữa. - Chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết; Trường hợp này, người thừa kế của thành viên đó được hưởng phần giá trị tài sản tại công ty sau khi đã trừ đi phần nợ thuộc trách nhiệm của thành viên đó. Và người thừa kế chỉ được trở thành thành viên hợp danh của công ty nếu được Hội đồng thành viên chấp thuận ( Điểm h Khoản 1 Điều 134 Luật Doanh nghiệp 2005). - Bị Toà án tuyên bố là mất tích, hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc mất năng lực hành vi dân sự; Thành viên hợp danh nắm vai trò hết sức quan trọng trong tất cả mọi công việc từ quản lý nội bộ đến điều hành các hoạt động kinh doanh của công ty, đòi hỏi thành viên hợp danh phải là cá nhân có năng lực, do đó việc vắng mặt cũng như việc thành viên hợp danh bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của công ty, vậy nên tư cách thành viên của người đó phải chấm dứt. Trong trường hợp này, phần vốn góp của người đó được hoàn trả công bằng và thoả đáng ( Khoản 4 Điều 138) - Bị khai trừ khỏi công ty; Khi bị công ty khai trừ, tức là thành viên hợp danh đó đã làm những việc không đúng, không đáp ứng yêu cầu và làm ảnh hưởng tiêu cực đến công ty, họ không còn xứng đáng là thành viên của công ty và bị chấm dứt tư cách thành viên. Khoản 3 Điều 138 Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định những trường hợp thành viên hợp danh bị khai trừ khỏi công ty, đó là: Không có khả năng góp vốn hoặc không góp vốn như đã cam kết sau khi công ty đã có yêu cầu lần thứ hai; vi phạm quy định tại Điều 133 Luật Doanh nghiệp; Tiến hành công việc kinh doanh không trung thực, không cẩn trọng hoặc có hành vi không thích hợp khác gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của công ty và các thành viên khác; Không thực hiện đúng các nghĩa vụ của thành viên hợp danh. - Các trường hợp khác do điều lệ công ty quy định. Như vậy, có thể nhận thấy thành viên hợp danh là loại thành viên cơ bản của công ty hợp danh, là điều kiện tiên quyết cho sự ra đời của công ty, nắm giữ vai trò quan trọng trong quản lý và điều hành mọi công việc của công ty, đồng thời chịu chế độ trách nhiệm liên đới và vô hạn đối với mọi khoản nợ cũng như các nghĩa vụ của công ty hợp danh. 2.2_ Thành viên góp vốn: Thành viên góp vốn có thể nói đây là loại thành viên “ phụ” trong công ty hợp danh, sự có mặt của nó hay không đều không làm ảnh hưởng đến việc ra đời của một công ty hợp danh, nhưng sự xuất hiện của thành viên góp vốn sẽ làm thay đổi bản chất đối nhân tuyệt đối của công ty hợp danh, khi đó bản chất đó chỉ con là tương đối. Luật Doanh nghiệp Việt Nam 2005 đã quy định: “ ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn”. Nói như vậy có nghĩa là pháp luật Việt Nam đã ghi nhận loại thành viên này trong công ty hợp danh, đồng thời ghi nhận sự tồn tại của hai hình thức công ty hợp danh đó là hợp danh thông thường( chỉ có các thành viên hợp danh) và hợp danh hữu hạn( có sự xuất hiện của thành viên góp vốn). Khác với thành viên hợp danh, thành viên góp vốn không nhất thiết phải là cá nhân. Các tổ chức, pháp nhân cũng có thể trở thành thành viên góp vốn trong công ty hợp danh. Theo Khoản 4 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2005 thì mọi cá nhân, tổ chức đều có thể góp vốn vào công ty hợp danh, trừ các trường hợp sau đây: - Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử dụng tài sản Nhà nước góp vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình; - Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức, Về chế độ trách nhiệm, thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn góp của mình vào công ty. Họ không phải liên đới chịu trách nhiệm với các thành viên khác, cũng như không phải dùng thêm một tài sản nào khác ngoài số vốn góp để thanh toán nợ khi công ty làm ăn thua lỗ. Họ hưởng lợi nhuận dựa trên phần vốn góp và chỉ chịu rủi ro trong phạm vi phần vốn góp đó mà thội. Dù chỉ là loại thành viên thứ yếu mang tính chất “ phụ” nhưng không vì thế mà phủ nhận vai trò của thành viên góp vốn, thành viên góp vốn chính là những nhà trợ lực về vốn tạo điều kiện cho công ty hợp danh mở rộng quy mô và phát triển hoạt động kinh doanh của mình. Vì vậy, pháp luật Việt Nam cũng trao cho loại thành viên này những quyền hạn nhất định, như: Được tham gia họp, thảo luận và biểu quyết tại Hội đồng thành viên về việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty; Được chia lợi nhuận hằng năm tương ứng với tỷ lệ vốn góp trong vốn điều lệ công ty; được cung cấp thông tin về kết quả và tình hình kinh doanh của công ty;...Nhưng pháp luật cũng quy định thành viên góp vốn trong công ty hợp danh không có quyền quản lý và điều hành các hoạt động kinh doanh của công ty, không được nhân danh công ty để itến hành hoạt động kinh doanh. Việc thành viên góp vốn không có quyền quản lý và điều hành công ty, mọi quyền hành đó đều do các thành viên hợp danh nắm giữ, điều này không phải thể hiện sự bất bình đẳng, sự phân biệt đối xử giữa hai loại thành viên, mà nó khá là hợp lý. Xuất phát từ sự phân công rõ ràng về trách nhiệm của mỗi loại thành viên trong công ty hợp danh: thành viên hợp danh phải chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn đối với mọi khoản nợ và nghĩa vụ của công ty. Mọi hoạt động kinh doanh của công ty, mọi rủi ro, nguy cơ mà công ty có thể sẽ gặp phải đều ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống và quyền lợi của họ. Khi công ty làm ăn thua lỗ, nếu tài sản công ty đủ trang trải nợ nần thì chính các thành viên hợp danh phải liên kết với nhau, dùng cả tài sản dân sự của cá nhân để trả nợ cho công ty. Chủ nợ có quyền đòi nợ bất cứ thành viên hợp danh nào. Do đó, để đảm bảo sự an toàn cho mình, đảm bảo quyền lợi cho bản thân cũng như cho cả công ty, nhằm tránh rủi ro có thể xảy ra, các thành viên hợp danh phải được nắm giữ quyền điều hành và quản lý công ty. Họ sẽ có trách nhiệm và cẩn thận hơn trong việc kinh doanh của công ty. Còn đối với loại thành viên góp vốn, dù công ty có làm ăn thua lỗ đến đâu thì họ cũng chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi phần vốn góp của mình, họ không phải mất thêm một tài sản nào khác cả. Có thể nói việc tham gia của loại thành viên này vào công ty hợp danh là khá an toàn bởi họ được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn. Với tinh thần khá thoải mái, được thì hưởng lợi, mất thì chỉ mất vốn, không ảnh hưởng nhiều đến cuộc sống của mình nên thành viên góp vốn khó có thể điều hành và quản lý công ty một cách cẩn trọng và có trách nhiệm như loại thành viên hợp danh được. Do vậy nên pháp luật không trao cho họ quyền điều hành và quản lý công ty. Nếu việc thay đổi thành viên hợp danh là khó khăn và phức tạp, cũng như việc hạn chế quyền của loại thành viên này thì đối với thành viên góp vốn hoàn toàn ngược lại, sự có mặt hay vắng mặt của họ đều không ảnh hưởng đến sự tồn tại của công ty hợp danh, nên việc thay đổi thành viên góp vốn khá dễ dàng. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005, thành viên góp vốn được tự do chuyển nhượng phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác, được nhân danh cá nhân hoặc nhân danh mgười khác tiến hành kinh doanh các ngành, nghề có đăng ký của công ty. Trong khi đó, các thành viên hợp danh không được phép chuyển nhượng phần vốn góp của mình nếu không có sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại, và họ không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề của công ty. Như vậy, Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định khá cụ thể về quy chế thành viên của công ty hợp danh. Theo đó, công ty hợp danh bao gồm hai loại thành viên: thành viên hợp danh nắm vai trò quản lý và điều hành trong công ty, chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các nghĩa vụ và khoản nợ của công ty. Ngoài thành viên hợp danh, công ty hợp danh có thể có thêm thành viên góp vốn, loại thành viên này không có quyền quản lý công ty và chịu trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi phần vốn góp đối với các nghĩa vụ của công ty. 3_ Các vấn đề về vốn trong công ty hợp danh: Sự thành lập của một tổ chức kinh tế luôn luôn đòi hỏi có những đảm bảo nhất định cho sự phát triển của tổ chức về sau. Một trong những yêú tố hết sức quan trọng cho sự phát triển đó chính là vốn, đã là một tổ chức kinh tế thì không thể không có vốn để duy trì và phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh. Đối với các loại hình công ty, dù mang bản chất đối vốn hay đối nhân thì vốn vẫn luôn có tầm quan trọng nhất định. 3.1_ Về việc góp vốn vào công ty: Công ty hợp danh là loại hình công ty mang bản chất đối nhân, yếu tố được quan tâm hàng đầu là nhân thân của các thành viên trong công ty chứ không phải là vốn. Điều đó thể hiện sự khác biệt so với các loại hình công ty đối vốn như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn...ở đây, vốn có vai trò tiên quyết và được quan tâm nhất. Chính vì bản chất đối nhân cùng với sự tồn tại hai loại thành viên trong công ty hợp danh mà việc góp vốn cũng tạo nên sự khác biệt so với các loại hình doanh nghiệp khác. Theo Khoản 4 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 thì “ Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong Điều lệ công ty do thành viên góp để tạo thành vốn của công ty”. Nếu trong các loại hình công ty đối vốn, phần vốn góp của các thành viên luôn được thể hiện dưới dạng vật chất như vàng, tiền bạc,...thì ở loại hình công ty đối nhân như công ty hợp danh lại có sự khác biệt. Luật Doanh nghiệp quy định công ty hợp danh Việt Nam có hai loại thành viên là thành viên hợp danh và thânh viên góp vốn. Thành viên góp vốn là biểu hiện của tính đối vốn, khi mà sự xuất hiện của họ sẽ làm cho công ty hợp danh không còn mang bản chất đối nhân tuyệt đối, và cũng như các thành viên trong công ty đối vốn, phần vốn góp của thành viên góp vốn trong công ty hợp danh cũng được thể hiện dưới dạng vật chất. Nhưng sự khác biệt chính là ở loại thành viên hợp danh- vì nó chính là biểu hiện của tính đối nhân cơ bản trong công ty hợp danh, nên vấn đề nhân thân luôn được gắn liền với loại thành viên này. Tài sản góp vốn của thành viên hợp danh có thể là mang tính phi vật chất, gắn liền với nhân thân của họ như kinh nghiệm, bí quyết kinh doanh, uy tín,...Điều đó đã tạo nên một cơ cấu vốn đa dạng trong công ty hợp danh, nhằm phân biệt với các loại hình doanh nghiệp khác. Phần vốn góp của thành viên hợp danh và thành viên góp vốn được chuyển quyền sở hữu cho công ty và ghi vào Điều lệ công ty, đó chính là vốn Điều lệ của công ty hợp danh. Ngoài Vốn điều lệ thì công ty hợp danh còn có các loại tài sản khác, đó là: Tài sản tạo lập được mang tên công ty; Tài sản thu được từ hoạt động kinh doanh do các thành viên hợp danh thực hiện nhân danh công ty và từ các hoạt động kinh doanh các ngành, nghề kinh doanh đã đăng ký của công ty do các thành viên hợp danh nhân danh cá nhân thực hiện; và các tài sản khác theo quy định của pháp luật ( Điều 132 Luật Doanh nghiệp 2005). Thành viên hợp danh và thành viên góp vốn phải góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết. Tại thời điểm góp đủ vốn như đã cam kết thành viên được cấp giấy chứng nhận phần vốn góp. 3.2_ Về việc chuyển nhượng phần vốn góp cho người khác: Vì công ty hợp danh theo pháp luật Việt Nam tồn tại hai loại thành viên: thành viên hợp danh và thành viên góp vốn, nên vấn đề chuyển nhượng vốn cũng có sự khác nhau giữa hai loại thành viên này. Đối với thành viên hợp danh, phần vốn góp của họ thường gắn liền với nhân thân, do đó việc chuyển nhượng vốn là điều xem ra khó có thể thực hiện, bởi khi thành viên hợp danh chuyển nhượng phần vốn góp đó cho người ngoài công ty, có nghĩa là công ty sẽ phải tiếp nhận một thành viên hợp danh mới mà có thể người đó hoàn toàn không hề quen biết, điều này ảnh hưởng đến bản chất đối nhân của công ty hợp danh là yếu tố nhân thân luôn được các thành viên quan tâm hàng đầu. Do đó Luật Doanh nghiệp 2005 đã quy định rất hạn chế việc chuyển nhượng phần vốn góp của thành viên hợp danh cho người khác. Điều đó chỉ thực hiện được nếu có sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại( theo Khoản 3 Điều 133 Luật Doanh nghiệp 2005). Còn đối với thành viên góp vốn trong công ty hợp danh, bởi tính chất đối vốn của họ nên việc chuyển nhượng phần vốn góp của loại thành viên này cho người khác là khá tự do và dễ dàng. Điều này cũng dễ hiểu bởi thành viên góp vốn chỉ là những nhà trợ lực về vốn cho công ty, giúp công ty có khả năng mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của mình, việc thay đổi loại thành viên này cũng không làm ảnh hưởng đến cơ cấu nhân sự, sự tồn tại của công ty cũng như tính đối nhân của nó. 3.3_ Về việc huy động vốn: Khoản 3 Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “ Công ty hợp danh không được phát hành bất cứ loại chứng khoán nào”. Vấn đề huy động vốn là rất cần thiết khi công ty gặp khó khăn hoặc muốn mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh mà thiếu vốn. Việc Luật Doanh nghiệp quy định như vậy đã hạn chế rất lớn đến khả năng huy động vốn của công ty hợp danh. Khác với công ty hợp danh, pháp luật cho phép công ty cổ phần được phát hành mọi loại chứng khoán để huy động vốn và chỉ không cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn phát hành cổ phần mà thôi. Đây tỏ ra là sự thiệt thòi của công ty hợp danh so với các loại hình công ty khác đều được Luật Doanh nghiệp điều chỉnh. Nhưng nếu xét về bản chất đối nhân của công ty hợp danh thì điều này trở nên hợp lý, ở công ty hợp danh yếu tố nhân thân luôn được coi trọng hàng đầu, việc thay đổi thành viên hợp danh là hết sức khó khăn và phức tạp, nếu cho phép công ty hợp danh phát hành và chào bán chứng khoán đồng nghĩa với việc sẽ có người ngoài mua và đương nhiên họ trở thành thành viên hợp danh của công ty mặc dù không có mối quan hệ nhân thân nào cả, điều đó sẽ ảnh hưởng đến tính đối nhân- bản chất cơ bản của công ty hợp danh- một loại hình công ty đối nhân. Tuy nhiên, nói như vậy không có nghĩa là công ty hợp danh không có khả năng huy động vốn. Trong quá trình hoạt động, công ty hợp danh có thể tăng vốn Điều lệ bằng cách tăng vốn góp của các thành viên trong công ty hoặc tiếp nhân thêm thành viên mới, kêu gọi các nhà đầu tư góp vốn và trở thành thành viên góp vốn theo quy định của pháp luật và theo Điều lệ của công ty. 4_ Tư cách pháp lý của công ty hợp danh. Khoản 2 Điều 130 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: “ Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh”. Việc Luật Doanh nghiệp 2005 công nhận tư cách ph

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCông ty hợp danh.doc
Tài liệu liên quan