Tiểu luận Những định hướng của chính sách công nghiệp hoá

Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà nước ta có một vai trò cực kỳ quan trọng. Vai trò này thế hiện trước hết ở việc hoạch định các chính sách kinh tế tôi cho rằng những chính sách kinh tế của nhà nước sau đây là quan trọng nhất: chính sách cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu quy mô các xí nghiệp, cơ cấu công nghệ đảm bảo định hương kinh tế mở và hướng về xuất khẩu. chính sách thị trường đảm bảo cho các quan hệ thị trường phát huy tác dụng trong các lĩnh vực: hàng tiêu dùng, sản xuất và dịch vụ, tiền tệ và vốn, bất động sản, lao động, công nghệ. chính sách tài chính và tiền tệ đảm bảo ổn định giá trị đồng tiền, huy động phân bổ và sử dụng các nguồn vốn ngày càng có hiệu quả. Chính sách nguồn nhân lực đảm bảo giáo dục, đào tạo, sử dụng các nguồn nhân lực một cáh có hiệu quả nhất. Chính sách xã hội và môi trường đảm bảo sự công bằng, tiến bộ an toàn, ổn định xã hội và hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường chính sách kinh tế đối ngoại đảm bảo sự thông thương quan hệ thương mại với bên ngoài và có sức hấp dẫn các nguồn vốn bên ngoài.

 

doc25 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1660 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những định hướng của chính sách công nghiệp hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tên xác định, chẳng hạn là công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu, hay công nghiệp hoá hướng ngoại.... Tôi nghĩ rằng một thuật ngữ ngắn gọn như vậy có thể là không đủ diễn đạt hết những đặc điểm quan trọng của mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong giai đoạn tới đây. Nếu dùng thuật ngữ công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu có thể làm cho người ta hiểu lầm rằng mô hình này đã xem thường thị trường nội địa, xem nhẹ, các lĩnh vực khác như đầu tư, dịch vụ ... Do vậy, có thể phải nêu ra những đặc trưng cơ bản của mô hình thay vì một thuật ngữ ngắn gọn. Tôi cho rằng những đặc trưng cơ bản của mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam trong thời gian tới có thể là: Thứ nhất, phải coi trọng việc mở mang thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt xem trọng thị trường ngoài nước. Đối với một nước còn lạc hậu như Việt Nam, thì thị trường ngoài nước càng có ý nghĩa quan trọng. ý nghĩa quan trọng này thể hiện ở chỗ có việc xuất khẩu vào các thị trường đó mà Việt Nam có ngoại tệ để nhập khẩu công nghệ mới, vật tư... cần thiết cho các hoạt động kinh doanh của Việt Nam. Thị trường ngoài nước của Việt Nam càng rộng, Việt Nam có khả năng mở rộng xuất khẩu, càng có nhiều ngoại tệ, càng có khả năng nhập khẩu nhiều hơn các công nghệ vật tư cần thiết cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoáđất nước. Tầm quan trọng của thị trường ngoài nước lớn đến mức không có nó không thể tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn được. Do đó có tầm quan trọng như vậy, nên người ta đã có lý khi sử dụng thuật ngữ công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu. Đương nhiên, một quốc gia cso thị trường trong nước đáng kể như Việt Nam thì sự liên kết và cộng lực của thị trường ngoài nước và trong nước sẽ làm cho Việt Nam có sức hấp dẫn lớn hơn. Điều quan trọng ở đây là Việt Nam phải khai thông thị trường trong nước với thị trường thế giới, đổi mới các thể chế của thị trường trong nước thích hợp với thị trường thế giới, liên kết thị trường trong nước với thị trường thế giới, làm sao bất kỳ một hàng hoá gì làm ra ở thị trường Việt Nam cũng dễ dàng được tiêu thụ trên thị trường thế giới. Thứ hai, để nhanh chóng nâng cao chất lượng của nguồn nhân lực Việt Nam, Việt Nam không có con đường nào khác là phải hợp tác với các trung tâm kinh tế có các nguồn nhân lực có chất lượng cao nhất. Tuy dấnố biết chữ của Việt Nam khá cao tới 90%, tuy phần đông người Việt Nam có được giáo dục phổ thong, nhưng trình độ tay nghề, kỹ thuật, ngoại ngữ... của người Việt Nam nói chung là thấp. Trình độ giáo viên ở các bậc học ở Việt Nam có sự chênh lệch khá xa với các nước tiên tiến. Nội dung giáo trình sách giáo khoa cũng vậy. Việc nâng cấp hệ thống giáo dục ở Việt Nam là lmột việc cấp bách . con đường ngắn nhất là Việt Nam phải cử nhiều học sinh sang các nước tiên tiến học tập, thuê các thầy giỏi ở các nước tiên tiến vào dậy, kêu gọi các Việt Kiều có trình độ chuyên môn cao về nước làm việc, thu hút các nhà kinh doanh tài ba của nước ngoài vào làm ăn ở Việt Nam, nâng cấp hệ thống giáo dục tiểuhọc vf dậy nghề..v.v.. Thứ ba, thu hút các công nghệ tiên tiến và các nguồn vốn nước ngoài. Các công nghệ tiên tiến có ý nghĩa quyết định sự thành công của quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam. Việt Nam chưa có các công nghệ tiên tiến đó, chỉ có một con đường duy nhất rút ngắn để tiến lên hiện đại là Việt Nam phải thu hút từ bên ngoài, chủ yếu là từ các nước phát triển nhất. Có nhiều cách thu hút các công nghệ tiên tiến đó. Cách thứ nhất là Việt Nam có thể đẩy mạnh xuất khẩu thu ngoại tệ, hoặc đi vay dài hạn của các tổ chức tài chính quốc tế để nhập khẩu các công nghệ tiên tiến. Con đường này đòi hỏi Việt Nam phải có nguồn nhân lực đủ hiểu biết về kinh tế kỹ thuật để lựa chọn được công nghệ thích hợp, sử dụng chúng có hiệu quả và làm ra hàng hoá bán được trên thị trường thế giới, thu hồi được vốn và trả được nợ, có lãi, đồng thời phải được các nước tiên tiến, cho vay vốn và nhân nhượng cho thị trường. Đây không phải là con đường dễ dàng, đã có không ít nước thất bại vì đã lựa chọn công nghệ không thích hợp, đầu tư vào các lĩnh vực kém hiệu quả, không tìm ra được thị trường tiêu thụ hàng hoá làm ra, do vậy đã không thu hồi vốn và trả được nợ. Tuy nhiên đã có một số nước thành công, nổi bật là Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc... Con đường thứ hai là thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng có nghĩa là thu hút cả công nghệ tiên tiến. Các công ty xuyên quốc gia nước ngoài đưa vốn vào đầu tư làm ăn ở Việt Nam, họ sẽ phải đưa theo công nghệ tiên tiến. Họ sẽ phải tự tìm lấy thị trường bên ngoài, sẽ phải đào tạo cán bộ công nhân kỹ thuật Việt Nam làm việc cho họ.v.v... Song để thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam phải có các luật lệ thông thoáng, cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, nguồn nhân lực được đào tạo, có tay nghề tốt.v.v... Nguồn vốn đầu tư nước ngoài được đưa vào Việt Nam càng nhiều sẽ tạo dụng được những cơ sở công nghiệp ngày càng hiện đại, do vậy sẽ thúc đẩy nhanh hơn quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá. Malaysia đã xem việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là yếu tố căn bản của quá trình công nghiệp hoá. Việt Nam có thể sẽ sử dụng cả hai biện pháp: tự tích luỹ và vay vốn nước ngoài để nhập khẩu công nghệ tiên tiến, đồng thời đẩy mạnh việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong điều kiện quốc tế mới hiện nay Việt Nam có thể thu hút các nguồn vốn trực tiếp nước ngoài một cách thuận lợi hơn và có thể đó sẽ là một yếu tố rất quan trọng đối với quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá rút ngắn của Việt Nam. Với ba đặc trưng chủ yếu trên đây, mô hình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam tận dụng tối đa các lợi thế của quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá, các ưu thế của các nền kinh tế phát triển cao hơn, đồng thời do vậy mà sử dụng có hiệu quả các nguồn lực trong nước về thị trường, tài nguyên và nguồn nhân lực. II. Những lựa chọn các ngành kinh tế. Có thể có nhiều cách phân chia các ngành kinh tế, nhưng ở đây tôi chia các ngành kinh tế ra làm 4 nhóm lớn: a) Các ngành cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội: b) Các ngành công nghiệp khai thác và nông nghiệp; c) Các ngành công nghiệp chế biến; d) Các ngành dịch vụ. Cách phân chia này có thể thuận tiện cho việc xác định các lựa chọn ưu tiên của Nhà nước và khu vực tư nhân. Nguồn lực tài chính của mọi Nhà nước dù giầu có như Mỹ đều có giới hạn trước các nhu cầu chi tiêu to lớn, nên mọi nhà nước đều phải tính toán, cân nhắc rất kỹ việc lựa chọn các ưu tiên. Nguồn tài chính của Nhà nước Việt Nam trong những thập kỷ tới đây rất hạn chế so với nhu cầu đầu tư phát triển. Do vậy, Nhà nước phải tính toán rất kỹ nên đầu tư vào những ngành nào để có thể tạo ra một sự phát triển nhanh, mạnh, bền vững của nền kinh tế đất nước. Phân tích các ngành kinh tế trên đây ta thấy các ngành cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội bao gồm thông tin liên lạc, giao thông vận tải, sân bay, hải cảng, năng lượng, cấp thoát nước, giáo dục, y tế.... là những ngành có liên quan đến mọi ngành khác, làm tiền đề cho mọi ngành khác phát triển. Hệ thống thông tin liên lạc lạc hậu làm chậm trễ và gián đoạn các thông tin sẽ làm đổ bể các hợp đồng kinh tế gây thiệt hại cho các nhà kinh doanh của mọi ngành. Đường sá, bến cảng, sân bay lạc hậu sẽ làm tăng chi phí vận tải, kéo dài thời gian vận tải.... có hại cho mọi ngành kinh doanh. Thiếu điện, thiếu nước, mọi hoạt động kinh doanh sẽ bế tắc. Hệ thống giáo dục, y tế kém làm sao đảm bảo được nguồn nhân lực tốt cho kinh doanh. Thế nhưng việc xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội này lại rất tốn kém và phức tạp. Thu hồi vốn chậm, mức lợi nhuận thấp, thậm chí là không có lãi mà còn lỗ. Do vậy, không mấy nhà kinh doanh tư nhân muốn đầu tư vào lĩnh vực này. Nhà nước dường như là người duy nhất đại diện cho xã hội, chịu trách nhiệm trước xã hội phải gánh lấy trọng trách xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội phải chịu thua lỗ. ở Việt Nam các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội nói chung còn rất lạc hậu, có nhiều nơi xem như chưa có hay là có không đáng kể. Nhiều hải cảng của Việt Nam như Cái Lân, Hòn La, Cam Ranh, Thị Vải.v.v... có độ nước sâu rất tốt có tầm cỡ quốc tế, ở vị trí của ngõ của các vùng kinh tế nhưng chưa được đầu tư xây dựng hiện đại. Các sân bay quốc tế quan trọng của Việt Nam như Nội Bài, Tân Sơn Nhất, cưa được hiện đại hoá. Các tuyến đường bộ, xe lửa, đường sống huyết mạch nối các vùng kinh tế với hải cảng còn rất lạc hậu, thô sơ. Hệ thống trường sở, bệnh viện đã xuống cấp đang cần được đầu tư.v.v... Số vốn cần cho việc xây dựng và hiện đại hoá các cơ sở hạ tầng này là rất lớn có thể tới cả trăm tỷ USD, thế nhưng hàng năm Chính phủ Việt Nam chưa thể đầu tư vào lĩnh vực này quá 2 tỷ USD. Do vậy, việc áp tập trung vốn cao hơn nữa cho lĩnh vực xây dựng và hiện đại hoá các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội là rất cần thiết và có thể phải được xem là ưu tiên đầu tư phát triển trước hết cho các lĩnh vực: năng lượng, hải cảng sân bay, các con đường nối liền các hải cảng và sân bay tới các trung tâm kinh tế, các khu công nghiệp và giáo dục, tiêu học và dạy nghề. Đương nhiên, Nhà nước không chỉ đầu tư cho việc xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội mà còn phải đầu tư phát triển những ngành kinh tế là cơ sở cho sự ổn định xã hội. Trước hết đó là nông nghiệp, vì nhà nước chiếm khoảng 80% dân số Việt Nam, phải đảm bảo cung cấp đủ cho dự trữ lương thực, thực phẩm cho toàn xã hội, là nơi cung cấp lao động cho quá trình công nghiệp hoá, là thị trường của ngành công nghiệp .... Hiện nay, Việt Nam đã tự túc được lương thực, có một phần dự trữ và xuất khẩu mỗi năm khoảng 1,5 đến 2 triệu tấn. Nếu tiếp tục phát triển nhà nước theo hướng sản xuất lúa gạo là chính, thì sẽ có một số vấn đề đặt ra cần được cân nhắc. Đẩy mạnh việc sản xuất lúa gạo xuất khẩu, hay chuyển hướng phát triển các cây ăn quả, rau, cây công nghiệp xuất khẩu có lợi hơn? Để chuyển hướng như vậy, cần phải tìm kiếm thị trường công nghệ, nguồn vốn? Đó là những vấn đề phải được tính toán, cân nhắc trên cơ sở hiệu quả kinh tế - xã hội. Việt Nam có một số tài nguyên quan trọng như: dầu khí, than, hiện đại hoá, Việt Nam có thể phải dành một số ưu tiên phát triển các ngành này, bán tài nguyên để tích luỹ vốn. Các ngành công nghiệp chế biến là những ngành quan trọng nhất, quy định trình độ phát triển và mức độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá của một quốc gia. Hiện nay những ngành này mới bắt đầu phát triển và còn chiếm một tỷ trọng rất thấp ở Việt Nam. Tôi cho rằng Chính phủ Việt Nam cần khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước lựa chọn và xây dựng những ngành công nghiệp chế biến thích hợp với Việt Nam. Trước mắt có thể là những ngành may mặc, dệt, chế biến, nông lâm hải sản, sản xuất vật liệu xây dựng, luyện kim, điện tử, tin học.v.v... Một số ngành mới quan trọng, chính phủ có thể phải đầu tư vốn xây dựng, hoặc quy hoạch và gọi vốn trong và ngoài nước cùng hợp tác xây dựng, hoặc quy hoạch và gọi vốn trong và ngoài nước cùng hợp tác xây dựng. Việt Nam có một lợi thế là ở trung tâm Đông Nam á với nhiều hải cảng tối, do vậy có thể phát triển mạnh việc lắp ráp các thành phẩn xuất khẩu vào khu vực. Các ngành công nghiệp chế biến xuất khẩu vào khu vực. Các ngnàh công nghiệp chế biến xuất khẩu phải xem trọng nhất, vì những ngành này quy định vị trí của Việt Nam trên thị trường thế giới. Các công ty xuyên quốc gia nước ngoài có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển những ngành công nghiệp này, vì họ hiểu rõ thị trường thế giới cần những sản phẩm chế biến gì, với chất lượng và giá cả ra sao. Việt Nam cần có những chính sách khuyến khích các công ty đầu tư thích đáng vào những ngành này. Các ngành dịch vụ trước hết là các ngành phục vụ trực tiếp cho các ngành công nghiệp như: thương mại, tư vấn, bảo hiểm, thông tin quảng cáo, ngân hàng tiếp thị; môi giới.v.v... phải được xem trọng. Vì thiếu những dịch vụ này các ngành công nghiệp khác khó hoạt động có hiệu quả. Sau đó là du lịch, Việt Nam có những điều kiện tự nhiên, văn hoá, lịch sử thuận lợi cho việc phát triển ngành du lịch. Nhưng việc đầu tư phát triển du lịch đòi hỏi phải có một nguồn vốn to lớn, cóo một nguồn khách du lịch phong phú. Việt Nam cũng phải hợp tác với nước ngoài mới đáp ứng được các yêu cầu đó. Dưới đây là sự phân tích cụ thể hơn về cơ cấu ngành đã được thể hiện qua các dự án phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2000. Về cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội Mạng lưới bưu chính viễn thông của Việt Nam đã được hiện đại hoá một bước, nhưng vẫn còn một khoảng cách so với các quốc gia trong khu vực. Trong 10-20 năm tới, việc hiện đại hoá bưu chính viễn thông phải đi trước một bước, đảm bảo sự giao lưu thông suốt giữa các trung tâm kinh tế, các thành phố và các trung tâm kinh tế trong nước với các quốc gia khác, đồng thời hạ giá cước phí bưu chính viễn thông. Đường hàng không Việt Nam tuy trong mấy năm vừa qua đã có những tiến bộ, nhưng còn lạc hậu rất xa so với các nước trong khu vực. Trong thời gian tới phải tập trung nâng cấp ba sân bay quốc tế: Nội Bài, Tân Sơn Nhất, Đà Nẵng đạt trình độ quốc tế: nâng cấp các sân bay thuộc các thành phố, khu công nghiệp, khu du lịch. Liên doanh, hợp tác với các hàng không quốc tế mở thêm các đường bay, mua sắm thêm các máy bay, thiết bị cần thiết. Đường biển và đướng sông: Trong thời gian tới cần phải cải tạo mở rộng các cảng: Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh; xây dựng cảng Cái Lân, Vũng Tàu - Thi vải thành cảng nước sâu, mở rộng các cảng hiện có như Đà Nẵng, Cửa Lò, Quy Nhơn, Nha Trang.v.v... Xây dựng các cảng ở tất cả các tỉnh ven biển. Xây dựng một hệ thống cảng biển và cảng sông liên hoàn. Phát triển vận tải ven biển, pha sông biển. Đóng mới và mua sắm thêm các tàu vận tải viễn dương, ven biển, pha sông biển. Đường sắt: Cần tập trung cải tạo, nâng cấp đường sắt Bắc Nam, mở các tuyến đường sắt Đông - Tây đặc biệt là các tuyến đường sắt nối với Lào, Thái Lan, Camphuchia, với các vùng kinh tế trọng điểm. Đường bộ: Xây dựng các đường cao tốc nối liền các vùng kinh tế trọng điểm với các hải cảng biển, trước mặt là các đường cao tốc Hà Nội - Cái Lân - Hải Phòng, Hồ Chí Minh - Biên Hoà - Vũng Tàu, nâng cấp toàn tuyến quốc lộ 1A, phát triển các trục ngang, các đường 12, quốc lộ 8,9, 19, nối các cảng miền trung tới Lào, Thái Lan nâng cấp các quốc lộ trên địa bàn kinh tế trọng điểm ở cả Bắc, Trung, Nam nối liền với các cảng biển, cảng sông, sân bay. Phát triển ngành công nghiệp Công nghiệp nhiên liệu và năng lượng cần được tập trung chú ý vào các lĩnh vực sau: - Tiếp tục mở rộng liên doanh hợp tác với nước ngoài để tìm kiếmm, thăm dò, khai thác và chế biến dầu và khí, than. Dự kiến năm 2000 có thể đạt 20 triệu tấn dầu thôm 5 tỷ m3 khí, 8,6 triệu tấn than. - Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện các nhà máy thuỷ điện Yaly, hàm Thuận, Đami, Bản Mai, Sông Hinh; Chuẩn bị khởi công xây dựng các nhà máy thuỷ điện ở Kông Tum, Gia Lai, Bình Thuận, Sơn La.. Hoàn thành xây dựng các nhà máy nhiệt điện Phú Mỹ, nhà máy Tua Bin khí hỗn hợp Phú Mỹ II, nhiệt điện Phả Lại II, nhiệt điện Quảng Ninh. - Xây dựng các công trình dẫn khí vào đất liền để hoá lỏng, và làm nhiên liệu cho các nhà máy nhiệt điện. - Xây dựng mạng lưới quốc gia, nối với lưới điện tiểu khu vực (Camphuchia, Lào, Thái Lan, Trung Quốc) để trao đổi. Vấn đề cần thực hiện nghiên cứu giải quyết là hiệu tỷ trọng thuỷ điện tương đối cao trong tổng sản phẩm của cả nước, do vậy cần tính đến việc tăng tỷ trọng của nhiệt điện, đặc biệt là tỷ trọng của những nhà máy nhiệt điện dùng khi làm chất đốt. Công nghiệp sản xuất vật liệu. Trong quá trình công nghiệp hoá, Việt Nam cần ngày càng nhiều các vật liệu xây dựng như xi măng, gạch,ngói, đá và các vật liệu cao cấp như sứ vệ sinh, gạch men sứ, đá ốp lát, kính..... Để đảm bảo đáp ứng các nhu cầu ngày càng tăng lên, Việt Nam sẽ thực hiện các dự án liên doanh với các công ty nước ngoài để sản xuất xi măng và các vật liệu cao cấp ở nhiều tỉnh có điều kiện sản xuất như Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Hưng, Nam Hà, Ninh Bình, Thanh Hoá, Nghệ An, Thừa Thiên - Huế, Kiên Giang.v.v... Khuyến khích các đơn vị kinh doanh trong nước xây dựng các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng mới . Đẩy mạnh việc khai thác quặng sắt, thu hồi sắt thép vụn, tăng thêm năng lực sản xuất thép xây dựng. Mở rộng liên doanh hợp tác với các công ty nước ngoài nâng cấp các nhà máy luyện thép hiện có và xây dựng thêm các nhà máy luyện thép mới. Công nghiệp phân bón và hoá chất sẽ được chú ý và phát triển trên cơ sở công nghiệp chế biến dầu khí. Công nghiệp điện tử và tin học. Từng bước xây dựng công nghiệp điện tử và tin học thành công nghiệp mũi nhọn. Thời kỳ đầu hợp tác với các công ty nước ngoàin nhập khẩu linh kiện, gia công lắp ráp đáp ứng nhu cầu trong nước và cả xuất khẩu. Sau đó có thể sản xuất một phần phụ kiện trong nước, gia công lắp ráp thành phẩm hướng mạnh vào xuất khẩu. Phát triển dịch vụ tin học đáp ứng các nhu cầu trong nước và tham gia vào các dịch vụ thông tin quốc tế. Công nghiệp hàng tiêu dùng và thực phẩm. Phát triển mạnh các ngành dệt, may mặc, da giầy, các hàng thủ công mỹ nghệ, sành sứ, thuỷ tinh.v.v... phục vụ nhu cầu xuất khẩu trong nước. Phát triển các ngành công cụ chế biến nông, lâm, hải sản, trước hết là xay xát gạo xuất khẩu, chế biến rau quả xuất khẩu, chế biến hải sản, chế biến gỗ.v.v... Nguồn lực để phát triển những ngành này là rất lớn, do có nguồn nguyên liệu trong nước, có nhân lực dồi dào, có thị trường. Vấn đề là cần tìm kiếm nhập khẩu công nghệ thích hợp và thu hút các nguồn vốn trong nước và ngoài nước. Công nghiệp cơ khí của Việt Nam nói chung còn rất lạc hậu. Việc xây dựng và hiện đại hoá ngành công nghiệp cơ khí của Việt Nam sẽ tuỳ thuộc vào những lợi thế của Việt Nam và khả năng của Việt Nam tận dụng được các ưu thế của thị trường khu vực và thế giới. Giai đoạn đầu sẽ là giai đoạn Việt Nam phải liên doanh với các Công ty nước ngoài gia công lắp ráp các loại thiết bị, phục vụ cho các ngành kinh tế từ các máy công cụ đến ô tô, xe máy, máy khâu, tàu.v.v... và có thể xuất khẩu một phần sản phẩm đó giai đoạn hai sẽ là giai đoạn hợp tác với các công ty nước ngoãi một phần linh kiện phụ kiện ở Việt Nam và đẩy mạnh gia công lắp ráp xuất khẩu vào khu vực và thế giới. Ngành công nghiệp cơ khí nào sẽ được lựa chọn là mũi nhọn của Việt Nam? Để trả lời câu hỏi này có thể cần có thêm thời gian để các nhà kinh doanh cân nhắc tính toán hiệu quả. Nhưng tôi cho rằng ngành chế tạo lắp ráp các phương tiện vận tải bao gồm tàu thuyền, ô tô các loại xe gắn máy, ngành sản xuất lắp ráp các máy móc nông cụ, các máy dệt, máy may.v.v... sẽ có thể là những ngành này có triển vọng ở Việt Nam, vì những ngành này có thể sử dụng được lợi thế so sánh của Việt Nam về vị trí địa lý, về nguồn nhân lực. III. Vai trò của nhà nước. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Nhà nước ta có một vai trò cực kỳ quan trọng. Vai trò này thế hiện trước hết ở việc hoạch định các chính sách kinh tế tôi cho rằng những chính sách kinh tế của nhà nước sau đây là quan trọng nhất: chính sách cơ cấu kinh tế bao gồm cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ, cơ cấu quy mô các xí nghiệp, cơ cấu công nghệ đảm bảo định hương kinh tế mở và hướng về xuất khẩu... chính sách thị trường đảm bảo cho các quan hệ thị trường phát huy tác dụng trong các lĩnh vực: hàng tiêu dùng, sản xuất và dịch vụ, tiền tệ và vốn, bất động sản, lao động, công nghệ... chính sách tài chính và tiền tệ đảm bảo ổn định giá trị đồng tiền, huy động phân bổ và sử dụng các nguồn vốn ngày càng có hiệu quả. Chính sách nguồn nhân lực đảm bảo giáo dục, đào tạo, sử dụng các nguồn nhân lực một cáh có hiệu quả nhất. Chính sách xã hội và môi trường đảm bảo sự công bằng, tiến bộ an toàn, ổn định xã hội và hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường chính sách kinh tế đối ngoại đảm bảo sự thông thương quan hệ thương mại với bên ngoài và có sức hấp dẫn các nguồn vốn bên ngoài. Các chính sách trên của chính phủ phải nhằm vào các mục tiêu chủ yếu sau đây: Thứ nhất là định hướng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Quá tình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam đã được định hướng theo CNXH, nội dung chủ yếu của định hướng XHCN đã được xác định là xây dựng một xã hội dân giầu, nước mạnh, công bằng, văn minh. Định hướng quan trọng thứ hai đã được Việt Nam xác định là hướng vào xuất khẩu có tính đến những nhu cầu của thị trường trong nước. Định hướng thứ ba là kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo, đồng thời khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân, hợp tác ... tự do phát triển trong các lĩnh vực được phép. Định hướng thứ tư là tập trung các nguồn vốn đầu tư của Nhà nước vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng kinh tế -xã hội, các vùng kinh tế trọng điểm .... Những định hướng chủ yếu trên đây có thể xem là rất mới mẻ so với các định hướng công nghiệp hoá trước đây: ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, kinh tế quốc doanh thống trị trên mọi lĩnh vực, xem trọng thay thế nhập khẩu và hướng nội.v.v... Thứ hai, trên cơ sở các định hướng trên đây, các chính sách kinh tế của Nhà nước phải lựa chọn các ưu tiên cho quá trình công nghiệp hoá. Những ưu tiên đó là các ngành và lĩnh vực xuất khẩu và khu vực mở của các thành phố và tỉnh ven biển, các cơ sở hạ tầng kinh tế- xã hội phục vụ cho xuất khẩu và hợp tác với nước ngoài, các công nghệ sử dụng nhiều lao động sản xuất ra các hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được nhu cầu xuất khẩu và thị trường trong nước.v.v... Thứ ba, đảm bảo tăng trưởng, hiệu quả cao và bền vững. Tăng trưởng cao và có hiệu quả là yêu cầu cấp bách của Việt Nam, vì chỉ có như vậy, Việt Nam mới có thể rút ngắn chặn đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá đuổi kịp các quốc gia khác Nhưng tăng trưởng cao phải chú trọng phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thoon một cách thoả đáng; phải đảm bảo sự công bằng trong phát triển, xoá đói,giảm nghèo; phải hạn chế tới mức tối đa tình trạng ô nhiễm môi trường; phải đảm bảo ổn định an ninh và an toàn xã hội... Thứ tư, đảm bảo cho cơ ché thị trường tác động lành mạnh trong nền kinh tế. Cơ chế thị trường đã tác động trên nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế của Việt Nam. Nhưng muốn đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá, chính phủ Việt Nam cần phải có các chính sách tài chính, tiền tệ, giá cả, thương mại.v.v... thích hợp để tạo dựng một môi trường lành mạnh trên tất cả các mặt: hàng hoá dịch vụ, tiền tệ, vốn, bất động sản, lao động.v.v... Cơ chế thị trường tác động yếu kém ở bất cứ một lĩnh vực nào đều có thể làm cho thị trường kém hiệu quả. ở Việt Nam hiệu quả cơ chế thị trường tác động rất yếu kém trong các lĩnh vực tiền tệ, vốn, lao động, bất động sản.... đó chính là một trong những lý do quan trọng làm giảm tính hiệu quả của thị trường, và do vậy đã ảnh hưởng không tốt tới các hoạt động kinh doanh công nghiệp. Nhà nước không chỉ có vai trò hoạch định ra các chính sách đúng, mà còn phải thể chế hoá nó thành pháp luật và tổ chức thực hiện nghiêm túc những pháp luật đó. Để làm được điều đó, Nhà nước phải có hệ thống giáo dục tốt không chỉ trong nhà trường, mà còn có hệ thống giáo dục tốt không chỉ trong nhà trường, mà trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng; phải có bộ máy tổ chức tốt không quan liêu, tham nhũng, gây phiền hà cho dân; phải có kỷ luật tốt, mọi người dân đều tuân thủ theo luật pháp. Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều luật lệ thích hợp với cơ chế thị trường, tuy nhiên vẫn chưa đủ, đã có chương trình cải cách giáo dục và đổi mới hệ thống thông tin đại chúng; đã bắt đầu tiến hành cuộc cải cách hành chính và đã áp dụng những biện pháp kiên quyết chống lại những hành vi vi phạm pháp luật(như những biện pháp bảo vệ đê Yên Phụ Hà Nội bị lấn chiếm, những biện pháp về trật tự giao thông tháng 8-1995...) Có thể đánh giá các chính sách đổi mới kinh tế mà Chính phủ Việt Nam ban hành trong những năm gần đây về căn bản là đúng đắn và phù hợp với những điều kiện cụ thể của Việt Nam, do vậy đã có tác dụng tốt đối với sự phát triển kinh tế, tạo lên những thành tựu kinh tế nổi bật được cộng đồng thế giới xác nhận. Trong những năm tới đây thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước đòi hỏi Việt Nam sẽ phải tiếp tục hoàn thiện và đổi mới các chính sách kinh tế theo các mục tiêu trên đây. V. Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển. Kinh tế tư nhân ở Việt Nam bao gồm kinh tế hộ gia đình, kinh tế cá thể, doanh nghiệp tư nhân một chủ, công ty trách nhiệm hữu hạn, các công ty cổ phần do tư nhân góp vốn.... Từ năm 1986 kinh tế tư nhân đã được mở rộng hơn. Đến năm 1991 Chiến lược kinh tế - xã hội do Đại hội VII Đảng cộng sản việt Nam thông qua đã xác nhận: “kinh tế tư nhân được phát triển thông qua hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong các ngành nghề mà pháp luật không cấm.” Điều khẳng định này đã được thể chế hoá trong hiến pháp Việt Nam, trong luật doanh nghiệp tư nhân, Luật công ty và các nghị định chính phủ. Do có được một cơ sở pháp lý vững chắc trên đây, khu vực kinh tế tư nhân đã có được những phát triển nổi bật về số lượng, phạm vi hoạt động đa dạng. Đến năn1994 tỷ trọng của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh (chủ yếu là tư nhân) trong GDP là 98% trong nông, lâm, ngư nghiệp, 76,5% trong thương nghiệp bán lẻ, 91% trong dịch vụ, và 28% trong công nghiệp. đẩy mạnh quá trình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững định h­ớng của chính sách công nghiệp hoá.DOC
Tài liệu liên quan