Xu hướng tư bản chủ nghĩa xuất hiện chủ yếu trong các thành phần kinh tế dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Mặt khác, mục tiêu lâu dài của cách mạng xã hội chủ nghĩa là xoá bỏ bóc lột, tạo điều kiện cho con người được tự do, dân chủ, phát triển toàn diện. Từ đó đã nảy sinh mâu thuẫn giữa người lao động và người bóc lột lao động, mâu thuẫn giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Qúa trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng nên các công ty, tập đoàn tư bản xuất hiện ở nước ta ngày càng nhiều. Họ đầu tư với số lượng vốn lớn, công nghệ hiện đại, kèm theo đó là kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh tế, mở rộng thị trường ngoài nước, giải quyết việc làm trong nước, và do đó góp phần khai thác và sử dụng có hiệu qủa hơn các tiềm năng kinh tế ở nước ta. Mặc dù còn tồn tại sự bóc lột lao động do lợi ích của người thuê mướn lao động nhưng cùng với sự trưởng thành của chủ nghĩa xã hội, các thành phần kinh tế có thuê mướn lao động sẽ giảm dần mức độ bóc lột của nó. Tất nhiên điều này chỉ có thể thực hiện được trong điều kiện có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, sự chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, sự lớn mạnh của kinh tế hợp tác.Do đó, lợi ích của người lao động và lợi ích của người thuê mướn lao động trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cần được dung hòa ở một trật tự nhất định để đảm bảo công bằng, bình đẳng.
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1989 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những mâu thuẫn trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộ cao khi toàn bộ qúa trình đầu vào, đầu ra của sản xuất do thị trường quyết định. Như vậy kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa nhìn chung có cùng bản chất nhưng khác nhau ở trình độ phát triển.
Cơ sở khách quan cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế thị trường ở Việt Nam: Phân công lao động xã hội và sự tách biệt kinh tế dựa trên hình thức sở hữu khác nhau của tư liệu sản xuất.
*Phân công lao động xã hội với tính cách là cơ sở chung của sản xuất hàng hóa và phụ thuộc vào lực lượng sản xuất. Sự phát triển của lực lượng sản xuất sẽ khiến cho phân công lao động xã hội phát triển. Biểu hiện cụ thể ở nước ta đó là sự ra đời của nhiều ngành nghề mới với sản phẩm phong phú, đa dạng, chất lượng cao bên cạnh những ngành cổ truyền đang được khôI phục và phát triển, xu hướng ngày càng hiện đại.
*Sự tách biệt về kinh tế: Dựa trên những hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Nước ta hiện nay phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Do đó nước ta hiện nay còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất. Đó là hình thức sở hữu Nhà nước về tư liệu sản xuất, hình thức tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất, sở hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất, hình thức sở hữu hỗn hợp về tư liệu sản xuất (nhà nước và tư bản tư nhân trong và ngoài nước).
Tóm lại, hai điều kiện cho sự tồn tại và phát triển nền kinh tế thị trường vẫn tồn tại ở Việt Nam và có xu hướng ngày càng phát triển.
Tác dụng to lớn của sự phát triển kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường kích thích, tạo động lực cho lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động.
Kích thích tính năng động, sáng tạo của các chủ thể kinh tế và sử dụng có hiệu qủa nhất các yếu tố sản xuất, nâng cao chất lượng, khối lượng, mẫu mã hàng hóa và dịch vụ.
Kinh tế thị trường thúc đẩy qúa trình phân công lao động xã hội, mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài.
Kinh tế thị trường thúc đẩy qúa trình tích tụ và tập trung sản xuất nhằm mở rộng quy mô sản xuất, chọn lọc đội ngũ nhân lực có trình độ cao, tay nghề giỏi, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước.
Kinh tế thị trường phù hợp với tính quy luật chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn, thúc đẩy sự xã hội hóa sản xuất.
Kinh tế thị trường phù hợp xu thế phát triển của nền kinh tế hiện nay. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều chuyển sang kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường phù hợp với xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa, khu vực hóa nền kinh tế.
Tuy nhiên kinh tế thị trường cũng có những tác hại của nó: khủng hoảng, lạm phát, phân hóa giàu nghèo,…và kinh tế thị trường không thể khắc phục những hạn chế này. Do đó đòi hỏi phải có sự điều tiết của Nhà nước.
Mô hình kinh tế của Việt Nam được xác định là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa (nói ngắn gọn là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa). Con đường phát triển kinh tế của nước ta không lặp lại nguyên vẹn tiến trình phát triển của các nước đi trước mà cần phảI và có thể xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa theo kiểu rút ngắn, kết hợp các bước phát triển tuần tự và nhảy vọt.
2. Đặc trưng, bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
2.1 Đặc trưng chung của kinh tế thị trường.
Tính tự chủ của các doanh nghiệp cao: Các chủ thể kinh tế độc lập sản xuất kinh doanh theo yêu cầu của thị trường.
Giá cả hình thành trên thị trường, do thị trường quyết định.
Nền kinh tế thị trường vận hành theo các quy luật kinh tế (quy luật giá trị, quy luật cung-cầu, quy luật cạnh tranh, quy luật tài chính-tiền tệ).
Trong nền kinh tế thị trường hiện đại có sự điều tiết của Nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hóa và các chính sách kinh tế.
2.2 Đặc trưng, bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
+ Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường:
Trong nhiều đặc tính có thể dùng làm tiêu thức để phân biệt kinh tế thị trường nước ta với kinh tế thị trường ở nước khác, phải nói đến mục đích chính trị, mục tiêu kinh tế -xã hội mà nhà nước và nhân dân ta đã lựa chọn làm định hướng chi phối sự vận động phát triển nền kinh tế. Sự định hướng xây dựng và phát triển kinh tế thị trường ở nước ta là giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong nước và ngoài nước để thực hiện CNH- HĐH. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, nâng cao hiệu quả kinh tế- xã hội, cải tiến từng bước đời sống của nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xoá đói giảm nghèo.
+ Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo : Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình sở hữu cơ bản là sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản này hình thành sáu thành phần kinh tế là kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tiểu thủ_ tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Các thành phần kinh tế nói trên tồn tại khách quan và cần thiết đối với nền kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần là một tất yếu của nước ta. Chỉ có như vậy chúng ta mới khai thác được mọi nguồn lực kinh tế, nâng cao được hiệu quả kinh tế, phát huy được tiềm năng của các thành phần kinh tế vào phát triển chung của nền kinh tế đất nước nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân.
Do đó, không chỉ xây dựng và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu mà còn phải khuyến khích các thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư hữu phát triển để hình thành nền kinh tế thị trường rộng lớn. Các đơn vị kinh tế thuộc mọi thành phần đều bình đẳng với nhau trước pháp luật, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau cùng phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường nhiều thành phần ở nước ta thì thành phần kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Đây là sự khác biệt cơ bản chất giữa kinh tế thị trường ở Việt Nam với kinh tế thị trường nói chung. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta đã quyết định kinh tế nhà nước ở nước ta giữ vai trò chủ đạo trong cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
+ Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập, trong đó lấy phân phối lao động là chủ yếu:
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi thành phần kinh tế đều có một hoặc một số hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất làm cơ sở cho sự tồn tại của nó, mỗi thành phần kinh tế lại có những phương thức tổ chức, sản xuất kinh doanh khác nhau. Quan hệ phân phối trong thời kì qúa độ cũng sẽ không thuần nhất mà mang tính đa dạng, bao gồm nhiều hình thức phân phối thu nhập:
*Phân phối theo lao động.
*Phân phối theo vốn hay tài sản đóng góp.
*Phân phối theo giá trị sức lao động.
*Phân phối thông qua quỹ phúc lợi của tập thể và xã hội.
Trong các hình thức phân phối đó thì phân phối theo lao động là chủ yếu. Đây là hình thức phân phối thu nhập trong thành phần kinh tế nhà nước.
Nước ta lấy phát triển kinh tế thị trường làm phương tiện để đạt mục tiêu cơ bản xây dựng xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh. Vì vậy mỗi bước tăng trưởng kinh tế ở nước ta phải gắn liền với cải thiện xã hội, đời sống nhân dân, sự tiến bộ và công bằng của xã hội.
+ Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng vận động theo yêu cầu của những quy luật vốn có của kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, ...giá cả do thị trường quyết định, thị trường có vai trò quyết định đối với việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải sử dụng hai công cụ quản lý kinh tế cơ bản là kế hoạch và thị trường. Việc sử dụng hai công cụ này không thể tách rời nhau mà là sự vận dụng tính kế hoạch để điều tiết thị trường và vận dụng các quy luật của thị trường nhằm quản lý phát triển nền kinh tế theo kế hoạch. Thị trường là căn cứ để xây dựng và kiểm tra các kế hoạch phát triển kinh tế. Sự kết hợp giữa thị trường và kế hoạch phải được thực hiện ở cả tầm vi mô lẫn vĩ mô trong cơ chế vận hành.
Vận dụng cơ chế thị trường đòi hỏi vừa phải nâng cao năng lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, đồng thời phải xác lập đầy đủ chế độ tự chủ của các đơn vị sản xuất kinh doanh. Không có chế độ tự chủ của các đơn vị này thì cũng không có cơ chế thị trường. Thực hiện đúng chức năng quản lý của Nhà nước về kinh tế và chức năng chủ sở hữu tài sản công của Nhà nước, Nhà nước không can thiệp vào chức năng quản trị kinh doanh và quyền tự chủ hạch toán của doanh nghiệp.
Phát huy tác động tích cực to lớn và đi đôi với ngăn ngừa, hạn chế và khắc phục những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Nhà nước quản lý nền kinh tế trong nền kinh tế thị trường bằng pháp luật, kế hoạch, cơ chế chính sách, các công cụ đòn bẩy kinh tế khác và bằng các nguồn lực của khu vực kinh tế nhà nước.
+Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế mở, hội nhập:
Do tác động của cách mạng khoa học_ công nghệ, thế giới diễn ra quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự phát triển của mỗi quốc gia đặt trong sự phụ thuộc lẫn nhau. Vì vậy mở cửa kinh tế, hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới là tất yếu đối với nước ta. Chỉ có như vậy mới thu hút được vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến của các nước để khai thác tiềm năng và thế mạnh ở nước ta, thực hiện phat huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để xây dựng và phát triển kinh tế thị trường theo kiểu rút ngắn.
Thực hiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hoá và đa dạng hoá các hình thức đối ngoại, tăng cường xuất khẩu, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế, thu hút đầu tư, thực hiện những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhưng vẫn giữ được độc lập chủ quyền và bảo vệ được lợi ích quốc gia, dân tộc.
3. Thực trạng và phương hướng giải quyết những mâu thuẫn trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua một thời kì quá độ đó là một tất yếu khách quan và độ dài của thời kì quá độ phụ thuộc vào diều kiện chính trị xã hội của mỗi nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX một lần nữa khẳng định con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa tạo ra sự biến đổi về xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, đặc biệt đối với nước ta, quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất nhỏ là phổ biến, chúng ta “ phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ”. và trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội luôn “diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”. vì vậy việc giải quyết mâu thuẫn trong thời kì quá độ là vấn đề có ý nghĩa quan trọng.
3.1 Mâu thuẫn giữa bình đẳng, công bằng xã hội với tính cách là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội với tình trạng bất bình đẳng và bất cộng không thể tránh khỏi do mặt trái của nền kinh tế thị trường đã tạo ra
Nước ta đang trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường, trong điều kiện xuất phát từ sản xuất nhỏ thì xã hội chưa thể tránh khỏi những yếu tố của kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, sự cạnh tranh ( kể cả cạnh tranh không lành mạnh), tình trạng phá sản, tình trạng thất nghiệp, sự phân hoá giàu nghèo giữa các vùng và các bộ phận dân cư, và nhất là không thể tránh khỏi những tệ nạn xã hội do mặt trái của nền kinh tế thị trường gây ra dẫn đến sự bất bình đẳng và bất công trong xã hội. mặt khác, định hướng xã hội chủ nghĩa không cho phép sự bất bình đẳng phát triển thành phân cực xã hội, không cho phép dẩy những người lao động vào tình trạng thất nghiệp, không thể chấp nhận tình trạng bất công, tiêu cực ngày càng tăng nên xuất hiện mâu thuẫn này.
Kinh tế thị trường là phương tiện, là con đường để thực hiện các mục tiêu CNH-HĐH, nó không chỉ phấn đấu đạt trình độ phát triển cao về đời sống vật chất và tinh thần, mà vấn đề quan trọng là đảm bảo công bằng xã hội. Công bằng xã hội là thực hiện một phần của bình đẳng xã hội nên trong quá trình thực hiện công bằng xã hội phải thực hiện sự công bằng đó sao cho sự công bằng ấy dẫn bình đẳng xã hội, chứ không phải thực hiện công bằng xã hội dẫn đến sự bất bình đẳng xã hội. Muốn vậy trong khi thực hiện công bằng xã hội phải đồng thời tạo cơ hội bình đẳng như nhau cho mỗi cá nhân phát huy khả năng của mình để có sự ngang bằng trong cống hiến và đạt đến sự hưởng thụ ngang bằng. Nếu trong quá trình thực hiện công bằng mà không dẫn đến thực hiện bình đẳng xã hội, tức là chỉ xác định mức độ được hưởng thụ đơn thuần theo khả năng cống hiến riêng của từng cá nhân, thì dẫn đến bất bình đẳng xã hội.
Vấn đề của sự phân hoá giàu nghèo là một trong những vấn đề về công bằng của xã hội của nước ta hiện nay. ở đây, sự phân hoá giàu nghèo dựa trên lao động chính đáng đang được xã hội hoan nghênh và cổ vũ. Nó có ý nghĩa xã hội tích cực thúc đẩy con người hướng tới lao động và làm giàu chính đáng. Kinh tế thị trường không thủ tiêu phân hoá giàu nghèo mà trái lại đó là một trong những môi trường thuận lợi cho sự phân hoá giàu nghèo phát triển. Cho đến nay, kinh tế thị trường càng phát triển thì sự phân hoá giàu nghèo càng lan rộng. Dĩ nhiên, kinh tế thị trường cần có sự điều tiết của nhà nước nhằm điều tiết sự phân hoá ấy trong giới hạn nhất định, nhưng sự điều tiết ấy trong từng giai đoạn cụ thể cũng chỉ có những giới hạn nhất định.
Như vậy thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay không tránh khỏi sự cạnh tranh không cân sức và những điều kiện phát triển không được chia đều cho mọi đối tượng mà chỉ thuộc về giai cấp những người có của. Do đó, với chế độ phân phối được xem là công bằng nhưng không dựa trên điều kiện bình đẳng thì cuối cùng sự công bằng xã hội chỉ là sự công bằng ngày càng làm sấu sắc thêm sự phân hoá và phân cực xã hội hay cùng làm cho xã hội ở tình trạng bất bình đẳng.
Xuất phát từ thực tiễn cụ thể của nước ta, những nhiệm vụ trước mắt cần phải làm là:
- Xây dựng và phát triển qũy xóa đói giảm nghèo, đi đôi với quản lý chặt chẽ việc sử dụng qũy này sao cho đúng đối tượng và có hiệu qủa.
- Tổ chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn để trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người còn thấp vẫn tạo được cuộc sống khá hơn cho nhân dân.
- Tổ chức tốt việc thi hành Pháp lệnh về người có công với đất nước và cách mạng, mở rộng phong trào đền ơn đáp nghĩa, chăm sóc các gia đình chính sách.
- Thực hiện và hoàn thiện chế độ bảo hiểm xã hội, ổn định đời sống người nghỉ hưu, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
- Đẩy mạnh các hoạt động nhân đạo, từ thiện. Thực hiện chính sách bảo trợ trẻ mồ côi, lang thang cơ nhỡ, người già cô đơn, nạn nhân chiến tranh, người tàn tật, xây dựng qũy tình thương…
3.2 Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế.
Phát triển kinh tế thị trường trong quá trình quá độ là chấp nhận sự tồn tại của nhiều thành phần kinh tế, giữa các thành phần kinh tế có lợi ích cơ bản và lâu dài không hoàn toàn giống nhau, do đó bên cạnh tính thống nhất thì giữa chúng vẫn có sự mâu thuẫn với nhau. Sự mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế trong thời kì qúa độ được thể hiện ở những mâu thuẫn cụ thể là: mâu thuẫn giữa công hữu và tư hữu, giữa tư nhân với nhà nước, giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
*Mâu thuẫn giữa phát triển kinh tế tư nhân với vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Nếu nhìn vào mức độ phát triển cũng như mức đóng góp tăng lên, có thể thấy sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân là vượt trội nhất. Khu vực này đã vượt lên xuất phát điểm rất thấp trước đó để đạt được ngưỡng cao trong đóng góp chung vào GDP, xuất khẩu, đầu tư, phát triển công nghiệp, tạo việc làm…Có thể nói, những việc trọng yếu nhất trong giai đoạn hiện nay mà nước ta đạt được đều có sự đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân. Sự ra đời của Luật Doanh Nghiệp năm 1999 đã tạo điều kiện cho kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đạt được những mức tăng trưởng cao. Tuy nhiên, dường như chúng ta lại chưa nhìn nhận đúng đắn sự phát triển vượt trội này để tạo vị trí tương xứng hơn cho khu vực kinh tế tư nhân, biến khu vực này thực sự trở thành động lực phát triển đất nước. Nếu cứ giữ các doanh nghiệp nhỏ, lẻ, các thể thì nền kinh tế của Việt Nam sẽ tiếp tục là nền kinh tế manh mún, phân tán, nhỏ bé và kém sức cạnh tranh.
Trong khi đó, khu vực kinh tế nhà nước vẫn tiếp tục ở vai trò chủ đạo. Hơn 20 năm đổi mới, vai trò chủ đạo của nhà nước thực sự là lực lượng chủ lực đem lại sự phát triển mạnh mẽ, có tỉ trọng cao trong tổng vốn đầu tư, đóng góp khá lớn vào GDP, vào công nghiệp - xây dựng cơ bản. Tuy nhiên, tỉ trọng cao đó đồng thời kèm theo cái giá phải trả cao của cả nền kinh tế. Đầu tư của nhà nước vẫn là lớn nhất và do các doanh nghiệp nhà nước thực hiện thì không tránh khỏi thất thoát, lãng phí, tham nhũng rất lớn. Nguyên do trình độ quản lý của nhà nước còn yếu kém, cơ chế lỏng lẻo, một bộ phận cán bộ nhà nước vô đạo đức, quan liêu, vì lợi ích cá nhân, không thực hiện đúng trách nhiệm của mình đối với đất nước. Hơn thế nữa, hiệu qủa của đầu tư nhà nước thường nhỏ, thể hiện rõ nhất ở cấu trúc các ngành được coi là quan trọng mà Nhà nước đầu tư. Khu vực kinh tế tư nhân chưa được nhìn nhận đúng đắn, chưa được tạo điều kiện cho họ. Phải nói rằng, khu vực kinh tế nhà nước rất khó dành sân chơi nào đó cho khu vực tư nhân hoặc xã hội tham gia. Từ trong tư tưởng phải dành cho khu vực này một vị trí thích đáng, kể cả trong đầu tư, trong phân vai... Có như vậy mới phát huy tối đa hiệu qủa đầu tư của khu vực tư nhân đồng thời giải quyết hài hòa những mâu thuẫn giữa hai khu vực kinh tế quan trọng này.
*Mâu thuẫn giữa chế độ công hữu và tư hữu về tư liệu sản xuất.
Từ thực tiễn đổi mới, Đảng ta đi tới quan niệm: đặc trưng kinh tế của chủ nghĩa xã hội là một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Điều đó cũng có nghũa là sự tồn tại nhiều thành phần kinh tế không chỉ là tất yếu trong thời kì qúa độ mà còn là lâu dài cả trong chủ nghĩa xã hội. Đặc trưng của chủ nghĩa cộng sản không phải là xóa bỏ sở hữu tiểu tư sản, tư hữu nhỏ, vì sự tiến bộ của công nghiệp đã xóa bỏ và hàng ngày vẫn tiếp tục xóa bỏ cái đó rồi. Thực tiễn cho thấy, vấn đề của sự mâu thuẫn là ở chỗ: Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, hình thức công hữu với hình thức sở hữu nhà nước và tập thể phải ngày càng trở thành nền tảng hay sở hữu của người dân trong kinh tế tư nhân và trong các khu vực kinh tế khác phải là nền tảng? Công hữu xã hội chủ nghĩa là thế nào và với những hình thức gì để tạo nên sự gắn bó hữu cơ sở hữu xã hội với sở hữu cá nhân của người lao động? Và như vậy, qúa trình đi tới xác lập chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa phải xuất phát từ những tiền đề nào, với những bước đi như thế nào cho thích hợp?
*Mâu thuẫn giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa.
Xu hướng tư bản chủ nghĩa xuất hiện chủ yếu trong các thành phần kinh tế dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê. Mặt khác, mục tiêu lâu dài của cách mạng xã hội chủ nghĩa là xoá bỏ bóc lột, tạo điều kiện cho con người được tự do, dân chủ, phát triển toàn diện. Từ đó đã nảy sinh mâu thuẫn giữa người lao động và người bóc lột lao động, mâu thuẫn giữa xu hướng tư bản chủ nghĩa và tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Qúa trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng nên các công ty, tập đoàn tư bản xuất hiện ở nước ta ngày càng nhiều. Họ đầu tư với số lượng vốn lớn, công nghệ hiện đại, kèm theo đó là kinh nghiệm tổ chức quản lý kinh tế, mở rộng thị trường ngoài nước, giải quyết việc làm trong nước,… và do đó góp phần khai thác và sử dụng có hiệu qủa hơn các tiềm năng kinh tế ở nước ta. Mặc dù còn tồn tại sự bóc lột lao động do lợi ích của người thuê mướn lao động nhưng cùng với sự trưởng thành của chủ nghĩa xã hội, các thành phần kinh tế có thuê mướn lao động sẽ giảm dần mức độ bóc lột của nó. Tất nhiên điều này chỉ có thể thực hiện được trong điều kiện có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa, sự chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước, sự lớn mạnh của kinh tế hợp tác.Do đó, lợi ích của người lao động và lợi ích của người thuê mướn lao động trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay cần được dung hòa ở một trật tự nhất định để đảm bảo công bằng, bình đẳng.
Tóm lại, trong điều kiện nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần, sự thống nhất và mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế là tất yếu. Toàn bộ hoạt động của Nhà nước thực hiện trước hết bằng pháp luật, các văn bản dưới luật, các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội, cơ chế quản lý kinh tế, các biện pháp, phương pháp tổ chức thực hiện... không thể không tính đến sự thống nhất giữa các thành phần kinh tế và sự mâu thuẫn giữa chúng. Trong sự thống nhất đã chức đựng sự mâu thuẫn để đi tới thống nhất. Nhà nước phải bảo đảm công bằng xã hội, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để các thành phần kinh tế cùng được tồn tại, hoạch định trên thực tế và mọi thành phần kinh tế đều có tư cách pháp nhân và đều được bình đẳng trước pháp luật. Có như vậy mới tăng lòng tin, mới kích thích các thành phần kinh tế đầu tư kinh doanh, nhất là đầu tư trong lĩnh vực sản xuất bằng công nghệ mới. Đối với khu vực kinh tế Nhà nước, cần tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước theo hướng: chỉ nắm những ngành, khâu, mặt hàng theo chốt, vùng trọng yếu, bảo đảm quyền tự chủ trong quản lý, kinh doanh, thực sự là đơn vị kinh tế hàng hóa, kinh doanh có hiệu qủa để thực hiện vai trò chủ đạo đối với các thành phần kinh tế khác.
3.3 Mâu thuẫn giữa ưu điểm và khuyết tật của cơ chế thị trường.
Đại hội VII của Đảng đã xác định rõ: “Tiếp tục xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành đồng bộ và vận hành có hiệu qủa cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.”(1) Đến đại hội IX còn giải thích rõ thêm: “nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa (nói ngắn gọn là KTTT định hướng XHCN)”(2)
Cơ chế thị trường là cơ chế tự điều tiết nền kinh tế nên rất linh hoạt, mềm dẻo và uyển chuyển. Nó có tác dụng kích thích mạnh, nhanh sự đổi mới về kĩ thuật, công nghệ, quản lý và do đó dễ dàng thỏa mãn nhu cầu và thị hiếu người tiêu dùng. Nó là cơ chế đòi hỏi các doanh nghiệp và các nhà quản lý phải hết sức năng động, nhạy bén để thích nghi với sự đổi mới thường xuyên và mau lẹ của nhu cầu xã hội cũng như của tiến bộ kỹ thuật và công nghệ. Trên cơ sở đó cơ chế thị trường kích thích sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển.
Tuy vậy, tấm huân chương nào cũng có hai mặt, bên cạnh những ưu thế vốn được coi là vẻ đẹp của cơ chế thị trường, thì bản thân cơ chế thị trường cũng chứa đựng nhiều khuyết tật, mâu thuẫn:
- Bởi vì cơ chế thị trường mang tính tự phát nên những hậu qủa xã hội mà nó gây ra ở nước ta là những vấn đề khó tránh khỏi: tỉ lệ thất nghiệp thành thị cao, khoảng 7.28%, còn ở nông thôn khoảng 10.98%, lạm phát 9.5%, sự phân hóa giàu nghèo khoảng 13.5 lần (số liệu điều tra lao động - việc làm 2005_Tổng cục Thống kê)
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội VII. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.23.
(2)Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.86.
- Do việc chạy theo lợi nhuận tối đa nên cơ chế thị trường có xu hướng kích thích việc khai thác và sử dụng tài nguyên một cách vô tội vạ, phá hủy môi trường, môi sinh và sự cân bằng sinh thái. Khói bụi từ các nhà máy, khu công nghiệp, từ các phương tiện vận tải, rác thải công nghiệp…ngày càng đe dọa môi trường và sức khỏe con người.
- Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là động lực của nền kinh tế, nhưng bản thân quan hệ cạnh tranh lại cũng chứa đựng những nhân tố tạo ra sự đối lập với nó, đó là độc quyền, mà độc quyền chính là cơ sở để làm nảy sinh những quan hệ cạnh tranh không lành mạnh.
Tóm lại, cơ chế thị trường có nhiều ưu thế nên được Việt Nam sử dụng như một công cụ để phát triển kinh tế. Mặt khác, nhằm khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường thì hiện nay nước ta cần kết hợp cơ chế thị trường có sự can thiệp, điều tiết vĩ mô của Nhà nước đối với nền kinh tế, hình thành nên cơ chế kinh tế hỗn hợp.
Nhà nước đảm bảo sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật pháp để tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế. Những khuôn khổ luật pháp mà Nhà nước thiết lập có tác động sâu sắc tới các hành vi của các chủ thể kinh tế, điều chỉnh hành vi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 110984.doc