Tiểu luận Những mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Trong hoạt động kinh tế, lợi ích là mục tiêu hàng đầu, vì vậy để thực hiện tăng trưởng kinh tế cần phải coi trọng mọi lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể vầ lợi ích xã hội. Trong nền KTTT, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chẳng những không bị mất đi mà còn có những diễn biến phức tạp hơn. Trước hết là phải nói đến ưu điểm của nền KTTT, nó tạo điều kiện cho mọi cá nhân phát huy năng lực, trí tuệ, thị trường được tạo ra là một thị trường tự do, tự do giao dịch. KTTT có sự quản lý của nhà nước, một mặt nó đảm bảo tính ổn định của thị trường, mặt khác nó lại tạo điều kiện tốt cho hoạt động tham nhũng, buôn lậu. của một số người lạm dụng chức trách của mình. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nếu không được giải quyết đúng đắn sẽ biểu hiện thành những hiện tượng bất công bằng xã hội. Trong mối quan hệ này, nếu lợi ích cá nhân bị vi phạm thì xã hội sẽ mất đi một động lực to lớn của sự phát triển xã hội. Còn ngược lại, nếu các nhân có lợi, nhưng lợi ích xã hội bị vi phạm, thì nạn nhân của sự bất công lại là cộng đồng xã hội.

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4458 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iển không thể thiếu trong nền kinh tế Trên con đường đi lên chủ ngihĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục đích của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn liền với xây dựng quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lý và phân phối. Chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Đó chính là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. III/ Những mâu thuẫn trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Sau đại hội Đảng lần thứ IV, đất nước ta bắt đầu tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, và cho đến nay, sau 15 năm thực hiện đã thực sự đem lại kết quả to lớn trong mọi mặt của đời sống xã hội: đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế – xã hội, tổng sản phẩm trong nước tăng gấp ba, từ tình trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay sản xuất đã đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của nhân dân, kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội tăng nhanh. Trong GDP, tỷ trọng nông nghiệp từ 38,7% giảm xuống 24,3%, công nghiệp và xây dựng từ 22,7% tăng lên 36,6%, dịch vụ từ 38,6% tăng lên 39,1%....Bên cạnh những kết quả mà ta đạt được, là những khó khăn trong khi xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước hết phải nói đến điểm xuất phát của ta khi chuyển dịch cơ chế, từ nền kinh tế yếu kém, mang đậm tính tự cung, tự cấp sang nền kinh tế hàng hoá vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi phải có sự tích luỹ dồi dào, khoa học công nghệ phát triển và một nền kinh tế vững mạnh ...Tiếp theo đó là cơ chế quản lý của nhà nước, mặc dù đường lối của Đảng đặt ra là đúng đắn, nhưng việc thực hiện nó không đồng bộ. Y thức hệ còn chưa được rõ ràng, tác phong cá nhân yếu kém... Chính những khó khăn trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường, đã nảy sinh nhiều mâu thuẫn kìm hãm bước phát triển. 1. Mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là mâu thuẫn cơ bản trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, thì vấn đề lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là một vấn đề hết sức phức tạp. xét trên phương diện triết học, thì lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là ý thức, lực lượng sản xuất là yếu tố động, luôn luôn thay đổi, và là yếu tố quyết định quan hệ sản xuất. Khi lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định thì quan hệ sản xuất lúc này tỏ ra không còn phù hợp nữa và trở thành yếu tố kìm hãm. Để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển thì cần thay đổi quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, nó là thước đo để đánh giá sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Ơ Việt Nam, mặc dù nhà nước đã có rất nhiều chính sách để cân đối sao cho LLSX – QHSX phát triển song song đồng bộ. Nhưng thực tế cho thấy, khi bắt tay vào xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường thì LLSX luôn tỏ ra mâu thuẫn với QHSX. Tính cạnh tranh và năng động là một trong những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường, thì ngược lại chúng ta lại chậm tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế, chính sách để tạo động lực và điều kiện cho doanh nghiệp nhà nước nâng cao hiệu quả hoạt động, phát huy vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Việc thí điểm cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước còn làm chậm. Chưa quan tâm tổng kết thực tiễn, kịp thời chỉ ra phương hướng, biện pháp đổi mới kinh tế hợp tác, để hợp tác xã nhiều nơi tan rã hoặc chỉ còn là hình thức, cản trở sản xuất phát triển, chưa kịp thời đúc kết kinh nghiêm, giúp đỡ các hình thức kinh tế hợp tác mới phát triển. Chưa giải quyết tốt một số chính sách để khuyến khích kinh tế tư nhân phát huy tiềm năng, đồng thời chưa quản lý tốt thành phần kimh tế này. Quản lý kinh tế hợp tác liên doanh với nước ngoài còn nhiều sơ hở. Kinh tế vĩ mô còn những yếu tố thiếu vững chắc. Công tác tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch hoá, qui hoạch xây dựng, quản lý đất đai còn yếu kém, thủ tục đổi mới hành chính chậm. Thương nghiệp nhà nước bỏ trống một số trận địa quan trọng, chưa phát huy tốt vai trò chủ đạo trên thị trường. Quản lý xuất nhập khẩu còn nhiều sơ hở, tiêu cực, một số trường hợp gây ra tác động xấu với sản xuất. Chế độ phân phối thu nhập còn bất hợp lý, bội chi ngân sách và nhập siêu còn lớn ... Đó là một số hạn chế của QHSX kìm hãm LLSX phát triển và điều đó làm cho quá trình xây dựng đất nước của ta gặp nhiều khó khăn. Một trong những vấn đề bức xúc đối với chúng ta hiện nay đó là việc làm, tình trạng thất nghiệp là một biểu hiện rõ ràng để chứng tỏ được rằng giữa LLSX – QHSX có sự mất cân đối. Khi QHSX phù hợp, nó không những giải phóng được sức sản xuất mà còn tạo tiền đề để thúc đẩy bước phát triển của LLSX. Vì vậy vấn đề đặt ra cần đặt ra là làm thế nào để giải quyết được mâu thuẫn này? Cần đổi mới và hoàn thiện khung pháp lý, tháo gỡ mọi trở ngại về cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính để huy động tối đa mọi nguồn lực, tạo sức bật mới cho phát triển sản xuất, kinh doanh của mọi thành phần kinh tế với các hình thức sở hữu khác nhau. Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh theo hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh theo các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển mạnh các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từng bước hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh. Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thức hiện tốt vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Phát triển doanh nghiệp nhà nước trong những sản xuất và dịch vụ quan trọng: Xây dựng các tổng công ty nhà nước đủ mạnh để làm nòng cốt trong những tập đoàn kinh tế lớn, có năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế Đổi mới cơ chế quản lý, phân biệt quyền của chủ sở hữu và quyền kinh doanh của doanh nghiệp. Chuyển các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hưũ hạn hoặc công ty cổ phần. Bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm đầy đủ trong sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật,xoá bỏ bao cấp của nhà nước đối với doanh nghiệp. Thực hiện chủ trương cổ phần hoá những doanh nghiệp mà nhà nước không nắm giữ 100% vốn để huy động thêm vốn, tạo động lực và cơ chế quản lý năng động thúc đẩy doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Phát triển kinh tế tập thể với các hình thức hợp tác đa dạng, phát triển hợp tác xã kinh doanh tổng hợp đa ngành hoặc chuyên ngànhđể sản xuất kinh doanh, dịch vụ, tạo điều kiện mở rộng qui mô sản xuất, kinh doanh phù hợp với nền kinh tế thị trường Hình thành đồng bộ và tiếp tục phát triển, hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với việc xây dựng khuôn khổ pháp lý thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả. có trật tự, kỉ cương trong môi trường cạnh tranh lạnh mạnh, công khai minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc quyền kinh doanh. Phát triển thị trường vốn và tiền tệ, tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị trường chứng khoán, thị trường bảo hiểm, Hình thành và phát triển thị trường bất động sản, thị trường lao động. Tạo điều kiện công ăn việc làm cho người dân, từ đó nâng cao đời sống xã hội. Và điều cuối cùng là việc đổi mới chế độ sở hữu, đó là mấu chốt quan trọng nhất trong việc cân bằng mối quan hệ giữa LLSX và QHSX. . Hiện nay ở nước ta, một số hình thức sở hữu đã được hình thành, một số hình thức khác đang được khôi phục hoặc mới bắt đầu hình thành. Chế độ nhiều hình thức sở hữu trong nền kinh tế là hoàn toàn có cơ sở khách quan. Đó là những thay đổi diễn ra trong suốt quá trình phát triển kinh tế. Trình độ phát triển LLSX và xã hội hoá sản xuất trong các khu vực kinh tế quốc dân không giống nhau. Có những khoảng cách đáng kể trong phát triển kỹ thuật ở các xí nghiệp, các ngành, các vùng khác nhau. Chính vì vậy mà cần điều chỉnh lại cơ cấu QHSH. Trong việc đổi mới các quan hệ sở hữu, xác lập nhiều hình thức sở hữu, cần phải xem xét, đánh giá đúng, tăng cường vai trò chủ đạo của các hình thức sở hữu nhà nước, bằng cách cải tổ khu vực này: những xí nghiệp nào cần được duy trì, những xí nghiệp nào cần được giải thể và việc giải thể đó ra sao, là những vấn đề hết sức phức tạp. Chính vì thế trong quá trình phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa càng đòi hỏi phải có sự điều hành hợp lý của Nhà nước. 2. Cơ chế thị trường và những mâu thuẫn xunh quanh nó Thị trường là điều kiện tồn tại của nền sản xuất hàng hoá, do vậy kinh tế hàng hoá càng phát triển thì thị trường càng được mở rộng, ngược lại, thị trường càng được mở rộng thì càng thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển, đó là mối quan hệ biện chứng gắn bó hữu cơ với nhau. Và xunh quanh mối quan hệ biện chứng đó là những mâu thuẫn khách quan, tồn tại trong cơ chế thị trường. Các bộ phận hợp thành cơ ché thị trường là : Giá cả thị trường: là thứ giá cả hình thành trên thị trường bởi sự tác động của các lực thị trường. Trên mỗi thị trường, mỗi hàng hoá, dịch vụ đều có một giá nhất định và toàn bộ những giá cả đó tạo thành hệ thống giá cả thị trường Cầu hàng hoá: là số lượng hàng hoá mà người mua mong muốn mua và có khả năng mua theo mức giá nhất định. Như vậy, để có cầu hàng hoá phải có ba điều kiện: mong muốn mua, có khẳ năng mua và mức giá. Cung hàng hoá: là số lượng mà người sản xuất hàng hoá mong muốn sản xuất và có khả năng bán trên thị trường với giá nhất định. Để có cung hàng hoá cũng phải có ba điều kiện: mong nuốn sản xuất, có khả năng sản xuất và mức giá. Khi cung hàng hóa nào đó trên thị trường vừa bằng cầu về hàng hoá đó, thì mức giá cả là bình quân. Cạnh tranh trên thị trường: cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá với nhau theo ba hướng; giá cả, chất lượng và dịch vụ tương ứng. Cạnh trang giữa những người mua với nhau. cạnh tranh giữa một bên là người bán và một bên là người mua. Trên thị trường không bao giừo có chuyện “đơn phương độc mã” mà là “buôn có bạn, bán có phường”. Bốn bộ phận hợp thành cơ chế thị trường kể trên có quan hệ mật thiết với nhau, như là những khâu trong một guồng máy. Giá cả là cái nhân của thị trường, cung – cầu là trung tâm và cạnh tranh là linh hồn, là sức sống của thị trường. Trong nền KTTT, tồn tại một số loại thị trường sau đây: Thị trường độc quyền đơn phương; là loại thị trường chỉ có một người, nói đúng hơn là một chủ thể bán ( người sản xuất duy nhất ) không có sản phẩm nào khác có thể thay thế. Đó là hình thái thị trường độc quyền của một chủ thể duy nhất bán hàng hay còn gọi là độc quyền tự nhiên. Ơ các nước trên thế giới cũng như nước ta, hình thái thị trường này chỉ tồn tại trong một số ngành sản xuất nhất định như : điện nước, bưu điện, hàng không ... Trong hình thái thị trường này, nhu cầu về sản phẩm ít co dãn, nên người bán có thể kiểm soát hoàn toàn khối lượng hàng hoá, dịch vụ bán trên thị trường và tự quyết định giá cả. Để bảo vệ lợi ích của người tiêu dùng, Nhà nước phải tham gia quản lý vĩ mô đối với loại thị trường này bằng những biện pháp chống độc quyền như : thuế, kiểm soát giá cả, kiểm soát tồn kho hàng hoá, quy định luật lệ cấm liên kết để hình thành độc quyền, bảo vệ tự do cạnh tranh. Thị trường độc quyền đa phương: là loại thị trường, trong đó số người bán vừa đủ để cho những hoạt động của một người có ảnh hưởng đến lượng cung và giá cả của những doanh nghiệp khác ( ví dụ : sản phẩm xi măng, sắt thép ...). Do tên thị trường độc quyền đa phương còn có cạnh tranh, nên giá cả cũng luôn biến đổi Thị trường cạnh tranh độc quyền: là thị trường, trong đó, có nhiều người bán hàng cùng một sản phẩm, nhưng sản phẩm của mỗi người có ít nhiều khác nhau về chất lượng, mẫu mã và giá cả ( ví dụ thị trường sản phẩm ngành dệt, thị trường sản phẩm ngành giày dép...). Thực tế trong nền KTTT, thì cạnh tranh mang tính mâu thuẫn, nó vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, vừa là yếu tố kìm hãm, sự phá sản, tình trạng thất nghiệp, sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng và các bộ phận dân cư, và nhất là không thể tránh khỏi những tệ nạn xã hội do mặt trái của KTTT gây ra. Thực tế cho thấy, sản phẩm hàng ngoại tràn lan trên thị trường Việt nam, lấn áp hoàn toàn hàng hoá trong nước. Nguyên nhân chủ yếu, đó là do sức cạnh tranh của nước ta còn yếu, tâm lý người dân muốn dùng hàng ngoại. Mặc dù hàng ngoại bán trên thị trường có thể đắt hơn so với giá trị thực của nó, song những người mua hàng luôn có suy nghĩ rằng giữa hàng ngoại và hàng trong nước luôn có sự khác nhau cả về chất lượng lẫn mẫu mã của sản phẩm. Một số doanh nghiệp nhà nước bị phá sản, phải đóng cửa vì không đủ sức để có thể cạnh tranh được trên thị trường. Hàng hoá trong nước không được ưa chuộng, do mẫu mã cũng như chất lượng sản phẩm không thể cạnh tranh được với hàng ngoại được sản xuất với dây truyền công nghệ hiện đại. 3. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể, lợi ích xã hội Trong hoạt động kinh tế, lợi ích là mục tiêu hàng đầu, vì vậy để thực hiện tăng trưởng kinh tế cần phải coi trọng mọi lợi ích: lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể vầ lợi ích xã hội. Trong nền KTTT, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội chẳng những không bị mất đi mà còn có những diễn biến phức tạp hơn. Trước hết là phải nói đến ưu điểm của nền KTTT, nó tạo điều kiện cho mọi cá nhân phát huy năng lực, trí tuệ, thị trường được tạo ra là một thị trường tự do, tự do giao dịch... KTTT có sự quản lý của nhà nước, một mặt nó đảm bảo tính ổn định của thị trường, mặt khác nó lại tạo điều kiện tốt cho hoạt động tham nhũng, buôn lậu... của một số người lạm dụng chức trách của mình. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nếu không được giải quyết đúng đắn sẽ biểu hiện thành những hiện tượng bất công bằng xã hội. Trong mối quan hệ này, nếu lợi ích cá nhân bị vi phạm thì xã hội sẽ mất đi một động lực to lớn của sự phát triển xã hội. Còn ngược lại, nếu các nhân có lợi, nhưng lợi ích xã hội bị vi phạm, thì nạn nhân của sự bất công lại là cộng đồng xã hội. Ví dụ: Vì lợi ích cá nhân mà trong hoạt động sản xuất kinh doanh, người ta có thể phá hoại môi trường sống, có thể làm những việc phi pháp, phi đạo đức, phi nhân tính, để có lợi cho bản thân, làm thất thoát tài sản của nhà nước... Trong trường hợp này hậu quả do cá nhân đó tạo ra làm ảnh hưởng đến cộng đồng xã hội. Chúng ta cần biệt lợi ích chính đáng với lợi ích ích kỉ cá nhân. Lợi ích chính đánh của cá nhân là động lực phát triển của xã hội, là cái mà xã hội phải tôn trọng và phát huy, còn lợi ích ích kỉ của cá nhân là nguồn gốc của chủ nghĩa cá nhân, là nguyên nhân dân đến sự thoái hoá, biến chất, trộm cắp, tham nhũng của một số cá nhân trong bộ máy của nhà nước. Nếu xã hội không có những biện pháp tích cực và có hiệu quả thì những tệ nạn này chẳng những không giảm đi, mà trái lại càng gia tăng, vì cùng với sự phát triển kinh tế, của cải xã hội, phúc lợi tập thể sẽ tăng lên và những thứ này lại được giao cho cá nhân trực tiếp quản lý. Thực tế cho thấy rằng ở Việt Nam, trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên là rất nghiêm trọng. Sở dĩ có tình trạng trên là do nguyên nhân chủ quan trong quá trình thực hiện đường lối của Đảng: Việc tổ chức thực hiện nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng chưa tốt, kỉ luật, kỉ cương chưa nghiêm. Tình trạng tuỳ tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỉ luật và tinh thần trách nhiệm, không chấp hành chỉ thị, nghị qyuết của Đảng, pháp luật, chính sách của nhà nước, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, làm cho đường lối của Đảng khó đi vào cuộc sống. Công tác chỉ đạo, điều hành ở các cấp, các ngành còn bất cập, thiếu kiểm tra, đôn đốc và chưa có sự phối hợp chặt chẽ, hiệu lực và hiệu quả chưa cao. Nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm pháp luật và Điều lệ của Đảng còn chưa được xử lý thật kiên quyết. Một số quan điểm, chủ trương chưa rõ, chưa có sự nhận thức thống nhất và chưa được thông suốt ở các cấp, các ngành. Cải cách hành chínhtiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Tổ chức bộ máy nhà nước còn công kềnh, trùng lặp chức năng với nhiều tầng nấc trung gian và những thủ tục hành chính phiền hà, không ít trường hợp trên và dưới, trung ương và địa phương hành động không thống nhất, gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế xã hội và là giảm động lực phát triển. Một số người và cơ quan do lợi ích cá nhân, cục bộ không muốn đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tổ chức bộ máy nhà nước... Trên đây là những tiêu cực của một số cá nhân có chức quyền và lạm dụng nó để tiến hành mưu lợi riêng cho mình, gây tổn thất nặng nề cho nền kinh tế quốc dân. Còn đối với các chủ thể sản xuất kinh doanh bất chấp pháp luật để chạy theo lợi nhuận. Hiện tượng làm hàng giả, hàng lậu vẫn tiếp tục phát triển làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Như vậy, chính mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội nảy sinh trong nền kinh tế thị trường, càng cho thấy rõ được tầm quan trọng trong vai trò quản lý của nhà nước đối với việc phát triển kinh tế. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những tiêu cực trong xã hội đó là sự quản lý yếu kém, không đồng bộ của nhà nước. Chính vì vậy mà trong nghị quyết trung ương Đảng lần thứ IX, chủ trương chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý chí và hành động trong toàn Đảng, lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh. Cần nhận thức rằng: “Đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp đổi mới”. 4. Mâu thuẫn giữa kinh tế thị trường và mục tiêu xây dựng con người xã hội chủ nghĩa Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người XHCN. Yêu tố con người giữ vai trò cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, bởi con người là chủ thể của mọi sáng tạo, của mọi nguồn của cải vật chất và văn hoá. Con người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phung phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức là động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội mới, là mục tiêu của CNXH. Chúng ta phải bắt đầu từ con người làm điểm xuất phát”. Kinh tế thị trường là một loại hình kinh tế mà trong đó các mối quan hệ kinh tế giữa con người với con người được biểu hiện thông qua thị trượng, tức là thông qua việc mua bán, trao đổi hàng hoá tiền tệ trên thị trường. Trong kinh tế thị trường, các quan hệ hàng hoá tiền tệ phát triển, mở rộng, bao quát trên mọi lĩnh vực, có ý nghĩa phổ biến đối với người sản xuất và người tiêu dùng. KTTT phản ánh đầy đủ trình độ văn minh và phát triển xã hội, là nhân tố phát triển sức sản xuất, tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy xã hôi tiến lên. tuy nhiên KTTT cũng có những khuyết tật như: sự cạnh tranh lạnh lùng, tính tự phát mù quáng dẫn đến phá sản, thất nghiệp, khủng hoảng chu kỳ... Xuất phát từ sự phân tích trên dây, chúng ta đã thấy rằng đổi mới ở nước ta hiện nay, không thể xây dựng con người nếu thiếu yếu tố KTTT. Do hậu quả của nhiều năm chiến tranh, nền kinh tế kém phát triển, mô hình kinh tế không phù hợp, nước ta đã bị tụt hậu nghiêm trọng so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong bối cảnh đó, KTTT là điều kiện rất quan trọng đưa nền kinh tế nước ta ra khỏi khủng hoảng và đi vào phục hồi, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng, bắt kịp bước tiến của thời đại. Trong những năm qua, KTTT ở nước ta đã được nhân dân hưởng ứng rộng rãi và đi vào cuộc sống rất nhanh chóng, làm cho nền kinh tế sôi động hơn,. Đây là kết quả đáng mừng và cần được phát huy, nó thể hiện sự vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của xã hội. Quá trình biện chứng đi lên CNXH từ khách quan đang trở thành nhận thức chủ quan trên qui mô toàn xã hội. Bên cạnh đó, có một khía cạnh khác cũng cần được đề cập đến: KTTT ở nước ta hiện nay khônng chỉ tạo điều kiện vật chất để xây dựng và phát huy nguồn lực của con người mà còn tạo ra môi trường thích hợp cho con người phát triển toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần. KTTT tạo ra sự cạnh trnah và chạy đua quyết liệt. Điều đó buộc con người phải năng động sáng tạo, linh hoạt, có tác phong nhanh... Từ đó nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của con người. Tuy nhiên, cần phải thấy rõ rằng không phải cứ xây dựng được KTTT là những phẩm chất tốt đẹp đó tự hình thành trong con người. Có những lúc KTTT không những không làm cho con người ta năng động hơn, tốt đẹp hơn mà ngược lại, còn làm tha hoá bản chất con người, biến con người thành kẻ sùng bái đồng tiền hoặc kẻ đạo đức giả chỉ biết tôn trọng sức mạnh và lơị ích cá nhân, sẵn sàng trà đạp lên nhân phẩm, đạo đức ... Bên cạnh những tác động tích cực, KTTT còn có nhiều khuyết tật, gây ra những tác động xấu. Quan hệ hàng hoá, tiền tệ làm sôi động thị trường, nhưng cũng làm sói mòn nhân cách và phẩm chất con người. Ngoài ra đi kèm với nền kinh tế thị trường là hàng loạt các tệ nạn xã hội: cờ bạc, rượu chè, ma tuý, buôn lậu, hối lộ, tham nhũng... đó là những vấn đề nổi cộm nhất trong nền KTTT mà không rễ ràng khắc phục. Những phân tích trên đây cho thấy, KTTT là mục tiêu con người XHCN, là một mâu thuẫn biện chứng trong thực tiễn nước ta hiện nay. Đây thực chất là hai mặt đối lập của mâu thuẫn xã hội. Giữa KTTT và quá trình xây dựng con người vừa có sự thống nhất, vừa có sự đấu tranh. KTTT vừa tạo ra những điều kiện để xây dựng và phát huy con người, vừa tạo ra những độc tố để huỷ hoại con người. Việc giải quyết mâu thuẫn này là một việc không hề đơn giản. Đối với nước ta, mâu thuẫn giữa KTTT và quá trình xây dựng con người được giải quyết bằng vai trò lãnh đạo của Đảng, bằng sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đảng ta xác định “ sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây XHCN và cả khi CNXH được xây dựng” . Như vậy Đảng vạch rõ sự thống nhất giữa KTTT và mục tiêu xây dựng con người của CNXH. Việc áp dụng cơ chế thị trường đòi hỏi phải nâng cao năng lực quản lý tầm vĩ mô của Nhà nước, đồng thời xác nhận đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Thực hiện tốt vấn đề này sẽ phát huy được những tác động tích cực to lớn, cũng như ngăn ngừa hạn chế khắc phục những tiêu cực, khiếm khuyết của nền KTTT. Các hoạt động sản xuất kinh doanh phải hướng vào phục vụ công cuộc xây dựng nguồn lực con người. Cần phải tiến hành các hoạt động văn hoá, giáo dục nhằm loại bỏ tâm lý sùng bái đồng tiền, bất chấp đạo lý, coi thường các giá trị nhân văn, phải ra sức phát huy các giá trị tinh thần nhân đạo, thẩm mỹ, các di sản văn hoá nghệ thuật của dân tộc. Đây chính là công cụ, phương tiện quan trọng để tác động góp phần giải quyết những mâu thuẫn nêu trên. 5. Thực trạng và những mâu thuẫn nảy sinh giữa các thành phần kinh tế ở nước ta a) Thực trạng các thành phần kinh tế của nứơc ta hiện nay. Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Đảng, một mặt tạo điều kiện cho QHSX phát triển, giải phóng sức sản xuất, tạo công ăn việc làm cho nhân dân, mặt khác, nó tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy quá trình công ngiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Sau đây là năm thành phần kinh tế cơ bản mà Nhà nước chủ trương phát triển: Kinh tế tư bản Nhà nước: Hiện nay việc nhận thức thành phần kinh tế còn rất hạn hẹp và rất đơn giản, mặc dù nó chiếm một vị trí rất quan trọng trong cơ cấu kinh tế của nước ta. Thành phần kinh tế này rất phát triển, nó bao gồm các loại hình doanh nghiệp thuộc hình thức sở hữu hỗn hợp. Sau đổi mới cơ cấu thành phần kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế, đã có một số chuyển biến bước đầu, một số xí nghiệp đã vượt qua được khó khăn tạo nên thế ổn định, bắt đầu phục hồi và đi lên. Song những nhân tố đó chưa nhiều và những chuyển biến đó chưa có cơ sở vững chắc và lâu dài. Kinh tế tập thể: dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Đây là thành phần kinh tế tuy trình độ xã hội hoá tư liệu sản xuất, tổ chức và quản lý sản xuất còn thấp hơn kinh tế quốc dân, nhưng sản xuất với lượng hàng hoá cung ứngcho sản xuất và tiêu dùng đời sống xã hội. Trước biến động có tính bước ngoặt của nền kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường, kinhtế tập thể phát triển với nhiều hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học cônng nghệ, nắm bắt thông tin mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã, giải quyết nợ tồn đọng. Khuyến

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNhững mâu thuẫn biện chứng trong nền KTTT theo định hướng XHCN ở VN.DOC
Tài liệu liên quan