Công nghệ thông tin, Internet ở Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phát triển nhanh. Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng Internet nhanh nhất trong khu vực và nằm trong số các quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất trên thế giới. Số người sử dụng Internet ở Việt Nam cho đến nay đã đạt trên mức 20.000 triệu và vẫn tiếp tục trên đà tăng trưởng mạnh.
Công nghệ để thực hiện một thị trường điện tử đã rẻ đi rất nhiều. Thêm vào đó là xu hướng kết nối nhiều thông tin chào hàng khác nhau thông qua các giao diện lập trình ứng dụng để thành lập một thị trường chung có mật độ chào hàng cao.
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11395 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những khó khăn và thuận lợi trong việc phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh phủ; C2G
Là loại hình giao dịch giữa cơ quan nhà nước với cá nhân. Đây chủ yếu là các giao dịch mang tính hành chính, nhưng có thể mang những yếu tố của TMĐT.
Trong các quan hệ giao dịch nói trên, giao dịch giữa các doanh nghiệp với nhau B2B là quan hệ chủ yếu.
1.4 Vai trò của TMĐT
Có thể nói rằng thế kỷ 21 đã và đang chứng kiến sự phát triển tột bậc trong ngành công Nghệ Thông tin.
Công nghệ thông tin đã và đang thay đổi thế giới cũng như tạo nên một cuộc cách mạng thực sự trong mọi lĩnh vực của khoa học và đời sống Việc ứng dụng CNTT trong hoạt động SXKD cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Khái niệm ứng dụng CNTT trong hoạt động thương mại hay còn gọi là thương mại điện tử ra đời và đang trở thành xu thế mới thay thế dần phương thức kinh doanh cũ với rất nhiều ưu thế nổi bật như nhanh hơn, rẻ hơn, tiện dụng hơn, hiệu quả hơn và không bị giới hạn bởi không gian và thời gian…vv.
Tuy nhiên đối với một số nước đang phát triển nói chung và việt nam nói riêng TMDT lại là một điều khá mới mẻ dẫu rằng việc nắm bắt xu thế và phát triển đã và đang ở cả chiều rộng lẫn chiều sâu.
Các doanh nghiệp và các cá nhân có thể dùng TMĐT để giảm các chi phí giao dịch bằng cách đẩy luồng thông tin và tăng cường thêm sự phối hợp các hoạt động để giảm bớt tình trạng không rõ ràng. Bằng việc giảm bớt chi phí tìm kiếm thông tin về người kinh doanh, người bán và tăng số lượng tham gia thị trường, TMĐT có thể thay đổi sự thu hút thống nhất theo chiều thẳng đứng đối với rất nhiều công ty. Cũng chưa thể chắc rằng là việc chấp nhận TMĐT sẽ khiến cho các tổ chức theo cấu trúc vòm quay trở lại cấu trúc thị trường cũ của họ, nhưng đây cũng là một khả năng hoàn toàn có thể.
TMĐT có thể khiến cho các mạng lưới dựa hoàn toàn vào chia sẻ thông tin này có thể duy trì và quản lý dễ dàng hơn. Một số nhà nghiên cứu tin tưởng rằng những hình thức tổ chức thương mại này sắp tới sẽ trở nên có ưu thế.
Mặc dù đã có rất nhiều doanh nghiệp biết ứng dụng và phát triển TMDT và trở thành điển hình trong lĩnh vực này như công ty Vietgo, công ty cổ phần vật giá với sàn giao dịch TMĐT: vatgia.com; công ty peaceoft solution với trang web: chodientu.vn, …vv.
Tuy nhiên, việc khai thác và ứng dụng TMDT luôn là hai mặt của một vấn đề:
Thứ nhất chúng ta đang ở giao thời giữa kinh doanh truyền thống và phương thức kinh doanh TMDT, do vậy luôn có sự so sánh thực dụng và ngắn hạn về tính hiệu quả giữa hai phương thức này.
Thứ hai TMDT cũng đòi hỏi phải có cách nhìn nhận khác hơn, trí tuệ hơn và.. khó hơn (không theo lối tư duy cũ), việc ứng dụng và phát triển TMDT đỏi hỏi sự nhận thức sâu rộng trong xã hội và môi trường làm việc cũng như quản lý và hạn chế các mặt tiêu cực như việc gian lận, niềm tin, phá hoại vv.. đã và đang ở trên rất khó kiểm soát vì tính nhanh, mạnh và kỹ thuật cao của loại hình này.
1.5 Ưu điểm và nhược điểm của Thương mại điện tử
Tất cả các công ty đều rất quan tâm tới TMĐT đơn giản vì nó có thể giúp họ tăng thêm lợi nhuận qua việc tăng lượng bán và giảm chi phí.
Quảng cáo tốt trên Web có thể có được thông báo quảng cáo của các công ty nhỏ tới người tiêu dùng trên mọi quốc gia trên thế giới.
Chi phí cho việc sử lý những yêu cầu bán hàng, cung cấp các yêu cầu đòi hỏi về giá cả, và xác nhận các sản phẩm có sẵn có thể giảm nhờ TMĐT trong hỗ trợ kinh doanh và quá trình đặt hàng của một doanh nghiệp. Năm 1998, Cisco Systems đã bán được 72 sản phẩm thiết bị máy tính của mình qua Web, bởi không có một dịch vụ khách hàng nào có thể đại diện cho những hoạt động kinh doanh như thế nên Cisco dự tính rằng họ có thể bớt được 500.000 cuộc gọi mỗi tháng và mỗi năm có thể tiết kiệm được hơn 500 triệu đô la.
TMĐT tăng cơ hội bán cho người bán đồng thời cũng tăng cơ hội mua cho người kinh doanh cũng như người mua. Các doanh nghiệp có thể dùng TMĐT trong quá trình mua bán để xác định các đối tác cung và cầu mới. Trong TMĐT thì thoả thuận về giá cả và chuyển giao các mặt hàng dễ dàng hơn bởi vì Web có thể cung cấp thông tin cạnh tranh về giá cả rất hiệu quả. TMĐT đẩy mạnh tốc độ và tính chính xác để các doang nghiệp có thể trao đổi thông tin và giảm chi phí cho cả hai bên trong các giao dịch.
TMĐT cho người kinh doanh nhiều sự lựa chọn hơn là thương mại truyền thống bởi họ có thể đồng thời biết nhiều loại sản phẩm và các loại dịch vụ từ nhiều người bán khác nhau luôn sẵn sàng hàng ngày, hàng giờ. Có khách hàng thì muốn sử dụng một lượng thông tin lớn khi quyết định mua bán trong khi những người khác không cần nhiều như vậy.
TMĐT cung cấp cho người kinh doanh cách dễ dàng nhất để tuỳ chỉnh các cấp độ thông tin trong mua bán. Thay vì phải đợi nhiều ngày để gửi thư từ, mang theo một quyển mẫu hoặc các trang mô phỏng sản phẩm hoặc thậm chí nhanh hơn là nhờ vào những giao dịch qua fax, thì người kinh doanh có thể truy cập ngay vào những thông tin chi tiết trên Web. Với một số sản phẩm như phần mềm, các audio clip, các hình ảnh thậm chí là có thể được chuyển qua Internet, giảm được thời gian mà người kinh doanh phải chờ để bắt đầu việc mua hàng.
Lợi nhuận của TMĐT cũng đã tăng thêm phúc lợi xã hội. Thanh toán điện tử của việc trả thuế, lương hưu, và phúc lợi xã hội chi phí thấp, an toàn và nhanh chóng khi giao dịch qua Internet. Hơn nữa các thanh toán điện tử có thể kiểm toán và điều hành dễ dàng hơn các thanh toán bằng séc có thể chống thất thoát và gian lận.
TMĐT còn có thể đáp ứng được các dịch vụ và các sản phẩm tới những nơi xa xôi.
Tuy nhiên thì cũng có một số hoạt động kinh doanh không thích hợp TMĐT. Ví dụ, nhiều thực phẩm nhanh hỏng và các mặt hàng đắt tiền như đồ trang sức hoặc đồ cổ không thể kiểm tra được một cách xác đáng từ điểm xa theo các công nghệ mới sẽ được phát minh ra trong tương lai. Tuy nhiên, hầu hết những bất lợi của TMĐT ngày nay bắt nguồn từ tính chất mới lạ và tốc độ phát triển nhanh của các công nghệ cơ bản. Những bất lợi này sẽ biến mất khi TMĐT hoàn thiện và sẵn sàng hoạt động và được toàn bộ dân chúng chấp nhận. Nhiều sản phẩm và dịch vụ đòi hỏi những nhận xét của khách hàng tiềm năng được trang bị và sẵn sàng mua qua Internet. Ví dụ, nhà kinh doanh tạp phẩm trực tuyến Peapop chỉ thực hiện các dịch vụ giao hàng của mình trong một số thành phố. Do nhiều khách hàng tiềm năng của Peapop bắt đầu kết nối với Internet và bắt đầu thấy sự tiện lợi của việc mua bán trực tuyến, nó sẽ có thể mở rộng thêm nhiều khu vực.
Các doanh nghiệp thường tính toán lợi nhuận thu được trên số lượng các vụ đầu tư trước khi sử dụng bất kỳ công nghệ mới nào. Điều đó rất khó thực hiện trong TMĐT bởi chi phí và lợi nhuận rất khó xác định. Chi phí, là một chức năng của công nghệ, có thể thay đổi nhanh chóng thậm chí chỉ trong thời gian ngắn thực hiện các dự án TMĐT do những công nghệ cơ bản đang thay đổi một cách nhanh chóng. Nhiều công ty đã gặp rất nhiều khó khăn trong việc tuyển dụng và giữ được các công nhân có các kỹ năng về công nghệ, thiết kế và quá trình kinh doanh cần thiết để làm TMĐT có hiệu quả. Một vấn đề khác mà các công ty muốn kinh doanh trên Internet phải đối mặt đó là khó khăn trong việc thống nhất cơ sở dữ liệu đang hiện hành và phần mềm xử lý giao dịch được thiết kế cho thương mại truyền thống thành phần mềm có thể dành riêng cho TMĐT.
Cùng với các vấn đề về công nghệ và phần mềm, nhiều doanh nghiệp phải đối mặt với những trở ngại về văn hoá và luật pháp trong TMĐT. Nhiều người tiêu dùng ở một mức độ nào đó vẫn e ngại việc gửi số thẻ tín dụng trên Internet, có một số người tiêu dùng khác đơn giản thường hơn có thể thích hợp được với sự thay đổi và cảm thấy không thoải mái trong việc xem các hàng hoá trên màn hình máy tính hơn là xem trực tiếp.
Môi trường pháp lý mà TMĐT được quản lý là các bộ luật hoàn toàn không rõ ràng và mâu thuẫn với nhau. Luật kiểm soát TMĐT được viết ra khi các tài liệu được ký dự tính hợp lý trong bất kỳ giao dịch kinh doanh nào. Khi có nhiều các doanh nghiệp và cá nhân thấy được lợi ích của TMĐT là hấp dẫn, thì những bất lợi liên quan đến công nghệ và văn hoá này sẽ không còn tồn tại nữa.
2. Thực trạng phát triển thương mại điện tử
2.1 Trên thế giới
Với khu vực thị trường nội địa to lớn, nhiều công ty của Mỹ còn chậm trong việc bán hàng ra toàn thế giới. Hiện nay, chỉ có khoảng 12% lượng hàng bán ra từ các công ty lớn của Mỹ ra thị trường nước ngoài. Nhưng theo xu hướng phát triển tất yếu, con số này đang có chiều hướng gia tăng và dự báo sẽ tăng 15% trong hai năm tới.
Một số nước ở Châu Á CŨNG ĐANG TÍCH CỰC trong cuộc chạy đua với các quốc gia phát triển. Trong vòng 5 năm tới, số luợng người châu Á truy cập vào mạng Internet sẽ vượt quá tổng số người truy cập ở châu Âu và Bắc Mỹ gộp lại. Dự kiến doanh thu mua bán hàng trên mạng Internet tại châu Á sẽ tăng lên rất nhiều, chiếm 1/4 thu nhập thơng mại Internet trên toàn cầu (khoảng 1.400 tỉ USD vào năm 2003). Các công ty lớn với nguồn hàng ổn định luôn mong muốn mở rộng thị trường, rất tích cực trong việc triển khai thương mại điện tử, tăng cường việc bán hàng ra toàn cầu, đồng thời triển khai việc mua hàng hóa và dịch vụ từ nguồn bên ngoài.
Đặc biệt doanh thu thương mại điện tử ở Nhật tăng đều khoảng 17% từ năm 2005 đến nay và dự tính sẽ tăng khoảng 10% trong những năm tới. Một công ty thu lợi nhiều nhất trong xu hướng phát triển thương mại điện tử ở Nhật là Rakuten. Yếu tố thành công của Ratuken là sử dụng hệ thống thu hút khách hàng trung thành. Người mua sẽ nhận được điểm khi mua bất kỳ hàng hóa nào trên hệ thống của Ratuken, sau đó họ có thể dùng các điểm này đổi lấy ưu đãi giảm giá khi mua hàng hóa khác. Tuy nhiên, những thành công mà Ratuken đang có được ở thị trường Nhật có thể sẽ không dễ dàng gì ở những thị trường khác bởi những khác biệt văn hóa cũng như cơ sở hạ tầng. Hơn nữa, khi liên doanh ở nước ngoài, Ratuken phải đối mặt với cạnh tranh mạnh mẽ từ các đối thủ bản địa.
Trung Quốc cũng đã trở thành quốc gia phát triển thương mại điện tử ở Châu Á, thế mạnh của Trung Quốc là con người. Hơn nữa, HongKong một lãnh thổ tư bản của Trung Quốc hiện thời là một trong những trung tâm tài chính và thương mại quốc tế mạnh nhất trên thế giới. Với cơ sở hạ tầng kỹ thuật và kinh tế được phát triển, nó cũng có tiềm năng để trở thành là quốc gia dẫn đầu về phát triển thương mại điện tử.
Singapore là một quốc gia có tỷ lệ người dân biết sử dụng máy tính và phát triển hệ thống mạng viễn thông tốt nhất trên thế giới. Sự phát triển thương mại điện tử và Internet đã thúc đẩy việc Chính phủ Singapore có chiến lược lâu dài trong việc biến Singapore trở thành trung tâm phát triển thương mại điện tử của Châu Á. Với các lợi thế khác nhau của các quốc gia này, việc trở thành các nước dẫn đầu trong việc tận dụng được các lợi ích của Internet không phải là điều khó khăn.
2.2 Ở Việt Nam
Theo thống kê mới nhất, tính đến giữa năm 2005, Việt Nam đã có khoảng 10 triệu người truy cập Internet, chiếm gần 12,5% dân số cả nước. Tỷ lệ này cũng ngang bằng với tỷ lệ chung của toàn cầu năm 2004.
Nếu cuối năm 2003 số người truy cập Internet ở Việt Nam là khoảng 3,2 triệu người, đến cuối năm 2004 con số này đã tăng lên gần gấp đôi, tức khoảng 6,2 triệu người, sáu tháng sau đó, con số này đã lên đến hơn 10 triệu, dự đoán đến cuối năm 2005, số người Việt Nam truy cập Internet có thể lên đến 13 đến 15 triệu người, chiếm tỷ lệ 16% - 18% dân số cả nước. Những thống kê này cho thấy một tín hiệu lạc quan về sự phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam trong giai đoạn 2006 – 2010.
Theo thống kê của Vụ Thương mại điện tử thuộc Bộ Thương mại, đến cuối năm 2004, Việt Nam đã có khoảng 17.500 website của các doanh nghiệp, trong đó số tên miền .vn (như .com.vn, .net.vn,...) đã tăng từ 2.300 (năm 2002) lên 5.510 (năm 2003) và 9.037 (năm 2004).
Năm 2003, 2004 là năm các website sàn giao dịch B2B (marketplace), các website rao vặt, các siêu thị trực tuyến B2C... đua nhau ra đời. Tuy nhiên, các website này vẫn còn phát triển hạn chế, chưa có website nào thực sự phát triển đột phá vì nhiều nguyên do. Những mặt hàng được bán phổ biến trên mạng tại Việt Nam hiện nay gồm: hàng điện tử, kỹ thuật số, sản phẩm thông tin (sách điện tử, CD, VCD, nhạc...), thiệp, hoa, quà tặng, hàng thủ công mỹ nghệ. Các dịch vụ ứng dụng Thương mại điện tử nhiều như: du lịch, tư vấn, CNTT, dịch vụ thông tin (thông tin tổng hợp, thông tin chuyên ngành...), giáo dục và đào tạo.
Các doanh nghiệp cũng đã quan tâm nhiều hơn về việc lập website để giới thiệu thông tin, hỗ trợ marketing, bán hàng qua mạng... Bảng sau minh họa kết quả khảo sát của Vụ Thương mại điện tử về quan điểm của doanh nghiệp về tác dụng của website đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Nhìn chung, việc phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam hiện còn mang tính tự phát, chưa được định hướng bởi chính phủ và các cơ quan chuyên môn nhà nước. Do đó, sự đầu tư cho TMĐT ở mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào tầm nhìn, quan điểm của lãnh đạo doanh nghiệp. Cũng có nhiều cá nhân, doanh nghiệp thành lập những website Thương mại điện tử (sàn giao dịch, website phục vụ việc cung cấp thông tin, website rao vặt, siêu thị điện tử...) để giành vị thế tiên phong, tuy nhiên, tình hình chung là các website này chưa thực sự được marketing tốt và phát triển tốt để mang lại lợi nhuận kinh tế đáng kể.
3. Thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển TMĐT ở Việt Nam
3.1 Thuận lợi
Công nghệ thông tin, Internet ở Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phát triển nhanh. Việt Nam là quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng Internet nhanh nhất trong khu vực và nằm trong số các quốc gia có tỷ lệ tăng trưởng cao nhất trên thế giới. Số người sử dụng Internet ở Việt Nam cho đến nay đã đạt trên mức 20.000 triệu và vẫn tiếp tục trên đà tăng trưởng mạnh.
Công nghệ để thực hiện một thị trường điện tử đã rẻ đi rất nhiều. Thêm vào đó là xu hướng kết nối nhiều thông tin chào hàng khác nhau thông qua các giao diện lập trình ứng dụng để thành lập một thị trường chung có mật độ chào hàng cao.
Dân số Việt Nam là dân số trẻ, tiếp thu công nghệ mới nhanh, lại rất nhanh nhạy trong các việc kinh doanh online. Theo khảo sát của hãng nghiên cứu IDC Việt Nam, có 58% người sử dụng Internet ở Việt Nam đã từng mua hàng Online.
Việt Nam là nước xuất khẩu nhiều mặt hàng, thương mại điện tử giúp doanh nghiệp tìm kiếm khách hàng trên toàn thế giới.
Việt Nam có thể “xuất khẩu” dịch vụ, sản phẩm thông tin, sản phẩm tri thức bằng cách bán qua mạng Internet.
Du lịch Việt Nam phát triển rất mạnh mẽ và cần tận dụng thương mại điện tử để quảng bá, cho đặt dịch vụ qua mạng, thanh toán qua mạng, hỗ trợ du khách qua mạng...
Nhà nước chủ trương thúc đẩy thương mại điện tử phát triển. TMĐT cũng đã chính thức được đưa vào trong chương trình đào tạo ở các bậc đại học, cao đẳng và sau đại học, tạo cơ sở vững chắc để tạo nên một đội ngũ có chuyên môn cao về lĩnh vực này.
Doanh nghiệp đầu tư ngày càng nhiều vào thương mại điện tử.
Hệ thống ngân hàng đang có sự chuyển mình mạnh mẽ. Nhiều ngân hàng đầu tư xây dựng hệ thống ngân hàng lõi, hệ thống chuyển mạch, cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến, Intenet banking.
Chúng ta có thể học tập được kinh nghiệm từ các thị trường có nhiều điểm tương đồng về văn hóa với Việt Nam như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản...
3.2 Khó khăn
Thói quen tiêu dùng bằng tiền mặt cùng với hoạt động Thanh toán trực tuyến (TTTT) chưa phát triển là hai trở ngại lớn nhất cho phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam.
Hành lang pháp lý về thương mại điện tử còn mông lung, chưa cụ thể. Theo nghiên cứu của Trung tâm Nghiên cứu Phát triển Quốc tế (IDRC), các chính sách về thương mại điện tử của Việt Nam có một số nhược điểm sau: Thiếu sự liên kết chặt chẽ giữa các chính sách với nhau và giữa các chính sách nội địa với những chính sách quốc tế. Cơ chế quản lý Nhà Nước về thương mại điện tử chưa thích hợp. Không có sự hợp tác hiệu quả giữa các đơn vị làm luật. Có rất ít, thậm chí không có sự trao đổi giữa nhà làm luật và các cá nhân, đơn vị ảnh hưởng bởi luật. Thiếu thông tin và những phân tích về ảnh hưởng của thương mại điện tử. Các quy định, chính sách còn khái quát, mơ hồ, thiếu tính cụ thể. Chính phủ không thể đóng vai trò tiên phong…
Doanh nghiệp chưa có đủ điều kiện về cơ sở hạ tầng để phát triển thương mại điện tử.
Việc đầu tư marketing website để đối tượng khách hàng biết đến cũng chưa được doanh nghiệp quan tâm thực hiện hiệu quả, bằng chứng là có nhiều website có số lượng người truy cập rất khiêm tốn sau khi khai trương nhiều năm, và đa số các website giới thiệu thông tin, sản phẩm này của doanh nghiệp được Alexa xếp hạng rất “lớn” (trên 500.000).
Doanh nghiệp chưa có sự hỗ trợ nhiều hơn từ phía các cơ quan chức năng và quản lý. Ông Nguyễn Thành Hiếu, Phụ trách Phát triển kinh doanh Khu vực phía Nam của Cổng thanh toán trực tuyến Nganluong.vn, cho rằng cần phải thực hiện đồng bộ các việc phát triển hạ tầng cơ sở, nâng cao trình độ dân trí, hoàn thiện pháp lý, phát triển thể chế tài chính. Ông Nguyễn Thành Hiếu bày tỏ mong muốn từ phía doanh nghiệp:“Chúng tôi mong muốn có được một thể chế, chính sách rõ ràng, minh bạch và hỗ trợ được doanh nghiệp nhiều hơn nữa.”
Thiếu thốn những đòi hỏi của TMĐT - một tổng thể của hàng chục vấn đề phức tạp đan xen vào nhau trong một mối quan hệ hữu cơ. Cụ thể là:
Hạ tầng cơ sở công nghệ: Chỉ có thể tiến hành thực tế và một cách có hiệu quả TMĐT khi đã có một hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin đủ năng lực, bao gồm hai nhánh: tính toán (computing) và truyền thông (communications), hai nhánh này ngoài công nghệ thiết bị còn cần phải có một nền công nghiệp điện tử vững mạnh làm nền; và hiện nay đang có xu hướng đưa cả công nghệ bảo mật và an toàn vào cơ sở hạ tầng công nghệ của TMĐT. Đòi hỏi về hạ tầng cơ sở công nghệ bao gồm hai mặt: một là tính tiên tiến, hiện đại về công nghệ và thiết bị, hai là tính phổ cập về kinh tế (đủ rẻ tiền để đông đảo con người có thể thực tế tiếp cận được).
Hạ tầng cơ sở nhân lực: Hoạt động thương mại, theo đúng nghĩa của chữ "thương mại" trong "thương mại điện tử", liên quan tới mọi người, từ người tiêu dùng đến doanh nghiệp, phân phối, Chính phủ, các nhà công nghệ, nên việc áp dụng TMĐT tất yếu đòi hỏi đa số con người phải có kỹ năng thực tế ứng dụng công nghệ thông tin một cách có hiệu quả, có thói quen làm việc trên máy tính, trên mạng máy tính, và cần phải có một đội ngũ chuyên gia thông tin đủ mạnh.
Bảo mật, an toàn: Giao dịch thương mại qua các phương tiện điện tử, trong đó mọi dữ liệu (kể cả chữ ký) đều ở dạng số hoá, đặt ra yêu cầu nghiêm ngặt về tính bảo mật, an toàn, tránh mất tiền, lừa gạt, thay đổi thông tin, xâm nhập dữ liệu, v.v... là các rủi ro ngày một lớn, không chỉ với người buôn bán, mà cả với người quản lý, với từng quốc gia, vì các hệ thống điện tử có thể bị kẻ xấu (thường gọi là "hacker") xâm nhập, đòi hỏi phải có các hệ thống bảo mật, an toàn được thiết kế trên cơ sở kỹ thuật mã hóa hiện đại, và một cơ chế an ninh hữu hiệu (nhất là đối với các hệ thống có liên quan tới an ninh quốc gia). Ngoài ra, còn có nhu cầu ngày càng tăng vì giữ gìn bí mật riêng tư.
Hệ thống thanh toán tự động: TMĐT chỉ có thể thực hiện thực tế và có hiệu quả khi đã tồn tại một hệ thống thanh toán tài chính ở mức độ phát triển đủ cao, cho phép tiến hành thanh toán tự động (trong đó "thẻ thông minh” có vai trò đặc biệt quan trọng trong kinh doanh bán lẻ). Khi chưa có hệ thống này, thì TMĐT chỉ giới hạn trong khâu trao đổi tin tức, còn việc buôn bán hàng hóa và dịch vụ vẫn phải kết thúc bằng trả tiền trực tiếp hoặc qua các phương tiện thanh toán truyền thông; hiệu quả sẽ thấp, rất có thể không đủ bù đắp chi phí trang bị phương tiện TMĐT.
Bảo vệ người tiêu dùng: Bảo vệ người tiêu dùng là mục tiêu ngày càng được đề cao trong thương mại. Quy cách phẩm chất hàng hóa, và các thông tin liên quan trong TMĐT đều ở dạng số hóa, nên người mua chịu rủi ro lớn hơn so với giao dịch thương mại vật thể; để bổ cứu, phải có cơ chế trung gian đảm bảo chất lượng, là một khía cạnh đang nổi lên trước thực tiễn rủi ro đang ngày càng gia tăng trong giao dịch TMĐT, xâm phạm vào quyền lợi của người tiêu dùng.
Tác động văn hoá xã hội: Tác động văn hóa xã hội của TMĐT xuất hiện khi sử dụng Internet làm công cụ giao tiếp, như khi tiến hành TMĐT qua biên giới (với nước khác), hoặc nếu trong một quốc gia nhưng sử dụng Iternet, Web làm công cụ mạng. Internet có thể trở thành "hộp thư" giao dịch mua bán dâm, ma tuý, và buôn lậu; các lực lượng phản xã hội đưa lên Internet các tuyên truyền kích dục có mục đích đối với trẻ em, các hướng dẫn làm bom thư, làm chất nổ phá hoại, các loại tuyên truyền kích động bạo lực, phân biệt chủng tộc, kỳ thị tôn giáo, v.v...; Internet cũng có thể trở thành một phương tiện thuận lợi cho các lực lượng chống đối sử dụng để tuyên truyền, kích động lật đổ Chính phủ và hoặc gây rối làm loạn trật tự xã hội; ngoài ra phải tính tới tác động về cuốn hút thanh niên theo các lối sống không phù hợp với bản sắc văn hoá dân tộc (nếu chỉ làm TMĐT trong nước, thông qua nối mạng các doanh nghiệp, sử dụng mạng quốc gia, mà không dùng Internet, thì không cần tính tới tác động tiêu cực này; nhưng nếu không lợi dụng Internet làm công cụ giao tiếp chung, mà thiết lập các mạng riêng thì không có tính kinh tế, và việc làm TMĐT với nước ngoài sẽ bị hạn chế).
Lệ thuộc công nghệ: Hoa Kỳ đang khống chế toàn bộ công nghệ thông tin trên thế giới, cả phần cứng cũng như phần mềm (bao gồm phần mềm hệ thống và phần mềm ứng dụng), chuẩn công nghệ Internet, các phần mềm tìm kiếm và trình duyệt chủ yếu cũng là của Hoa Kỳ, Hoa Kỳ đã đi đầu và có nhiều thực tiễn về kinh tế số hóa và TMĐT. Một khi thương mại được số hóa thì toàn thế giới sẽ chịu sự khống chế công nghệ Hoa Kỳ và các nước tiên tiến gần với Hoa Kỳ, là điều có thể đưa tới nhiều hệ quả.
TMĐT bao trùm một phạm vị rộng lớn các hoạt động kinh tế xã hội, và hạ tầng cơ sở của nó là một tổng hòa phức hợp của hàng chục mặt vấn đề; cho nên, tuyệt đối không nên nhìn nhận TMĐT đơn thuần chỉ là việc dùng phương tiện điện tử để thực hiện các hành vi buôn bán truyền thống, mà nên hiểu rằng một khi chấp nhận và áp dụng TMĐT thì toàn bộ hình thái hoạt động của một đất nước sẽ thay đổi, cả hệ thống giáo dục, cả tập quán làm việc và sinh hoạt hàng ngày.
Thiếu sự kết hợp tổng thể giữa các hệ thống phân phối, vận chuyển, trung gian thanh toán và hệ thống ngân hàng.
Khách hàng chưa yên tâm khi sử dụng hình thức thanh toán trực tuyến của thương mại điện tử. TS Nguyễn Thành Nhơn: ” Bán hàng ký kết hợp đồng hẳn hoi còn khó thu tiền, huống gì online.”
4. Những điều cần biết về thương mại điện tử
Nếu TMĐT là dễ thì ai cũng có thể làm được : không phải chỉ cần thuê một nhóm kỹ thuật xây dựng một hệ thống web cho bạn rồi đưa hệ thống này lên mạng là bạn đã tự hào rằng mình đã thực hiện TMĐT. Để thực sự thu lại lợi ích mang lại bởi hệ thống web của bạn, bạn cần phải làm nhiều điều hơn. Để bán được hàng hóa bạn cần phải thực hiện đủ các bước từ chào hàng đến hậu mãi. Thương mại điện tử chỉ là một phần phát triển của thương mại truyền thống.
Marketing : bạn phải dành nhiều thời gian để thu hút đối tượng khách hàng vào xem trang web của bạn. Điều này cực kỳ quan trọng cho những trang web bán hàng trên mạng. Hoặc bạn có thể trả tiền cho dịch vụ marketing website của bạn. Thực ra, đây là hình thức rất phù hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thay vì phải thuê ít nhất một nhân viên làm việc này và trả tiền cho đường truyền Internet, bạn có thể chỉ phải trả vài chục đô-la Mỹ mỗi tháng để thuê một công ty chuyên nghiệp tiếp thị và quảng cáo website của bạn đến với những đối tượng khách hàng của bạn trên khắp thế giới.
Bạn không thể bán những gì khách hàng không cần : không phải bất cứ thứ gì cũng có thể bán được qua mạng. Ví dụ, sẽ không ai mua gạo hay dầu gội qua mạng bởi vì họ có thể mua chúng dễ dàng ở các cửa hiệu ở mọi nơi. Khi bạn quyết định bán hàng qua mạng, bạn phải khảo sát kỹ liệu sẽ có thị trường tiêu thụ qua mạng cho mặt hàng của bạn hay không. Nếu có, thì ắt sẽ có người khác có cùng ý tưởng với bạn, nên cạnh tranh là điều không thể tránh khỏi, do đó, bạn phải biết cách làm nên sự khác biệt cho sản phẩm, dịch vụ của mình để tăng lợi thế cạnh tranh.
Khách hàng sẽ không tìm thấy bạn : Chìm ngập trong hàng tỉ trang web, làm sao khách hàng có thể tìm thấy website của bạn ? Thông thường một người biết được một website là do: tìm kiếm từ Search Engine, bạn bè giới thiệu, hay đọc được thông tin về địa chỉ website đó từ một nguồn nào khác. Cách tìm qua Search Engine là thông dụng nhất. Vì thế, bạn phải đăng ký website của mình với các Search Engine, kể cả trả tiền cho các Search Engine để được liệt kê ở những trang đầu. Ngoài ra, việc bố trí phân loại thông tin hay hàng hóa trên trang web của bạn cũng phải nhắm đến mục tiêu làm sao cho người xem tìm kiếm được cái họ muốn dễ dàng nhất. Nên nhớ, khách hàng sẽ không kiên nhẫn dạo chơi trong website của bạn đâu.
Tốc độ : tốc độ là một yếu tố quan trọng. Tốc độ truyền tải trang web của bạn chậm sẽ khiến khách hàng mất kiên nhẫn và bỏ đi. Có 2 yếu tố để cải thiện tốc độ truyền: trang web của bạn không nên có nhiều hình ảnh, âm thanh không thực sự hữu ích. Lý tưởng là mỗi trang web nên bé hơn 50KB. Và khi mua dịch vụ hosting, nên chọn lựa chất lượng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hoàn thiện bài.doc