Tiểu luận Những giải pháp cơ bản để thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng XNCN ở Việt Nam

MỤC LỤC

 

MỞ ĐẦU 2

NỘI DUNG

I. NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY LUẬT CHUNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CÓ TÍNH ĐẶC THÙ CẦN GIẢI QUYẾT

1. Kinh tế thị trường 4

2. Quy luật chung của kinh tế thị trường 4

3. Những đặc trưng của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 4

4. Nhận xét về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. So sánh với kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản 9

 

II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA QUA QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI TỪ CƠ CHẾ CŨ SANG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG CÓ SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC XHCN

1. Sơ lược quá trình chuyển đổi từ cơ chế cũ sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa 10

2. Những thành tựu và hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 12

3. Những bài học lớn sau 20 năm đổi mới 14

 

III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN 16

 

KẾT LUẬN 22

 

Tài liệu tham khảo 23

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc23 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1556 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những giải pháp cơ bản để thúc đẩy nền kinh tế thị trường định hướng XNCN ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c nhau để phát triển và điều tiết nền kinh tế. Kế hoạch là sự điều chỉnh có ý thức của chủ thể quản lý đối với nền kinh tế, còn cơ chế thị trường là sự tự điều tiết của bản thân nền kinh tế. Kế hoạch và thị trường cần được kết hợp với nhau trong cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Kế hoach có ưu điểm là tập trung được các nguồn lực cho những mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội, đảm bảo cân bằng tổng thể, gắn mục tiêu phát triển kinh tế với phát triển xã hội ngay từ đầu. Tuy nhiên, trong điều kiện nền kinh tế thị trường, kế hoạch hóa khó bao quát được hết tất cả các yêu cầu rất đa dạng và luôn biến động của đời sống kinh tế; đồng thời sự điều chỉnh của kế hoạch thường không được nhanh, nhạy. Trong khi đó sự điều tiết của cơ chế thị trường lại nhanh nhạy, nó kích thích tính năng động, sáng tạo của các chủ thể kinh tế, đáp ứng nhanh, nhạy nhu cầu đa dạng của đời sống xã hội. Song, khuyết tật cơ bản của cơ chế thị trường là tính tự phát nên có thể đưa đến sự mất cân đối, gây tổn hại cho nền kinh tế. Vì thế cần có sự kết hợp kế hoạch với thị trường trong cơ chế vận hành nền kinh tế. Thị trường là căn cứ để xây dựng và kiểm tra các kế hoạch phát triển kinh tế. Những mục tiêu và biện pháp mà kế hoạch nêu ra muốn được thực hiện có hiệu quả phải xuất phát từ yêu cầu của thị trường. Mặt khác, muốn cho thị trường hoạt động phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa thì nó phải được hướng dẫn và điều tiết bởi kế hoạch. Sự kết hợp kế hoạch với thị trường được thực hiện ở cả tầm vi mô lẫn vĩ mô. Ơ tầm vi mô, thị trường là căn cứ xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh. Thông qua sự biến động của quan hệ cung- cầu và giá cả thị trường, các doanh nghiệp lựa chọn được phương án sản xuất: sản xuất ra sản phẩm gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai. Cũng nhờ đó mà các doanh nghiệp lựa chọn được cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư cho mình. Thoát ly yêu cầu của thị trường, các mục tiếu của kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sẽ không thực hiện được. Ơ tầm vĩ mô, mặc dù thị trường không phải là căn cứ duy nhất có tính quyết định, song kế hoạch nhà nước cũng không thể thoát ly khỏi tình hình biến động của thị trường. Thoát ly thị trường, kế hoạch hóa vĩ mô trở thành duy ý chí. Kế hoạch hóa vĩ mô nhằm đảm bảo cân đối lớn, tổng thể của nền kinh tế như tổng cung- tổng cầu, sản xuất- tiêu dùng, hàng hóa- tiền tệ. Kế hoạch hóa vĩ mô có thể tác động đến cung, cầu, giá cả để uốn nắn những lệch lạc của sự phát triển do sự tác động tự phát của thị trường gây ra, thông qua đó mà hướng hoạt động của thị trường theo hướng kế hoạch. - Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập dân tộc trong quan hệ kinh tế với nước ngoài. Đặc điểm này phản ảnh sự khác biệt giữa nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế đóng, khép kín trước đổi mới, đồng thời phản ánh xu hướng hội nhập của nền kinh tế nước ta trong điều kiện toàn cầu hóa kinh tế. Do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học- công nghệ, đang diễn ra quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy, mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh té khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nước ta, thực hiện phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường hiện đại theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa và đa dạng hóa các hình thức đối ngoại, gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực và thế giới, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại. Trong thời gian tới cần tiếp tục mở rộng đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại; có bước đi thích hợp hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới; phải đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, chủ động và tích cực thâm nhập thị trường thế giới, chú trọng thị trường các trung tâm kinh tế thế giới, mở rộng thị phần trên các thị trường quen thuộc, tranh thủ mọi cơ hội để mở ra thị trường mới; cải thiện môi trường đầu tư và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư của nước ngoài. 4. Nhận xét về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. So sánh với kinh tế thị trường của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và quy luật của nền kinh tế thị trường vừa dựa trên và được dẫn đắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất chủ nghĩa xã hội trước hết về sở hữu, tổ chức quản lý và quan hệ phân phối. Khác về bản chất với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có mục đích phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Nền kinh tế đó được xây dựng và phát triển trong điều kiện lực lượng sản xuất còn đang ở trình độ thấp. Chúng tôi sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và phương pháp quản lý của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, khuyến khích tinh thần năng động, sáng tạo của người lao động, giải phóng sức sản xuất, thúc nay công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng lãnh đạo, quản lý nền kinh tế để phát triển đúng hướng đi lên chủ nghĩa xã hội, không để cho thị trường tự phát theo con đường tư bản chủ nghĩa. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cũng như kinh tế thị trường ở các nước tư bản, có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau, nhưng trong kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa thì sở hữu tư bản tư nhân giữ vị trí thống trị, còn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì sở hữu công cộng, tức là công hữu- bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và phần của kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể trong các cơ sở kinh tế liên doanh, hỗn hợp- dần dần trở thành nền tảng, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo cùng với các thành phần kinh tế khác là những bộ phận cấu thành của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng như kinh tế thị trường ở các nước tư bản đều có sự quản lý của nhà nước, nhưng hai nhà nước khác nhau về chất. Nhà nước tư sản bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư sản, trước hết là những tập đoàn tư bản lớn, còn nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của dân, do dân, vì dân, quản lý nền kinh tế theo nguyên tắc kết hợp thị trường với kế hoạch, phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân. Kinh tế thị trường ở các nước tư bản phân phối chủ yếu theo tư bản, dẫn đến bất công xã hội, phân chia xã hội thành hai cực giàu nghèo đối lập, còn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối theo lao động là chủ yếu, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và trí tuệ vào sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong toàn bộ quá trình phát triển và ngay trong từng bước phát triển. Có thể nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. II. BÀI HỌC KINH NGHIỆM RÚT RA QUA QUÁ TRÌNH CHUYỂN ĐỔI TỪ CƠ CHẾ CŨ SANG CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG CÓ SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC XHCN 1. Sơ lược quá trình chuyển đổi từ cơ chế cũ sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa 1.1 Thời kỳ khởi động trước đổi mới. Những chuyển biến trước Đại hội VI của Đảng (1986) Kinh nghiệm chuyển đổi ở bước sơ khai này là: một mặt đổi mới nhận thức về vai trò nông nghiệp và nông dân; mặt khác, đổi mới nhận thức về vai trò Nhà nước: chuyển từ Nhà nước làm kinh tế thay dân sang vai trò hỗ trợ và quản lý để dân làm kinh tế. Nói rằng đây là bước sơ khai, vì nền nông nghiệp Việt Nam vẫn chưa ra khỏi quỹ đạo “kinh tế tự cung tự cấp”. Do đó, những đổi mới tiếp theo là tất yếu. 1.2 Thời kỳ chuyển sang cơ chế thị trường. Những chuyển biến kinh tế từ Đại hội VI đến đại hội IV Trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam, Đại hội VI của Đảng Cộng sản Việt Nam là cái mốc lịch sử đặc biệt, chẳng những đối với phương hướng đổi mới kinh tế, mà quan trọng hơn nữa, đối với nhận thức con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu. Những giá trị tư tưởng mà Đại hội VI khởi xướng có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn suốt mười mấy năm nay: Nhìn thẳng vào sự thật, thực tiễn, tôn trọng quy luật khách quan. Sự thật vào giữa những năm 80 là đời sống nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn sau hơn mười năm kết thúc chiến tranh, tình hình kinh tế- xã hội lâm vào khủng hoảng trầm trọng. Quy luật khách quan lúc ấy là khôi phục, phát triển nông nghiệp bắt đầu từ kinh tế hộ chứ không phải là củng cố, phát triển hợp tác xã. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình trên là do bảo thủ, chủ quan duy ý chí hơn là do những khó khăn khách quan. Đại họi đã phê phán sâu sắc bệnh chủ quan duy ý chí khá phổ biến trong cán bộ. Đặt ra yêu cầu đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Sự thật và thực tiễn xã hội ngày càng khác với cách nghĩ, cách làm của bộ máy quản lý, trong đo, thực tiễn kinh tế ngày càng khác xa với thể chế kinh tế kế hoạch hóa nhà nước tập trung, bao cấp và cơ chế quản lý. Thực chất của cuộc khủng hoảng là khủng hoảng về thể chế kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế. Chính vì vậy, Đại hội đã phê phán tư duy giáo điều, chủ quan, đòi hỏi trở về với tư duy biện chứng duy vật, do đó vấn đề tư duy kinh tế được đặt lên hàng đầu. Đề ra thể chế kinh tế chuyển đổi: bắt đầu từ đây, nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, trong đó coi trọng kết hợp kế hoạch với thị trường như là đặc trưng của thể chế kinh tế chuyển đổi. Chủ trương của Đảng đưa nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trường từ Đại hội VI đã phát triển lên một bước ở lĩnh vực kinh tế đối ngoại, với sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài (1988). Nhờ đó, cơ chế thị trường nước ta được mở rộng, đã tạo ra sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ vào những năm 90, và đặt ra những yêu cầu cao hơn về kinh tế và chính trị trong công cuộc đổi mới. Tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế, Đại hội VII (1991) của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối: Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Về mặt kinh tế chính trị, đường lối phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, đã thể hiện sự đổi mới nhận thức về quan hệ sản xuất. Có thể nói công cuộc đổi mới kinh tế đã tiến tới khâu then chốt có ý nghĩa bước ngoặt: chuyển từ quan hệ sản xuất với hai hình thức sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể sang quan hệ sản xuất gồm sở hữu nhiều thành phần kinh tế, kể cả kinh tế tư nhân và tư bản tư nhân, và do đó xuất hiện kinh tế tư bản nhà nước. Hệ thống quan hệ sản xuất mới này cùng với chính sách mở cửa đã tạo điều kiện ban đầu cho quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Đại hội VIII của Đảng (tháng 6/1996) khẳng định nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, tiếp tục làm rõ hơn quan điểm về chặng đường đầu tiên và chặng đường tiếp theo trong thời kỳ quá độ; chỉ rõ mục tiêu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020; xem đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trung tâm; làm rõ hơn định hướng xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; tiếp tục khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; tiếp tục coi phát triển giáo dục- đào tạo và khoa học- công nghệ là quốc sách hàng đầu. Đại hội IX (4/2001), xác định mục tiêu chung của cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh (điểm mới trong mục tiêu chung này có thêm từ “dân chủ”); đánh giá sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn vị trí, vai trò tư tưởng Hồ Chí Minh; khẳng định mô hình kinh tế tổng quát của cả thời kỳ quá độ là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. 2 Những thành tựu và hạn chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 21 Thành tựu Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa bước đầu được xây dựng, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định: Hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ; hoạt động của các loại hình doanh nghiệp và bộ máy quản lý nhà nước được đổi mới một bước quan trọng. Các loại thị trường hàng hóa, dịch vụ, lao động, khoa học và công nghệ, bất động sản có bước phát triển phù hợp với cơ chế mới. Năm năm qua (2000-2005) đã giữ được các cân đối kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, tạo môi trường và điều kiện cần thiết cho sự phát triển kinh tế. Quỹ tiết kiệm tăng bình quân khoảng 6.2%/năm (kế hoạch 5.5%/năm), đồng thời tiêu dùng bình quân đầu người tăng 6%/năm; nhờ đó đã có điều kiện vừa đẩy mạnh đầu tư phát triển, vừa cải thiện đời sống nhân dân. Tiềm lực tài chính nhà nước ngày càng được tăng cường; thu ngân sách tăng trên 17%/năm, tỷ lệ tăng GDP huy động vào ngân sách bình quân hàng năm đạt 23.3%, vượt kế hoạch. Tổng chi ngân sách nhà nước tăng 16.6%/năm; chi đầu tư phát triển chiếm bình quân 30% tổng chi ngân sách; bội chi ngân sách hàng năm khoảng 4.9% GDP. Chính sách tiền tệ được điều hành linh hoạt hơn, giá trị đồng tiền cơ bản ổn định; cán cân thanh toán quốc tế giữ được cân bằng, dự trữ ngoại tệ tăng dần, giảm được tỷ lệ nợ xấu trong tổng dư nợ tín dụng; nợ chính phủ và nợ quốc gia vẫn trong giới hạn an toàn. Hệ thống ngân hàng nhà nước, ngân hàng thương mại, quỹ hỗ trợ phát triễn và các quỹ đầu tư, ngân hàng chính sách, thị trường chứng khoán, quỹ tín dụng nhân dân được chấn chỉnh, có bước phát triển, hiệu quả hoạt động tốt hơn. Quan hệ tiền-hàng cơ bản hợp lý, bảo đảm hàng hóa thiết yếu cho sản xuất và đời sống. Giá tiêu dùng bình quân hàng năm tăng 4.7%, riêng năm 2004 tăng 9.5%. Với đường lối đổi mới, chúng ta đã từng bước làm cho nền kinh tế sống động, sức sản xuất phát triển khá nhanh, cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7.5% một năm. Cơ cấu kinh tế ngành, vùng có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ năm 1988 đến năm 2005, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 21.6% tăng lên 41%, tỷ trọng nông nghiệp từ 46.3% giảm còn 20.5% và tỷ trọng dịch vụ từ 33.1% tăng lên 38.5%. Các thành phần kinh tế cũng phát triển, hiện nay: kinh tế nhà nước đóng góp 39% GDP, kinh tế tập thể đóng góp 8% GDP; kinh tế tư nhân 37.7%GDP, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:15.5% GDP. Năm 1988 nước ta còn phải nhập khẩu hơn 60 vạn tấn lương thực, đến năm 2005 đã xuất khẩu 4.2 triệu tấn gạo. Nhiều ngành kinh tế như bưu chính viễn thông, điện tử, tin học, hàng không… đã bắt kịp nhịp phát triển của thế giới. Trên thực tế, chúng ta đã giải quyết tương đối tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 200 USD -năm 1990 lên 600 USD -năm 2005. công tác giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo đạt kết quả tốt. Tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước đã giảm từ 30% năm 1992 xuống còn 7% năm 2005. Sự nghiệp giáo dục- đào tạo và khoa học công nghệ có bước phát triển mới. Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân có tiến bộ, tuổi thọ trung bình của người dân từ 63 tuổi năm 1990 tăng lên 71.5 tuổi năm 2005. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 167 nước trong tổng số hơn 200 nước trên thế giới; ký 90 hiệp định thương mại song phương, trong đó có Hiệp định thương mại Việt- Mỹ. Đã gia nhập ASEAN, AFTA, APEC và đang trong quá trình chuẩn bị gia nhập WTO. Thiết lập được quan hệ tín dụng với các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế, tranh thủ được số lượng đáng kể vốn vay ưu đãi của Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng phát triển châu Á (ADB). 2.2 Hạn chế Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế, các cân đối vĩ mô chưa thật vững chắc. Việc xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn nhiều vướng mắc và chưa thật đồng bộ. Thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ phát triển chậm, chưa đáp ứng kịp yêu cầu. Quản lý nhà nước đối với từng loại thị trường còn nhiều bất cập. An ninh năng lượng, cán cân thương mại, cán cân vãng lai và thanh toán quốc tế, dự trữ quốc gia, cân đối ngân sách chưa đủ vững chắc để đối phó với các tình huống biến động lớn, đột xuất có thể xảy ra. Thu ngân sách còn phụ thuộc nhiều vào nguồn thu từ thuế nhập khẩu và dầu thô. Hoạt động của hệ thống ngân hàng còn nhiều yếu kém, chất lượng tín dụng thấp, nợ xấu còn cao. Trong tình hình giá cả thế giới còn nhiều biến động, công tác quản lý giá cả thị trường, lưu thông tiền tệ có mặt hạn chế, để xảy ra đột biến giá một số mặt hàng thiết yếu, gây bất lợi cho hoạt động kinh doanh và đời sống. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng núi còn nhiều khó khăn. Mức chênh lệch về thu nhập bình quân đầu người giữa thành thị và nông thôn cũng tăng từ 1.95 lần năm 1992 lên 2.01 lần năm 1992 và 2.27 lần năm 2002, đến 2004 là khoảng bốn lần. Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị đã giảm từ 8-9% vào đầu những năm 1990 và còn khoảng 6% vào năm 2004 nhưng vẫn còn ở mức khá cao. Hiện tượng làm giàu phi pháp do tham nhũng, buôn lậu, lừa đảo, đầu cơ chưa được ngăn chặn và đẩy lùi hiệu quả. Ngoài ra trong các lĩnh vực giáo dục- đào tạo, chăm sóc sức khoẻ nhân dân, điều tra và xét xử các vụ án… cũng còn nhiều việc phải chấn chỉnh, cải cách để thật sự đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. 3. Những bài học lớn sau 20 năm đổi mới 3.1 Trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng xã hội chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn để đi tới thắng lợi. Đổi mới không phải là xa rời mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng và kim chỉ nam cho sự nghiệp cách mạng. 3.2 Đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp. Phải đổi mới từ nhận thức, tư duy đến hoạt động và thực tiễn, từ kinh tế, chính trị, đối ngoại đến tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động cụ thể trong từng bộ phận của hệ thống chính trị. Đổi mới tất cả các mặt của đời sống xã hội nhưng không làm đồng loạt, dàn đều mà phải có trọng tâm, trọng điểm, có những bước đi thích hợp; bảo đảm sự gắn kết chặt chẽ và đồng bộ giữa ba nhiệm vụ: phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt và phát triển văn hóa- nền tảng tinh thần của xã hội. 3.3 Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới. Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân có vai trò quan trọng trong việc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Dựa vào nhân dân, xuất phát từ thực tiễn phong phú của nhân dân, thường xuyên tổng kết thực tiễn, tìm ra nhân tố mới, từng bước tìm ra quy luật các mặt của cuộc sống để đi lên- đó là chìa khóa của thành công. 3.4 Phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức khai thác ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Phát huy nội lực, xem đó là nhân tố quyết định đối với sự phát triển; đồng thời coi trọng huy động các nguồn ngoại lực thông qua hội nhập và hợp tác quốc tế, tranh thủ các nguồn lực bên ngoài để phát huy nội lực mạnh hơn, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Hội nhập và hợp tác quố tế phải dựa trên các nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; giữ vững độc lập dân tộc và định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát triển nền văn hóa dân tộc. 3.5 Đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, bảo đảm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là khâu then chốt, là nhân tố quyết định thắng lợi cho sự nghiệp đổi mới. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân và vì dân là yêu cầu bức thiết của xã hội; Nhà nước phải thể chế hóa và tổ chức thực hiện có hiệu quả quyền công dân, quyền con người. Phát huy vai trò Mặt trận tổ quốc và đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới. Xác lập những mối quan hệ hợp lý giữa Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc cùng các đoàn thể nhân dân thông qua hệ thống cơ chế thích hợp, làm cho tất cả các bộ phận cấu thành hệ thống chính trị ngày càng vững mạnh, quyền làm chủ của nhân dân được thực hiện ngày một tốt hơn, từ đó tạo ra động lực mạnh mẽ cho công cuộc đổi mới. 3.6 Bài học về hội nhập kinh tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ Hội nhập kinh tế quốc tế là yêu cầu khách quan, phải chủ động, có lộ trình với bước đi tích cực, vững chắc, không do dự chần chừ; nhưng không được nóng vội, giản đơn. Phải tích cực mở rộng thị trường bên ngoài để đẩy mạnh xuất khẩu, đồng thời phải chủ động mở cửa thị trường trong nước, kể cả thị trường dịch vụ, để thu hút mạnh vốn đầu tư, công nghệ và kỹ năng quản lý tiên tiến từ bên ngoài, nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong tiến trình mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới, phải biết phát huy lợi thế so sánh, tạo môi trường cạnh tranh để phát triển. Đồng thời, để phát triển bền vững, bảo đảm sự ổn định, tăng khả năng độc lập tự chủ của đất nước, nhất thiết phải tăng cường tiềm lực và bảo đảm an ninh kinh tế, đi đôi với củng cố quốc phòng, an ninh. Về an ninh kinh tế, phải giữ vững các cân đối vĩ mô; ngoài an ninh lương thực và an ninh năng lượng, cần tăng nhanh dự trữ ngoại tệ; kiểm soát chặt chẽ nợ nước ngoài; phát huy cao nhất các nguồn lực để xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển có hiệu quả một số ngành và sản phẩm quan trọng, thiết yếu đối với nền kinh tế và đời sống xã hội. III. GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN Muốn phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Dưới đây là những giải pháp chủ yếu nhất: 1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần Trước đây khi xây dựng kinh tế kế hoạch, xóa bỏ kinh tế thị trường, chúng ta đã thiết lập một cơ cấu sở hữu đơn giản với hai hình thức là sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Vì vậy, khi chuyển sang kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường, cần phải đổi mới cơ cấu sở hữu cũ, bằng cách đa dạng hóa các hình thức sở hữu, điều đó sẽ đưa đến hình thành các chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng, tức là khôi phục một trong những cơ sở của kinh tế hàng hóa. Trên cơ sở đa dạng hóa các hình thức sở hữu, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Lấy việc phát triển sức sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu quan trọng để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh. Theo tinh thần đó tất cả các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật, đều được khuyến khích phát triển. Trong những năm tới cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Muốn vậy cần tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước trong những lĩnh vực t rọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp nhà nước, thực hiện tốt chủ trương cổ phần hóa và đa dạng hóa sở hữu đối với những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần nắm 100% vốn. Xây dựng và củng cố một số tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế. Đẩy mạnh việc đổi mới kỹ thuật, công nghệ trong các doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện chế độ quản lý công ty đối với tất cả các doanh nghiệp kinh doanh có vốn của Nhà nước, doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh. Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Nhà nước cần giúp đỡ hợp tác xã về đào tạo cán bộ, xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường. Thực hiện tốt việc chuyển đổi hợp tác xã theo Luật hợp tác xã. Khuyến khích kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển ở cả thành thị và nông thôn. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển có hiệu quả. Khuyến

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctieu luan KTCT.doc
Tài liệu liên quan