Mục lục
A - Lời giới thiệu
B - Nội dung chính
I. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
1.Sự cần thiết
2.Nguyên nhân
II. Những giải pháp để xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
1.Những thành tựu
2.Khó khăn và hạn chế của Việt Nam
3.Giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
III. Hà Nội với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
1.Tình hình nền kinh tế Hà Nội những năm gần đây
2.Giải pháp
C - Kết luận
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1844 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những giải pháp để xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
A. Lời giới thiệu
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ xã hội hóa cao. Trong nền kinh tế thị trường yếu tố đầu vào và yếu tố đầu ra đều là đối tượng tự do buôn bán trên thị trường kể cả sản phẩm của chất xám. Lợi nhuận là động lực chi phối các doanh nghiệp tham gia vào thị trường. Trước kia trong môi trường cạnh tranh đó là nền kinh tế thị trường tự điều tiết. Ngày nay cạnh tranh không hoàn hảo đó là nền kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước ở mức độ nhất định tùy mỗi nước.
Đây là thành tựu chung của văn minh nhân loại chứ không phải mang tính đặc thù của Chủ nghĩa Tư bản. Tuy nhiên việc áp dụng và thực hiện mô hình kinh tế thị trường trên thế giới rất đa dạng và phong phú. Ở các nước tư bản phát triển, mô hình kinh tế thị trường đã trải qua nhiều giai đoạn biến đổi thăng trầm, tiến hóa theo thời gian cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và qua các quan hệ kinh tế dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật ngày nay là cuộc cách mạng khoa học công nghệ. Hầu hết các nước đang phát triển đều thực hiện đường lối phát triển kinh tế thị trường đã thu được một số thành công hay thất bại. Có một số nước thành công đạt được sự tăng trưởng kinh tế nhanh ổn định như các nước công nghiệp mới ở Đông Á(NICs) và các nền kinh tế công nghiệp hóa mới(NIEs). Nhưng nhiều nước lại thất bại, kinh tế tăng trưởng chậm luôn bị khủng hoảng thậm chí suy thoái như các nước ở Châu Phi và Mỹ Latinh.
Thực tế cho thấy thực tiễn và lý luận về mô hình kinh tế thị trường hết sức phong phú đa dạng và phức tạp, không thể áp dụng máy móc mô hình kinh tế thị trường của nước này cho nước khác được. Nó luôn là bài toán đầy thách thức đối với bất cứ nước nào muốn phát triển nền kinh tế thị trường.
Quán triệt tinh thần đó công cuộc đổi mới toàn diện nền kinh tế Việt Nam do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo thực hiện bắt đầu từ năm 1986 chuyển từ nước có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lí của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đến Đại gội lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định “Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN coi đó là đuờng lối chiến lược nhất quán trong suốt thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam”.
Hiện nay khoảng cách giữa nước ta với các nước trong khu vực và thế giới còn rất lớn. Vì vậy muốn thu hẹp khoảng cách đó chúng ta cần xây dựng một nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ổn định, vững mạnh để có thể phát huy được tính ưu việt của XHCN đưa nền kinh tế đi lên nhanh chóng.
Với ba phần và các trang đề án kinh tế chính trị bày sẽ nói lên được vì sao nước ta phải phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, một số giải pháp phát triển kinh tế thị trường ở nước ta và quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Thủ đô Hà Nội.
Em xin chân thành cảm ơn thư viện trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân, em xin cảm ơn sự chỉ bảo hướng dẫn tận tình của thầy Phạm Thành đã giúp em hoàn thành đề án kinh tế chính trị này. Tuy nhiên trong đề án kinh tế chính trị này chưa thể nói hết được những vấn đề của Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng trong quá trình phát triển kinh tế chính trị. Chắc chắn không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong có sự giúp đỡ chỉ bảo của thầy để đề án của em hoàn chỉnh hơn.
B. Nội dung chính
I – Sự cần thiết phải phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam
1. Sự cần thiết khách quan:
Để hiểu rõ nguyên nhân vì sao phải phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, trước hết chúng ta cần nắm được những cơ sở khách quan của sự tồn tại và phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam.
Thứ nhất: Do phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất hàng hóa và ngày càng phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu cùng với sự phát triển của phân công lao động thể hiện ở tính phong phú đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên thị trường.
Thứ hai: Nền kinh tế tồn tại nhiều hình thức sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp, do đó tồn tại nhiểu chủ thể kinh tế độc lập lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa học chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hóa tiền tệ.
Thứ ba: Thành phần kinh tế Nhà nước và nền kinh tế tập thể tuy cùng dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, nhưng cáio đơn vị kinh tế vẫn có sự khác biệt nhất định, có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, có lợi ích riêng. Mặt khác các đơn v ị kinh tế còn có sự khác nhau về trình độ kĩ thuật công nghệ, trình độ tổ chức quản lí nên chi phí sản xuất và hiệu quả sản xuất cũng khác nhau.
Thứ tư: Quan hệ hàng hóa tiền tệ cần thiết trong hệ thống kinh tế đối ngoại nhất là trong điều kiện phân công lao động quốc tế đang phát triển ngày càng sâu sắc vì mỗi nước là một quốc gia đặc biệt, là chủ sở hữu các hàng hóa đưa ra, trao đổi trên thị trường thế giới, sự trao đổi này mang nguyên tắc ngang giá.
Như vậy kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu, khách quan.
2. Nguyên nhân:
Chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là sự tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của văn minh nhân loại.
Sự phát triển của kinh tế thị trường sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn xã hội hóa cao, đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lí có trình độ, lao động lành nghề đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Thực tiễn những năm đổi mới đã chứng minh rằng, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước và thu hút vốn, kĩ thuật, công nghệ của nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất, góp phần quyết định vào việc bảo đảm tăng trưởng kinh tế với nhịp độ tương đối cao trong thời gian qua.
Đến nay nền kinh tế Việt nam đã từng bước ổn định, Việt nam đang chuẩn bị chuyển sang giai đoạn phát triển tăng tốc. Hội nghị TW lần thứ IX của ban chấp hành TW Đảng nêu rõ “Phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”. Hay nghị quyết 01/2004/ NQCP của Chính phủ cũng một lần nữa nhấn mạnh “ tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, trong đó cải thiện môi trường đầu tư là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu”.
Nước ta đang chuyển đổi nền kinh tế, chuyển đổi nền kinh tế kế koạch hóa tập trung sang nền kinh tế hàng hóa. Hiện nay, nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở trình độ kém phát triển, bởi cơ sở vật chất còn lạc hậu, nền kinh tế ít nhiều còn mang tính tự cấp tự túc vì vậy cùng với những nguyên nhân trên đòi hỏi chúng ta phải có những giải pháp để phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN.
II – Những giải pháp để xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
1. Những thành tựu mà kinh tế Việt Nam đã đạt được
Hơn 10 năm, kể từ khi Việt nam bước vào thực hiện mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN, nền kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả và thành tựu đáng mừng làm thay đổi khá rõ tình hình đất nước, kinh tế thoát khỏi tình trạng khủng hoảng, hoạt động ngày càng năng động và có hiệu quả. Của cải xã hội này càng nhiều, hàng hóa ngày càng phong phú đời sống nhân dân từng bước được cải thiện. Đất nước chẳng những giữ vững được ổn định chính trị trước chấn động lớn trên thế giới mà còn có những bước phát triển kinh tế đi lên. Tổng sản phẩm trong nước(GDP) tăng bình quân 7% một năm. Nông nghiệp phát triển liên tục, đặc biệt là về sản xuất lương thực, nuôi trồng và khai thác thủy sản. Giá trị sản xuất công nghiệp tăng 13,5%/ năm. Hệ thống kết cấu hạ tầng được tăng cường. Các ngành dịch vụ, xuất khẩu và nhập khẩu phát triển . Quan hệ đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế với các quốc gia trên thế giới được tăng cường, không ngừng phát triển mở rộng…
2. Khó khăn và hạn chế của Việt Nam
Trải qua hai cuộc kháng chiến trường kì và gian khổ chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, chính những sự tàn phá nặng nề của chiến tranh đã làm cho xuất phát điểm xây dựng kinh tế ở nước ta rát thấp. Tại đại hội VI(tháng 12/ 1986) Đảng ta đã thừa nhận: “ Trong nhận thức cũng như trong hành động chúng ta thực sự chưa thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài, chưa nắm vững và tận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất”
Trình độ phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta còn ở giai đoạn sơ khai. Do:
*Cơ sở vật chất – kĩ thuật còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế đã được trang bị kĩ thuật và công nghệ hiện đại, trong nhiều ngành kinh tế, máy móc cũ kĩ, công nghệ lạc hậu. Do đó năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất của nước ta còn rất thấp so với khu vực và thế giới(Chỉ bằng 30% mức trung bình của thế giới).
*Kết cấu hạ tầng như hệ thống giao thông, bến cảng, hệ thống thông tin liên lạc… còn lạc hậu.
*Nền kinh tế nước ta chưa thoát khỏi nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ. Nông nghiệp vẫn sử dụng khoảng 70% lực lượng lao động, nhưng chỉ sản xuất khoảng 26%GDP.
Thị trường dân tộc thống nhất đang trong quá trình hình thành nhưng chưa đồng bộ. Thị trường hàng hóa dịch vụ đã hình thành nhưng còn hạn hẹp và đặc biệt còn nhiều tiêu cực như hàng giả, hàng kém chất lượng, nhập lậu.
*Thị trường tiền tệ, thị trường vốn còn nhiều trắc trở do các doanh nghiệp thiếu vốn.
*Thị trường chứng khoán ra đời nhưng còn chưa có nhiều hàng hóa để mua – bán và mới có rất ít doanh nghiệp có đủ điều kiện tham gia thị trường này.
Hơn nữa hệ thống quản lý nhà nước về kinh tế - xã hội của ta còn yếu. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta nhận định về vấn đề này như sau: “Cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển một số cơ chế chính sách còn thiếu, chưa nhất quán, chưa sát với cuộc sống, thiếu tính khả thi. Nhiều cấp nhiều ngành chưa thay thế sửa đổi những quy định về quản lý nhà nước không phù hợp, chưa bổ sung những quy chế, chính sách mới có tác dụng giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất, khai thác nhiều hơn nữa các nguồn lực dồi dào trong các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp, các vùng và toàn xã hội”.
3. Giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
3.1. Thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần
Khi chuyển nền kinh tế sang kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường cần phải đổi mới các sở hữu cũ bằng cách đa dạng hoá các hình thức sở hữu.
Báo cáo chính trị Đại hội IX khẳng định: “Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần” và “Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của kinh tế quốc dân”.
Trong những năm tới cần phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước, muốn vậy cần tập trung nguồn lực phát triển có hiệu quả kinh tế Nhà nước trong những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế, sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước, thực hiện tốt chủ trương cổ phần hoá cà đa dạng hoá sở hữu đối với những doanh nghiệp Nhà nước. Không cần nắm 100% vốn. Phát triển kinh tế tập thể dưới nhiều hình thức đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Nhà nước giúp đỡ các hợp tác xã xây dựng phương án sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường, khuyến khích kinh tế cá thể tiểu chủ phát triển ở cả thành thị và nông thôn. Phát triển kinh tế tư bản tư nhân dưới các hình thức liên doanh, liên kết giữa kinh tế tư nhân trong và ngoài nước tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài hướng vào mục tiêu phát triển các sản phẩm xuất khẩu, khả năng cạnh tranh gắn thu hút vốn với thu hút công nghệ hiện đại.
3.2. Đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá, ứng dụng nhanh tiến bộ khoa học công nghệ, trên cơ sở đó đẩy mạnh phân công lao động xã hội
Phân công lao động xã hội là cơ sở chung của sản xuất và trao đổi hàng hóa vì vậy để sản xuất và trao đổi hàng hóa phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội do trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quyết định.
Chúng ta cần rút ngắn thời gian công nghiệp hoá so với những nước đi trước. Trang bị kĩ thuật, công nghệ hiện đại cho các ngành các lĩnh vực của nền kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, tiến hành phân công lại lao động và phân bổ dân cư trong phạm vi cả nước từng vùng, từng ngành, từng địa phương hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý cho phép khai thác tốt nhất các nguồn lực của đất nước, tạo nên sự tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
3.3. Tiếp tục tạo lập toàn bộ những yếu tố thị trường đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của nền kinh tế nhà nước, kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam mới được bắt đầu, trình độ thấp, vì vậy phải đổi mới mạnh mẽ tư duy hơn nữa đẩy mạnh hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. Đặc biệt quan tâm các thị trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: Thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, thị trường khoa học công nghệ, đáp ứng nhu cầu đa dạng và nâng cao sức mua của thị trường trong nước.
3.4. Phải đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố tích cực của cơ chế thị trường triệt để để xoá bỏ bao cấp trong kinh doanh, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mô của nhà nước, đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng phí gây phiền hà, nhà nước tạo môi trường pháp lý thuận lợi, bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh và hợp tác để phát triển bằng chiến lược quy hoạch, kế hoạch và chính sách, kết hợp sử dụng lực lượng vật chất của Nhà nước để định hướng phát triển kinh tế xã hội, khai thác hợp lý các nguồn lực của đất nước, đảm bảo cân đối vĩ mô nền kinh tế, điều tiết thu nhập, kiểm tra thanh tra mọi hoạt động kinh doanh theo quy hoạch của pháp luật.
Việc xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu quả cơ chế thị trường có sự quản lý cuả nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển ckt hàng hóa ở nước ta.
Tiếp tục đổi mới công cụ quản lý vĩ mô của nhà nước đối với nền kinh tế. Trong đó đặc biệt coi trọng việc xây dựng và thực hiện hệ thống các cơ chế chính sách, pháp luật, đổi mới công tác kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường công tác thông tin kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế, công tác kế toán, thống kê, ứng dụng rộng rãi các thành tựu khoa học và công nghệ trong công tác dự báo, kiểm tra tình hình thực hiện ở cả cấp vĩ mô và doanh nghiệp.
3.5. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
Chúng ta phải mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế để thu hút vốn, công nghệ hiện đại, khai thác tiềm năng và thế mạnh của đất nước để phát triển kinh tế.
Khi mở rộng quan hệ kinh tế phải quán triệt nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, không can thiệp vào nội bộ của nhau, mở rộng kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại.
Trong tình hình hiện nay cần đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là trọng điểm của kinh tế đối ngoại, giảm dần nhập siêu, ưu tiên nhập khẩu tư liệu sản xuất để phục vụ, tranh thủ mọi khả năng bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cần hướng vào nhiều lĩnh vực, những sản phẩm có công nghệ cao, tiên tiến và có tỷ trọng xuất khẩu cao.
3.6. Giải quyết các vần đề xã hội, hướng vào phát triển và lành mạnh hoá xã hội, thực hiện công bằng xã hội, coi đây là một nội dung rất quan trọng của định hướng XHCN, bảo đảm tính ưu việt của chế độ xã hội mới. Điều đó chẳng những tạo động lực mạnh mẽ nhằm phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động mà còn thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp.
Trong tình hình cụ thể ở Việt Nam hiện nay, phải bằng nhiều giải pháp tạo ra nhiều việc làm mới chăm lo cải thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, phòng chống tai tệ nạn và bệnh nghề nghiệp, từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an ninh xã hội, sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm cho người lao động thất nghiệp, cải cách cơ bản tiền lương đối với cán bộ, công chức, khuyến khích người có tài, người làm việc giỏi.Tiếp tục thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo, chăm sóc người có công đối với đất nước, đẩy mạnh phong trào chống tội phạm…
3.7. Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Đây là vấn đề có tính nguyên tắc và là nhân tố quyết định bảo đảm định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường, cũng như toàn bộ sự nghiệp phát triển của đất nước. Đây là một trong những bài học lớn nhất được rút ra trong những năm đổi mới.
Càng đi vào kinh tế thị trường, thực hiện dân chủ hoá xã hội, mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế càng phải tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Đảng đề ra đường lối, chiến lược phát triển đất nước. Thực tế cho thấy vó một số nước chỉ cần một chút mơ hồ buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng lập tức tạo điều kiện cho các thế lực thù địch chống phá, cướp chính quyền.
III - Hà Nội với kinh tế thị trường định hướng XHCN
1. Tình hình kinh tế Hà Nội những năm gần đây
Cùng với sự đi lên của đất nước, nền kinh tế của thủ đô cũng có rất nhiều khởi sắc trong những năm vừa qua. Năm năm qua kinh tế Thủ đô phát triển nhanh và khá toàn diện, hầu hết các chỉ số đều đạt hoặc vượt mức kế hoạch. Tổng sản phẩm quốc nội tăng bình quân 11,1%/năm, cao hơn mức tăng trưởng chung của cả nước. Đáng mừng là cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch đúng hướng, theo xu hướng hiện đại hoá, biểu hiện rõ nét theo định hướng dịch vụ - công nghiệp – nông nghiệp. Tỷ trọng lần lượt các lĩnh vực trên trong GDP là 57,5% - 40,5% - 2%. Kinh tế Hà Nội dang có sự thay đổi mạnh mẽ về chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cũng được nâng lên. Giá trị sản lượng công nghiệp tăng 19%/năm trong 5 năm qua, vượt chỉ tiêu kế hoạch là 14,5% - 15,5%/năm. Giá trị sản xuất và doanh thu dịch vụ của toàn thành phố tăng bình quân 10,5%/năm. Hà Nội ngày càng khẳng định vị trí là trung tâm các loại hình dịch vụ tiên tiến: ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông… Ngành thương mại đã tập trung khai thác thị trường nội địa đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu. Quý I năm 2006 kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn Hà Nội đạt 776,83 triệu USD, tăng 18,9% so với cùng kì năm trước. Trong đó xuất khẩu địa phương tăng 30,4%. Kim ngạch nhập khẩu quý I của thành phố đạt 2,85 tỷ USD tăng 14,4%.
Theo phó chủ tịch UBND thành phố Hà Nội – ông Vũ Văn Minh, tổng doanh thu năm 2005 trên địa bàn Hà Nội đạt 26,33 tỷ đồng tăng 18,77% so với cùng kì năm trước tổng thu năm 2005 tăng 1,85 lần so với năm 2001. Năm 2005 nhiều dòng vốn đã chuyển hướng đổ về Hà Nội: Vốn ODA đạt 32.500 tỷ đồng. Nền kinh tế Thủ đô Hà Nội đứng trước rất nhiều cơ hội và thách thức lớn, những cơ hội nổi bật sẽ tạo thế và lực, là bước đà cho sự phát triển của Hà Nội như khơi dậy nguồn lực bên trong, thu hút nguồn lực bên ngoài, chuyển giao công nghệ… Mặt khác những thách thức đặt ra trước xu thế hội nhập và phát triển là dễ lâm vào tình trạng bị tổn thương và chịu tác động xấu của rủi ro thị trường, đặc biệt nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế.
2. Giải pháp
Tuy nhiên điều quan trọng hơn là kinh tế Hà Nội tăng trưởng với tốc độ cao bằng cách nào ? Có đáp ứng tốt cho phát triển bền vững và trở thành một Thủ đô ngang tầm quốc tế hay không ? Do đó để xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Thủ đô cần thực hiện một số yêu cầu sau:
*Cần làm rõ nét quan trọng trong mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế của từng lĩnh vực, từng ngành, từng địa bàn.
*Cần đổi mới mạnh mẽ hơn nữa về tư duy và phương pháp chỉ đạo xây dựng chiến lược dài hạn.
*Tập trung trí tuệ và nguồn lực của các cấp, ngành vào việc xây dựng, triển khai có hệ thống và hiệu quả thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN trên địa bàn Thủ đô, trong đó ưu tiên phát triển các thị trường hàng hóa, dịch vụ, thị trường vốn, bất động sản, khoa học - công nghệ…
*Thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các biện pháp để nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh tế. Cần tìm ra và kiểm định một số mô hình tổ chức doanh nghiệp đa sở hữu có quy mô đủ lớn với tiềm lực kinh tế mạnh và có sức cạnh tranh cao, kể cả hình thức liên doanh, liên kết với nước ngoài để tạo phương thức kinh doanh mới. Như vậy mới đáp ứng được yêu cầu tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững trong xu thế hội nhập.
C. Kết Luận
Để phát triển đất nước, để đất nước ta có thể sánh vai với các nước trong khu vực và trên thế giới, chúng ta cần phải xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng XHCN vững mạnh. Tuy nhiên quá trình này không thể thực hiện trong một sớm một chiều đó là cả một quá trình đúc kết kinh nghiệm từ các nước anh em. Nền kinh tế thị trường đã có những bước chuyển biến đáng kể.
Khi đã hiểu rõ vì sao nước ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chúng ta sẽ thấy được những thiếu sót, hạn chế của nước ta hiện nay để từ đó đưa ra được những giải pháp để phát triển nền kinh tế đất nước.
Danh mục tài liệu tham khảo
>Giáo trình Kinh tế chính trị
>Bài giảng
>Văn kiện Đại hội Đảng VI,VIII, IX
>Tạp chí Quản lí nhà nước
>Tạp chí Đảng cộng sản
>Tạp chí Kinh tế Việt Nam và Thế giới số Chủ nhật 23/4/2006
>Báo Thương mại tháng 4/2001
>Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 251 tháng 4/1989 và số 322 tháng 3/2005
Mục lục
A - Lời giới thiệu
B - Nội dung chính
I. Sự cần thiết phải phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
1.Sự cần thiết
2.Nguyên nhân
II. Những giải pháp để xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
1.Những thành tựu
2.Khó khăn và hạn chế của Việt Nam
3.Giải pháp để phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
III. Hà Nội với nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN
1.Tình hình nền kinh tế Hà Nội những năm gần đây
2.Giải pháp
C - Kết luận
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN coi đó là đuờng lối chiến lược nhất quán trong suốt thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.docx