MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
I . NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN : 3
1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM : 3
2.PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG CỦA ĐÔ THỊ HOÁ ĐẾN VẤN ĐỀ GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG 7
3.ĐÁNH GIÁ ĐẤT ĐAI 8
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 10
1.TỔ CHỨC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG 10
2.NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC: 13
3.NHỮNG TỒN TẠI : 15
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM TĂNG CƯỜNG CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC GIẢI PHÓNG MẶT BẰNG 17
1. VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG 17
2.VỀ XÂY DỰNG CÁC QUY ĐỊNH, CHÍNH SÁCH: 18
KẾT LUẬN 20
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6155 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những kinh nghiệm Giải phóng mặt bằng trên địa bàn quận Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
người sống tập trung và hoạt động trong những khu vực kinh tế phi nông nghiệp
+ Đô thị là nơi tập trung dân cư, chủ yếu lao động phi nông nghiệp sống và làm việc theo kiểu thành thị
+ Đô thị là điểm tập trung dân cư với mật độ cao, chủ yếu là lao động phi nông nghiệp, có cơ sở hạ tầng thích hợp, là trung tâm tổng hợp hay trung tâm chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển của cả nước, của một miền lãnh thổ, một tỉnh, một huyện hoặc một vùng trong tỉnh hoặc trong huyện
Như vậy chúng ta có thể đưa ra một khái niệm khái quát về đô thị như sau: đô thị là nơi tập trung dân cư với mật độ cao; lao động phi nông nghiệp là chủ yếu; có cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, đồng bộ hoặc tiến tới hoàn chỉnh đồng bộ; dân cư sống và làm việc theo phong cách và lối sống thành thị. Dù các khái niệm đưa ra khác nhau, hoàn cảnh phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước khác nhau nhưng đều thống nhất ở những tiêu chuẩn cơ bản sau:
+ Quy mô dân cư đô thị trên 2000 (miền núi có thể thấp hơn)
+ Cơ cấu lao động trên 60% lao động phi nông nghiệp
+ Có mật độ cư trú được xác định theo từng loại đô thị phù hợp với đặc điểm của từng vùng
+ Có đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các công trình công cộng phục vụ nhu cầu của dân cư đô thị
Gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của các đô thị là quá trình đô thị hoá. Đô thị hoá chứa đựng nhiều hiện tượng và biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau:
+ Trên quan điểm một vùng: đô thị hoá là một quá trình hình thành, phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị.
+ Trên quan điểm kinh tế quốc dân: đô thị hoá là một quá trình biến đổi về sự phân bố các yếu tố lực lượng sản xuất, bố trí dân cư những vùng không phải đô thị thành đô thị.
Tóm lại, đô thị hóa là quá trình hình thành, phát triển và mở rộng các thành phố gắn liền với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của mỗi nước. Nói đô thị hoá cũng có nghĩa là quá trình biến các khu vực nông thôn thành đô thị, biến các vùng vốn nghèo nàn lạc hậu thành những vùng có mật độ dân cư đông đúc, có các hoạt động kinh tế xã hội phong phú dồi dào, có dời sống vật chất và tinh thần cao, phong phú hơn so với các vùng lân cận. Đó cũng là quá trình xây dựng và phát triển các đô thị hoặc các khu công nghiệp mới. Qúa trình đô thị hoá cũng chính là quá trình cải biến cơ cấu kinh tế của từng khu vực theo hướng tăng dần tỷ trọng của các ngành công nghiệp, dịch vụ và giảm dần tỷ trọng của nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế của khu vực.
Đô thị hoá có những đặc điểm sau đây:
+ Đô thị hoá mang tính xã hội và lịch sử và là sự phát triển về quy mô, số lượng, nâng cao vai trò của đô thị trong khu vực và hình thành các chùm đô thị
+ Đô thị hoá nông thôn là xu hướng bền vững có tính quy luật, là quá trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố cho nông thôn. Thực chất đó là tăng trưởng đô thị theo xu hướng bền vững.
+ Đô thị hoá ngoại vi là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại của thành phố do kết quả phát triển công nghiệp và cơ sở hạ tầng tạo ra các cụm đô thị, liên đô thị góp phần đẩy nhanh đô thị hoá nông thôn.
+ Đô thị hoá giả tạo là sự phát triển thành phố do tăng quá mức dân cư đô thị và do dân cư từ các vùng khác đến đặc biệt là từ nông thôn dẫn đến tình trạng thất nghiệp, thiếu nhà ở, ô nhiễm môi trường…
+ Đô thị hoá gắn liền với chủ trương của mỗi quốc gia. Thông thường,vấn đề đô thị hoá thường được đề cập gắn liền với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá của mỗi quốc gia. Cùng với quá trình phát triển và hội nhập, các quốc gia đang phát triển thường gắn với đầu tư nước ngoài phát triển các khu công nghiệp tập trung và các khu chế xuất, hình thành các vùng kinh tế động lực, thúc đẩy nhanh hơn nữa quá trình phát triển kinh tế của đất nước đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống. Vấn đề đặt ra là để làm những việc trên đô thị phải cung cấp một quỹ đất thích ứng. Giải quyết vấn đề này có nhiều con đường khác nhau trong đó có một con đường đó là thực hiện công tác giải phóng mặt bằng mà chúng ta sẽ xem xét ở phần tiếp theo.
2.Phân tích ảnh hưởng của đô thị hoá đến vấn đề giải phóng mặt bằng
Quá trình đô thị hoá đòi hỏi phải mở rộng thích ứng quỹ đất cung cấp cho nó để xây dựng các công trình như cầu, đường, công viên, khu công nghiệp, khu đô thị mới… tức là phải phát triển đất đô thị. Phát triển đất đô thị theo nghĩa hẹp là biến đất sử dụng cho nông nghiệp, lâm nghiệp thành đất sử dụng cho công nghiệp, thương nghiệp, giao thông, văn hoá, giải trí, dân cư. Tuy nhiên, trong điều kiện diện tích đất canh tác bình quân đầu người thấp nếu nhấn mạnh việc mở rộng lượng ngoại vi đất đô thị để gia tăng cung cấp đất đô thị thì sẽ làm gay gắt hơn mâu thuẫn giữa đất sử dụng cho nông nghiệp và đất sử dụng cho phát triển đô thị. Phát triển đất đô thị theo nghĩa là sử dụng tổng hợp đất đô thị bao gồm phát triển đất đô thị của khu vực mới và cải tạo đất của khu vực cũ tức là phát triển lần thứ nhất và lần thứ hai đất đô thị.
Quá trình đô thị hoá đòi hỏi phải mở rộng thích ứng quỹ đất cung cấp cho nó. Cung cấp đất cho phát triển đô thị bao gồm hai hàm nghĩa: một là cung cấp tự nhiên, hai là cung cấp kinh tế. Cung cấp tự nhiên của đất chỉ số lượng các loại quỹ đất mà trái đất có thể cung cấp cho loài người sử dụng trong điều kịên kinh tế kỹ thuật nhất định; nó là sự cung cấp không có tính co giãn vì không chịu ảnh hưởng của bất kỳ nhân tố nhân tạo hay nhân tó xã hội nào. Cung cấp kinh tế của đất nước được thực hiện trên cơ sở cung cấp tự nhiên của nó, chỉ số lượng cung cấp đất của một loại công dụng nào đó biến đổi song song với sự biến đổi của công dụng đó. Đất cung cấp cho người sử dụng thường tồn tại nhiều loại công dụng khác nhau, giữa chúng có giá trị cạnh tranh và thay thế lẫn nhau. Khi hiệu quả của một loại công dụng nào đó nâng cao thì số lượng cung ứng của nó cũng sẽ nâng cao tương ứng. Như vạy, cung cấp kinh tế của đất có tính co giãn, nó biến đổi theo sự gia tăng nhu cầu về đất và sự nâng cao hiệu quả kinh tế của việc sự dụng đất.
Phát triển đất nước của khu vực mới, mở rộng diện tích sử dụng đất đô thị là để gia tăng cung cấp kinh tế của đât đô thị. Nội dung của nó gồm hai mặt: một là, tiến hành trưng dụng đất, chuyển phương hướng sử dụng đất từ đất nông nghiệp thành đất dùng để phát triển đô thị. Hai là, tiến hành đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật để chuyển đất nông lâm thực sự trở thành đất đô thị.
Phát triển đất của khu vực cũ là một con đường chủ yếu khác để gia tăng cung cấp kinh tế của đất đô thị. Nội dung cơ bản của nó là thông qua các hoạt động phá bỏ, di chuyển và cải tạo, nâng cấp để cải biến kết cấu sử dụng đất của các khu vực cũ nhằm nâng cao trình độ tập trung, tiết kiệm trong việc sử dụng đất đô thị.
Như vậy quá trình đô thị hoá đòi hỏi phải cung cấp một quỹ đất đủ lớn vì như chúng ta đã biết mọi công trình xây dựng khu đô thị, khu công nghiệp đều cần có đất, điều đó cho thấy tầm quan trọng của nó. Do đó để có đất mà không làm thay đổi đến cơ cấu đất (công, nông, lâm) không làm những mâu thuẫn sẵn có trở nên găy gắt hơn thì chỉ có con đường là chú trọng vào phát triển đất của khu vực cũ. Phát triển theo hướng này thì công việc đầu tiên mà chúng ta cần phải làm là phá dỡ, di chuyển tức là làm công tác giải phóng mặt bằng.
3.Đánh giá đất đai
Xét trên góc độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tổng cung về đất có thể coi là ổn định vì diện tích đất đai có hạn. Tuy nhỉên, đất được sử dụng vào nhiều mục đích khác nhau trên cơ sở đặc điểm tự nhiên và quy hoạch của Nhà nước theo luật, nên quy mô từng loại đất có sự thay đổi theo nhận thức và nhu cầu phát triển kinh tế xã hội. Khi Nhà nước mở rộng các đô thị bằng cách xây dựng các khu đô thị mới ở các vùng ngoại vi thành phố, cung về đất đô thị sẽ tăng. Trong phạm vi từng đô thị, mục đích sử dụng đất cũng thay đổi dẫn đến sự thay đổi về cung của từng loại đất.
Quá trình đô thị hoá gắn liền với nó là quá trình công nghiệp hoá. Trong quá trình công nghiệp hoá xuất hiện rất nhiều loại cầu khác nhau về đất:
+ Cầu đất đai cho công nghiệp, giao thông và các công trình công cộng. Thông thường cầu về đất đai làm địa bàn phát triển các hoạt động công nghiệp, giao thông và các công trình công cộng là cầu được xã hội hoá và đáp ứng bằng các chương trình của Chính phủ. Nó có xu hướng tăng trong quá trình đô thị hoá.
+ Cầu về đất đai cho sản xuất là tổng nhu cầu mở rộng các hoạt động sản xuất dựa váo mở rộng diện tích đất đai sử dụng. Cầu về đất đai cho sản xuất thường là cầu về đất đai cho các hoạt động sản xuất thuộc khu vực I của xã hội bao gồm: cầu của các hoạt động sản xuất dựa vào đất đai như nông lâm, ngư nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng và hầm mỏ. Thông thường, xã hội càng phát triển tức là quá trình đô thị hoá càng cao, các hoạt động sản xuất thuộc khu vực I càng giảm xuống một cách tương đối so với các khu vực khác, do vậy cầu về đất đai cho sản xuất tăng lên không đáng kể so với các khu vực khác.
Như đã trình bày ở phần trước, để cung cấp đất cho phát triển đô thị chúng ta đã xác định chủ yếu là bằng con đường phát triển đất của khu vực cũ tức là thông qua phá dỡ, di chuyển, cải tạo. Mà đặc điểm của nước ta là đất đai thuộc sở hữu toàn dân, Nhà nước giao quyền sử dụng đất cho người dân. Do đó khi Nhà nước thu hồi đất để tiến hành xây đựng phát triển đô thị phải có phương án đền bù, hỗ trợ thiệt hại về đất đai và tài sản gắn liền với đất cho người dân. Giá đền bù thiệt hại về đất chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố:
+ Vị trí của lô đất trong thành phố: khoảng cách từ lô đất đến trung tâm thành phố, đến các trung tâm dịch vụ thương mại, loại dường, tuyến dường
+ Cơ sở hạ tầng xung quanh lô đất: mức độ hoàn thiện của đường sá, điện nước, cống rãnh, trường học, bệnh viện…
+ Chức năng của lô đất theo quy hoạch của thành phố: đất ở, đất nông nghiệp…
Có nhiều phương pháp để đánh giá đất, bao gồm các phương pháp sau:
+ Phương pháp đánh giá trực tiếp: đây là phưong pháp đơn giản dựa trên cơ sở phân tích , so sánh lô đất hiện tại với những lô đất xung quanh đã được mua bán trao đổi
+ Phương pháp xác định giá đất theo khả năng sinh lời: giá thị trường của đất là tổng giá trị của các luồng thu nhập từ đất trong tương lai được hiện đại hoá
Thu nhập
G =
Lãi suất tiền gửi ngân hàng nhà
nước (%/năm) không kỳ hạn
+ Phương pháp trừ dần: là phương pháp áp dụng cho các lô đất đã xây dựng các công trình trên đó. Giá đất bằng tổng giá trị nhà và đất trừ đi các yếu tố giá trị nhà cửa, cây cối và các loại chi phí liên quan.
+ Phương pháp thay thế: là cách xác định giá đất bằng cách giả định nó như là lô đất ở nơi khác. Phương pháp này chỉ sử dụng khi không có thông tin về giá đất ở xung quanh và không xác định được luồng thu nhập mà lô đất có thể đem lai.
Trên thực tế để xác định giá đất đền bù thiệt hại khi giải phóng mặt bằng Nhà nước sử dụng phương pháp tính giá đất theo khả năng sinh lời, từ đó tính hệ số k theo công thức
Giá đất theo khả năng sinh lời
K =
Giá đất do UBND cấp tỉnh ban
hành theo khung giá do CP quy định
giá đất tính đền bù thiệt hại được xác định trên cơ sở giá đất do UBND cấp tỉnh ban hành theo quy định của chính phủ nhân với hệ số k
II. Thực trạng công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn quận
Tổ chức giải phóng mặt bằng
Trong các văn bản pháp luật Nhà nước quy định “ đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước thống nhất quản lý, khi Nhà nước thu hồi đất để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng thì mọi tổ chức, cá nhân (gọi chung là người sử dụng đất) đang sử dụng đất bị thu hồi được đền bù thiệt hại về đất và tài sản trên đất theo quy định; đồng thời phải nghiêm chỉnh chấp hành việc di chuyển theo kế hoạch đã được các cấp có thẩm quyền của Nhà nước phê duyệt”
Khi có quyết định thu hồi đất, chủ tịch UBND tỉnh thành phố trực thuộc trung uơng chỉ đạo lập Hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng. Trong trường hợp cần thiết phải sớm giải phóng mặt bằng để thực hiện dự án thì có thể thành lập Hội đồng đền bù trước khi có quyết định thu hồi đất. Hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng phát tờ khai, tuyên truyền, hướng dẫn kê khai, thu tờ khai.
Hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng có trách nhiệm giúp UBND cùng cấp thẩm định phương án đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng trình hội đồng thẩm định cấp tỉnh thẩm định. Theo đó, trong thời hạn 7 ngày kể từ khi nhận được tờ trình của UBND quận, huyện về giá đất ở và đất chuyên dùng làm căn cứ lập phương án bồi thường thịêt hại; cơ chế chính sách bồi thường, hỗ trợ; quỹ nhà ở, đất ở, giá bán nhà và nguyên tắc bố trí tái định cư cho dự án Hội đồng thẩm định và Thường trực ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng thành phố tổ chức thẩm định, trình UBND thành phố quyết định phê duyệt các nội dung:
+ Giá bồi thường thiệt hại về đất ở và đất chuyên dùng theo thời điểm thu hồi đất.
+ Quỹ nhà ở, đất ở tái định cư (nơi tái định cư) và nguyên tắc bố trí tái định cư cho các hộ gia đình
+ Giá nhà ở, đất ở bố trí tái định cư phù hợp với giá bồi thường thiệt hại
+ Chính sách hỗ trợ di chuyển khác (nếu có)
+ Quy định về thời gian và tiến độ thực hiện giải phóng mặt bằng.
Hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng cấp quận do Chủ tịch hoặc phó chủ tịch UBND quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh làm chủ tịch Hội đồng, các thành viên khác gồm:
+ Trưỏng phòng tài chính- Ủy viên thường trực hội đồng
+ Chủ tịch ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn có đất bị thu hồi- Ủy viên
+ Đại diện Mặt trận Tổ quốc quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh- Ủy viên
+ Chủ dự án (chủ sử dụng đất) – Ủy viên.
+ Đại diện những người được đền bù thiệt hại
Các thành viên khác do chủ tịch UBND quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh quyết định cho phù hợp với thực tế của mỗi công trình.
Hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng được lập cho từng công trình (dự án) và hoạt động cho đến khi thực hiện xong việc đền bù thiệt hại giải phóng cho công trình đó. Trong trường hợp đối với những dự án nhỏ, đơn giản chủ dự án có thể thoả thuận với người bị thu hồi đất về mức đền bù thiệt hại theo quy định tại nghị định 22 thì không nhất thiết phải thành lập Hội đồng giải phóng mặt bằng. Chủ đầu tư có trách nhiệm báo cáo phương án đền bù cho UBND quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh phê duyệt để thực hiện.
Chủ dự án là thành viện của Hội đồng giải phóng mặt bằng có trách nhiệm lập phương án đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng. Phương án đền bù được lập thành hai phần:
+ Phần I: xác định mức đền bù do chủ dự án sử dụng đất phải chi trả.
+ Phần II: xác định mức đền bù, trợ cấp cho từng chủ sử dụng đất bị thu hồi.
Căn cứ vào phương án đền bù do chủ tịch UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phê duyệt tổ chức, cá nhân được giao đất, thuê đất có trách nhiệm chi trả cho các đối tượng được đền bù, chi trả kinh phí đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng tại các khu tái định cư, hỗ trợ cho các chủ sử dụng đất bị thu hồi, trang trải các chi phí phục vụ trực tiếp cho việc tổ chức thực hiện đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng. Riêng với dự án đầu tư bằng ngân sách trung ương; trước khi được UBND tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương phê duyệt, chủ dự án phải báo cáo phương án đền bù với bộ Tài chính biết để tham gia ý kiến. Trường hợp UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định chế độ, mức đền bù vượt quá mức quy định thì phần đền bù vượt mức đó do ngân sách địa phương có trách nhiệm chi trả. Đối với các dự án khi thực hiện đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng chưa xác định được chủ sử dụng đất thì UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trực tiếp tổ chức thực hiện đền bù và chi trả đền bù. Toàn bộ chi phí đền bù được phân bổ cho các tổ chức, cá nhân sử dụng đất thuộc phạm vi dự án chịu và nộp vào ngân sách Nhà nước ngay sau khi có quyết định giao đất hoặc cho thuê đất.
Công tác tổ chức giải phóng mặt bằng cần được thực hiện đầy đủ và đúng thời gian về thu hồi đất, giải phóng mặt bằng theo quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Trường hợp không thực hiện đúng quy định thì Hội đồng đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng báo cáo UBND cùng cấp biết để áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc phải di chuyển để bàn giao mặt bằng. Trong thời gian các cơ quan chức năng xem xét đơn khiếu nại người bị thu hồi đất và các cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan vẫn phải thực hiện phương án giải phóng mặt bằng đã được chủ tịch UBND quận, huyện phê duyệt; thực hiện việc di chuyển và bàn giao mặt bằng đúng tiến độ.
2.Những kết quả đạt được:
Như chúng ta đã biết để tiến hành thực hiện mọi dự án xây dựng công trình, cải tạo đều cần phải có đất, có mặt bằng. Từ đó thấy được tầm quan trọng của công tác giải phóng mặt bằng, nó ảnh hưởng đến thời gian, tiến độ thực hiện của các dự án. Để các dự án, chương trình đầu tư không bị chậm trễ thì một khâu khá quan trọng là mặt bằng phải được bàn giao đúng tiến độ. Trong quá trình thực hiện công tác giải phóng mặt bằng thu hồi đất thì Hà Nội nói chung và quận Hai Bà Trưng nói riêng đã đạt được những kết quả đáng khích lệ sau:
+ Về trình tự, thủ tục giải phóng mặt bằng trên địa bàn Thủ đô nói chung và địa bàn quận Hai Bà Trưng nói riêng đã có những điều chỉnh mới cho phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ giải phóng mặt bằng trên từng địa bàn cụ thể như việc thành lập ban chỉ đạo giải phóng mặt bằng có bộ phận chuyên trách. Bên cạnh đó khi tiến hành giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án các cơ quan chức năng đều tổ chức tuyên truyền, công khai quy hoạch cho dân biết như trong quá trình thực hiện dự án xây dựng cầu vượt ở nút giao thông Vọng hội đồng giải phóng mặt bằng có công khai quy hoạch cho dân biết bằng cách mở triển lãm mô hình dự án, đặt các bản vẽ thiết kế ở nơi sẽ xây dựng công trình. Một nét mới nữa trong trình tự thủ tục giải phóng mặt bằng là việc ủy quyền cho chủ tịch UBND quận quyết định phê duyệt phương án bồi thường thiệt hại và tái định cư được thực hiện bằng các nguồn vốn khác nhau đã tạo được thế chủ động trong việc xử lý, giải quyết một số tình huống.
+ Về việc thực hiện công tác giải phóng mặt bằng, trong quá trình thực hiện quận Hai Bà Trưng luôn biết đề cao việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” biết huy động tối đa sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị kết hợp với nhiều phương thức vận động, tuyên truyền nên đã nhận được sự hợp tác đáng kể từ phía nhân dân. Chẳng hạn như dự án xây dựng nhà tình nghĩa cho các gia đình chính sách (thương binh, lịêt sĩ) trên địa bàn phường Tương Mai do quận Hai Bà Trưng cấp đã dược xây dựng, thực hiện đúng tiến độ một phần là nhờ công tác tuyên truyền, giải thích cho dân bằng cách niêm yết thông báo việc thực hiện dự án, thông báo giá đền bù, cung cấp địa chỉ nơi người dân được giải đáp mọi thắc mắc. Bên cạnh việc tuyên truyền, vận động thì những việc làm cụ thể như xác định giá đền bù, lập phương án tái định cư cho người dân ổn định cuộc sống cũng đóng một vai trò quyết định. Việc đưa ra được một mức giá đền bù thoả đáng cùng với những khoản hỗ trợ cần thì sẽ nhận được sự hợp tác từ những người bị thu hồi đất như trong dự án khu đô thị đền Lừ II đã có 184 hộ dân chấp nhận bàn giao mặt bằng với mức đền bù hỗ trợ đã được phê duyệt. Một kết quả nữa là quận tiến hành xây dựng khu nhà cao tầng phục vụ di dân giải phóng mặt bằng khu đô thị đền Lừ II đáp ứng nhu cầu cung cấp nhà tái định cư.
Tóm lại kết quả của công tác giải phóng mặt bằng trên địa bàn quận Hai Bà Trưng là mặt bằng của nhiều công trình, dự án được bàn giao kịp thời đúng tiến độ để trên địa bàn quận có nhiều con đường mới, nhà thi đấu, khu đô thị… đã, đang và sẽ được xây dựng, đưa vào hoạt động góp phần làm thay đổi bộ mặt quận, làm động lực thúc đẩy phát triển kinh tế nâng cao đời sống tinh thần cho người dân sống trên địa bàn quận.
3.Những tồn tại :
Bên cạnh những kết quả, những mặt tích cực đã đạt được trên địa bàn quận Hai Bà Trưng vẫn còn những tồn tại, vướng mắc cần giải quyết, khắc phục
Trước hết cần đề cập đến đó là vấn đề cung cấp thông tin đến cho người dân. Từ ngày xưa, các vị vua chúa ( Hồ Quý Ly, Lê Lợi…) cũng đã nhận thấy rằng có sự ủng hộ, hợp tác của nhân dân thì sẽ giành được thắng lợi. Điều đó cho thấy vai trò rất quan trọng của người dân. Như vậy để có được sự ủng hộ hợp tác của người dân về một vấn đề nào đó thì phải cung cấp cho họ đầy đủ, chính xác, kịp thời về vấn đề đó. Cụ thể trên địa bàn quận Hai Bà Trưng vẫn có những dự án bị chậm tiến độ do việc bàn giao mặt bằng chậm như dự án xây dựng đường vào nhà thi đấu thể thao Hai Bà Trưng (phường Tương Mai). Theo đúng tiến độ thì đến cuối tháng 7 năm 2003 phải bàn giao xong mặt bằng để làm đường phục vụ Sea Game 22 nhưng đến cuối tháng 8 năm 2003 mới bàn giao xong. Lý do của sự chậm trễ này là những hộ dân trong diện giải tỏa đã không nhận được thông tin đầy đủ về dự án như phương án đền bù, mức đền bù là bao nhiêu, tái định cư ở đâu nên dẫn đến sự chây ỳ không chịu bàn giao mặt bằng cho ban quản lý dự án.
Bên cạnh vấn đề cung cấp đầy đủ thông tin cho người dân vấn đề có phương án tái định cư sau khi giải phóng mặt bằng hay không cũng ảnh hưởng đến tiến độ bàn giao mặt bằng. Do quận Hai Bà Trưng là một quận nội thành nên khi giải phóng mặt bằng thực hiện các dự án chủ yếu sẽ lấy vào đất thổ cư, dẫn đến các dự án mà không có phương án tái định cư thương bị chậm tiến độ bàn giao mặt bằng hoặc để thu hồi mặt bằng các lực lượng chức năng phải tiến hành cưỡng chế ví dụ như trong công tác giải phóng mặt bằng cho khu đô thị đền Lừ II (phường Hoàng Văn Thụ) có 218 hộ dân nằm trong diện giải toả trong đó có 9 hộ dân thuộc 3 cụm gia đình có diện tích thu hồi lớn là đất thổ cư nên họ không nhận tiền đền bù, hỗ trợ và bàn giao mặt bằng dẫn đến hội đồng giải phóng mặt bằng quận phải trình thành phố bổ sung phương án tái định cư cho 9 hộ dân này.
Một đặc điểm nổi bật ở các đô thị của Việt Nam là hoạt động sản xuất kinh doanh đan xen với hoạt động sống do đó vấn đề đặt ra là khi bị thu hồi đất người dân không chịu mất đi nơi ở, nơi cư trú mà họ còn bị mất việc làm, mất thu nhập. Điều này dẫn đến những phản ứng rất mạnh mẽ của người dân như dự án cải tạo, xây dựng nút giao thông Vọng để lấy mặt bằng đã khiến nhiều hộ nằm trong diện giải phóng mặt bằng bị mất đi nguồn thu nhập chính của mình.
Vấn đề giá đền bù, mức đền bù thiệt hại giải phóng mặt bằng cũng ảnh hưởng đến tiến độ bàn giao mặt bằng. Người dân sẵn sàng hợp tác với cơ quan chức năng khi họ nhận được những thông tin về bảng giá đất và bảng giá đền bù vật, kiến trúc, cây cối. Sự phức tạp còn do một số nội dung và cách thức tính toán quá rắc rối về giá đền bù nhất là giá đất so với cách hiểu đơn giản của người dân. Điều 8 của nghị định 22 quy định “giá đất để tính đền bù thiệt hại được xác định trên cơ sở giá đất của địa phương ban hành theo quy định của CP nhân với hệ số k, để đảm bảo giá đất tính đền bù phù hợp với khả năng sinh lợi và giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở địa phương). Như vậy giá đất để tính bồi thường về thực chất là giá thực tế chuyển nhượng ở địa phương. Nhưng hệ số k theo hướng dẫn của thông tư 145 (bộ Tài chính) do địa phương quy định không thống nhất nên giá đất ở những vùng giáp ranh chênh lệch có khi rất lớn dẫn đến so bì ách tắc không thông suốt. Đồng thời việc xác định giá đền bù còn phụ thuộc vào loại đường phố, vị trí khu đất, cơ sở hạ tầng xung quanh nó nên giữa các mức giá đền bù có một sự chênh lệch ví dụ như trong dự án thoát nước Hà Nội giai đoạn 1 tại quận Hai Bà Trưng giá đất làm căn cứ tính tiền bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất tại một số phường như sau:
- Tại phường Giáp Bát:
+ mặt tiền Nguyễn An Ninh giá 9,6 tr/m2
+ mặt tiền Giải Phóng giá 14,8 tr/m2
+ mặt tiền ngõ bê tông giá 6,6 tr/m2
+ mặt tiền Trương Định giá 9,6 tr/m2
Tại phường Tân Mai:
+ mặt tiền Trương Định giá 11,84 tr/m2
+ ở lớp 2 của vị trí này giá 7,1 tr/m2
+ở vị trí 2 thuộc mặt tiền ngõ thảm bê tông củaTrương Định giá 7,1 tr/m2
+ ở lớp 2 của vị trí này giá 5,68 tr/m2
+ ở lớp 3 của vị trí này giá 4,74 tr/m2
Tại phường Lê Đại Hành:
+ Mặt tiền Đại Cồ Việt giá 22,08 tr/m2
+ Những vị trí còn lại giá 8,4 tr/m2
Do đó khi đưa ra bảng giá cần có sự giải thích rõ ràng cho người dân hiểu tránh sự khiếu nại phản đối không đáng có.
III. Một số kiến nghị nhằm tăng cường chất lượng công tác giải phóng mặt bằng
Căn cứ vào những văn bản: NĐ 22/98 ngày 24/4/1998, thông tư 145/98 ngày 4/11/1998, quyết định 100/03 ngày 21/8/2003 cùng thực tế diễn ra trên địa bàn quận hiện nay em xin đưa ra một số kiến nghị:
1. Về công tác tư tưởng
Xuất phát từ thực tế nước ta là nước XHCN luôn đề cao việc thực hiện quy chế dân chủ với phương châm dân biết, dân bàn nên em có kiến nghị phải công bố quy hoạch công khai, rộng rãi cho dân biết, bên cạnh đó phải kết hợp với công tác tư tưởng. Thực tế em nhận thấy ở nơi nào quan tâm, coi trọng và đánh giá đúng mức vai trò của công tác tư tưởng, tuyên truyền vận động thì nơi đó tiến độ giải phóng mặt bằng được đẩy nhanh hơn. Trong tuyên truyền giải phóng mặt bằng có thể sử dụng nhiều hình thức như tuyên truyền lưu động, tuyên truyền miệng thông qua hệ thống loa truyền thanh ở phường và các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức họp với chi b
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những kinh nghiệm Giải phóng mặt bằng trên địa bàn quận Hai Bà Trưng.doc