MỤC LỤC
MỞ BÀI 1
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1
I. Khái quát chung về các quy định của Luật doanh nghiệp năm 2005 về công ty hợp danh. 1
1. Khái niệm và đặc điểm. 1
2. Cơ cấu tổ chức quản lý công ty hợp danh 2
3. Đại diện theo pháp luật của Công ty hợp danh 2
4. Hạn chế đối với quyền của thành viên hợp danh 2
II. Các quy định chưa phù hợp về công ty hợp danh tại Luật doanh nghiệp năm 2005. 3
1. Khái niệm công ty hợp danh. 3
2. Về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh. 7
3. Thành viên góp vốn: 10
4. Phá sản công ty hợp danh: 11
5. Quy định công ti hợp danh không được phát hành trái phiếu. 12
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ: 13
1. Phân chia rõ ràng hai loại công ty hợp danh. 13
2. Quy định rõ quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn: 14
3. Cho phép công ti hợp danh được phát hành trái phiếu: 14
KẾT BÀI 15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
17 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2770 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những quy định hiện hành về công ty hợp danh tập trung trong Luật Doanh nghiệp năm 2005, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
pháp luật ghi nhận là một loại hình đặc trưng của công ty đối nhân, trong đó có ít nhất hai thành viên( đều là cá nhân và là thương nhân) cùng tiến hành hoạt động thương mại( theo nghĩa rộng) dưới một hãng chung( hay hội danh) và cùng liên đới chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của công ty. Theo Luật doanh nghiệp năm 2005 quan niệm về công ty hợp danh ở nước ta hiện nay có một số điểm khác với cách hiểu truyền thống về công ty hợp danh. Công ty hợp danh được định nghĩa với các đặc điểm pháp lí cơ bản sau:
- Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung( gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn.
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty.
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
- Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
- Trong quá trình hoạt động công ty hợp danh không được phát hành bất kì loại chứng khoán nào.
2. Cơ cấu tổ chức quản lý công ty hợp danh
+ Hội đồng thành viên
+ Chủ tịch hội đồng thành viên
+ Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
3. Đại diện theo pháp luật của Công ty hợp danh
Các thành viên hợp danh có quyền đại diện theo pháp luật và tổ chức điều hành hoạt động kinh doanh hằng ngày của công ty.
4. Hạn chế đối với quyền của thành viên hợp danh
+ Thành viên hợp danh không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân hoặc thành viên hợp danh của công ty hợp danh khác, trừ trường hợp được sự nhất trí của các thành viên hợp danh còn lại.
+ Thành viên hợp danh không được quyền nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác thực hiện kinh doanh cùng ngành, nghề kinh doanh của công ty đó để tư lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác.
+ Thành viên hợp danh không được quyền chuyển một phần hoặc toàn bộ phần vốn góp của mình tại công ty cho người khác nếu không được sự chấp thuận của các thành viên hợp danh còn lại.
Ưu điểm của công ty hợp danh là kết hợp được uy tín cá nhân của nhiều người. Do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh mà công ty hợp danh dễ dàng tạo được sự tin cậy của các bạn hàng, đối tác kinh doanh. Việc điều hành quản lý công ty không quá phức tạp do số lượng các thành viên ít và là những người có uy tín, tuyệt đối tin tưởng nhau. Hạn chế của công ty hợp danh là do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên mức độ rủi ro của các thành viên hợp danh là rất cao.
II. Các quy định chưa phù hợp về công ty hợp danh tại Luật doanh nghiệp năm 2005.
Khái niệm công ty hợp danh.
Khái niệm về công ty hợp danh được quy định cụ thể tại khoản 1 Điều 130 Luật doanh nghiệp năm 2005.
“Công ty hợp danh là doanh nghiệp, trong đó:
a) Phải có ít nhất hai thành viên là chủ sở hữu chung của công ty, cùng nhau kinh doanh dưới một tên chung (sau đây gọi là thành viên hợp danh); ngoài các thành viên hợp danh có thể có thành viên góp vốn;
b) Thành viên hợp danh phải là cá nhân, chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ của công ty;
c) Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.”
Như vậy, nếu căn cứ vào tính chất thành viên và chế độ chịu trách nhiệm tài sản, thì công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp năm 2005 có thể chia được chia thành hai loại. Loại thứ nhất là những công ty giống với công ty hợp danh theo pháp luật các nước, tức là chỉ bao gồm các thành viên hợp danh ( chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty). Loại thứ hai là những công ty có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn ( chịu trách nhiệm hữu hạn). Loại công ty này pháp luật các nước gọi là công ty hợp vốn đơn giản( hay hợp danh hữu hạn) và cũng là một loại hình của công ty đối nhân. Như vậy, nếu căn cứ vào tính chất thành viên và chế độ chịu trách nhiệm tài sản, thì công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp năm 2005 có thể chia được chia thành hai loại. Loại thứ nhất là những công ty giống với công ty hợp danh theo pháp luật các nước, tức là chỉ bao gồm các thành viên hợp danh ( chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản của công ty). Loại thứ hai là những công ty có cả thành viên hợp danh và thành viên góp vốn ( chịu trách nhiệm hữu hạn). Loại công ty này pháp luật các nước gọi là công ty hợp vốn đơn giản( hay hợp danh hữu hạn) và cũng là một loại hình của công ty đối nhân. Nhưng hai “loại” này lại được quy định chung vào với nhau, không tách bạch. Điều này thực sự không hợp lý vì hai loại này tuy gần như hoàn toàn giống nhau về quy chế pháp lý nhưng trong thực tế sẽ phát sinh những điểm không thỏa đáng, nhất là trong việc giải thể của công ty. Điều này đã chứng tỏ sự cứng nhắc của pháp luật hiện hành. Có thể thấy khái niệm công ty hợp danh theo Luật doanh nghiệp năm 2005 của Việt Nam có nội hàm của khái niệm công ty đối nhân theo pháp luật các nước. Với quy định về công ty hợp danh, Luật doanh nghiệp đã ghi nhận sự tồn tại của các công ty đối nhân ở Việt Nam.
Định nghĩa này cho thấy hai vấn đề lớn cần phải bàn:
Vấn đề lớn thứ nhất, công ty hợp danh theo quan niệm của Luật Doanh nghiệp năm 2005 phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, có nghĩa là hai người chịu trách nhiệm liên đới và vô hạn định đối với các khoản nợ của công ty. Điều này là đúng nếu Luật Doanh nghiệp năm 2005 không quan niệm công ty hợp danh bao gồm cả công ty hợp vốn đơn giản. Bản chất của công ty hợp danh đúng nghĩa là sự liên kết của các thương nhân đơn lẻ để kinh doanh dưới một tên hãng chung. Vì vậy, công ty hợp danh phải có từ hai thành viên hợp trở lên, nếu không thì sẽ vẫn chỉ là thương nhân đơn lẻ. Còn đối với công ty hợp vốn đơn giản thì chỉ cần có một thành viên hợp danh (hay “thành viên nhận vốn” – gọi một cách dễ hiểu hơn và đỡ bị nhầm hơn về ngữ nghĩa) và một thành viên góp vốn là đủ. Ngay ở Hoa Kỳ người ta quan niệm: “Công ty hợp danh hữu hạn bao gồm hai hay nhiều người, với ít nhất một thành viên hợp danh và một thành viên chịu trách nhiệm hữu hạn”. Cần lưu ý thêm: “công ty hợp danh hữu hạn: gọi theo cách của chúng ta xưa kia là “công ty hợp vốn đơn giản” hay “công ty hợp tư đơn thường”.
Vấn đề lớn thứ hai, thành viên hợp danh theo Luật Doanh nghiệp năm 2005 phải là cá nhân, có nghĩa là pháp nhân không thể góp vốn thành lập công ty hợp danh. Bản chất thủa ban đầu của công ty hợp danh là sự liên kết giữa các thương gia thể nhân hay thương nhân đơn lẻ để cùng kinh doanh dưới một tên hãng chung. Tuy nhiên, ngày nay khi đã cách xa cái thủa ban đầu đó hàng thiên niên kỷ, thì công ty hợp danh mang bản chất là sự liên kết giữa các thương nhân mà trong đó có cả thương gia thể nhân và thương gia pháp nhân, có nghĩa là thành viên của công ty hợp danh có thể là pháp nhân. Về mặt lý thuyết cho thấy pháp nhân mô phỏng vị trí pháp lý của thể nhân. Nó có tên gọi, cơ sở, quốc tịch, ý chí, sản nghiệp, trách nhiệm, có nghĩa là nó có các quyền dân sự như thể nhân trừ một số quyền đặc trưng của thể nhân như về gia đình, về chính trị… Đứng trước pháp luật, thể nhân hay pháp nhân đều được gọi là người, nhưng để phân biệt giữa chúng người ta gắn vào đó các tính từ. Sự phân biệt như vậy là cần thiết để thiết lập đời sống pháp lý khác nhau cho chúng, song sự phân biệt đó không làm cản trở tới việc tham gia vào các hoạt động kinh tế của pháp nhân. Về mặt pháp luật thực định, chúng ta đã thấy Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 có một hình thức đầu tư là hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hay hợp đồng hợp tác kinh doanh mà các luật gia trên thế giới quan niệm đó chính là hình thức công ty hợp danh, mặc dù khi xây dựng Luật Doanh nghiệp năm 1999, nhiều quan điểm ở Quốc hội cho rằng, hình thức công ty hợp danh là quá mới đối với Việt Nam, nên đã cắt xén dự thảo để chỉ thông qua vỏn vẹn năm điều về công ty hợp danh. Điều đáng lưu ý rằng, các bên trong hợp đồng hợp tác kinh doanh theo Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam có thể là pháp nhân. Vậy tại sao Luật Doanh nghiệp năm 2005 cho rằng thành viên của công ty hợp danh chỉ có thể là thể nhân? Có lẽ nhà làm luật nghĩ, thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải chịu trách nhiệm vô hạn định đối với các khoản nợ của công ty nên buộc phải là cá nhân, vì xem điểm b, khoản 1, Điều 130 của Luật Doanh nghiệp năm 2005 có bóng dáng của những nhận thức như vậy. Chịu trách nhiệm vô hạn định có nghĩa là phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình hiện có hoặc sẽ có trong tương lai. Vậy cả thể nhân và pháp nhân đều phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình đối với các khoản nợ của họ, chỉ có điều khác biệt là pháp nhân khi đã bị thanh lý hết tài sản thì có thể không tồn tại nữa, còn thể nhân thì vẫn có cơ hội để làm ăn, có nghĩa là có thể có tài sản trong tương lai. Ngày nay, các công ty thường lựa chọn các hình thức đầu tư rất linh hoạt. Họ có thể sử dụng hình thức công ty hợp danh để tạo ra các chi nhánh chung hoặc để kiểm soát hữu hiệu một công ty hoặc nhiều công ty khác trong việc khai thác một cơ hội kinh doanh nào đó. Vậy tại sao Luật Doanh nghiệp năm 2005 lại hạn chế quyền tự do lựa chọn hình thức đầu tư của các thương nhân mà không có lý do chính đáng từ phía cộng đồng? Để lý giải đầy đủ cho quan niệm thành viên hợp danh có thể là pháp nhân, chúng ta còn phải nắm được vị thế pháp lý của thành viên hợp danh.
Công ty hợp danh và công ty dân sự rất gần gũi nhau, nhưng không chuyển đổi được sang nhau. Các thành viên của công ty hợp danh mặc nhiên được coi là có tư cách thương gia và liên đới chịu trách nhiệm với các khoản nợ của công ty. Cơ cấu tổ chức của công ty hợp danh gọn nhẹ, do đó nó rất thích hợp với việc tổ chức các doanh nghiệp nhỏ. Hình thức công ty này xuất hiện ngày càng nhiều trong mối liên hệ giữa các công ty để hình thành một chi nhánh chung giữa các công ty, các tập đoàn, làm cơ sở cho việc phân nhánh mới. Trong Giáo trình Luật kinh tế, Tập 1: Luật doanh nghiệp, Tình huống – Phân tích – Bình luận của Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, có đoạn viết: “Luật sư thường được xem là cơ quan bổ trợ công lý, bởi vậy các hãng luật thường hoạt động dưới dạng hợp danh chứ không phải các công ty thương mại”.Nếu như vậy phải chăng hợp danh hay công ty hợp danh không phải là công ty thương mại? Có lẽ vẫn cần cả ở việc xem dịch vụ pháp lý có phải là hành vi thương mại hay không và việc tổ chức dịch vụ pháp lý dưới hình thức hợp danh phải chăng là một hợp đồng dân sự, nên sự ra đời của đoạn văn trên chỉ đề cập riêng tới các công ty luật mà không nhằm nói tới công ty hợp danh nói chung. Trong khi đó, từ trước tới nay ở đâu người ta cũng nói công ty hợp danh là công ty thương mại, là thương nhân bởi hình thức và nó được phân biệt với công ty dân sự.
2. Về tư cách pháp nhân của công ty hợp danh.
Trong các đặc điểm pháp lý của công ty hợp danh còn có một vấn đề phải bàn là: công ty hợp danh có tư cách pháp nhân hay không? Khoản 2 Điều 130 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định:
“ Công ty hợp danh có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.”
Nhiều luật gia Việt Nam cho tới bây giờ vẫn chưa đồng tình với việc Luật Doanh nghiệp năm 2005 quan niệm công ty hợp danh có tư cách pháp nhân. Rõ ràng, công ty hợp danh cũng có tên gọi, trụ sở, quốc tịch, sản nghiệp, ý chí và trách nhiệm. Điều đó cho thấy không thể quan niệm nó là một cái gì đó khác hơn pháp nhân. Còn các thành viên của nó xét về mặt pháp lý là những người bảo lãnh liên đới cho các hoạt động của công ty. Hoàn toàn có sự tách bạch giữa tài sản của công ty và tài sản của các thành viên.
Tư cách pháp nhân của công ty hợp danh – quy định không phù hợp với lợi ích. Khi nào thì luật pháp cần phải quy định cho một tổ chức có tư cách pháp nhân? Quy định tư cách pháp nhân cho một tổ chức có lợi ích cơ bản gì? Việc quy định tư cách pháp nhân cho một tổ chức hay đúng hơn là việc hình thành khái niệm pháp nhân đem lại nhiều lợi ích. Giáo sư Jean Claude Ricci dẫn ra đây hai lợi ích cơ bản sau đây:
Thứ nhất, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được đơn giản hóa. Pháp nhân cho phép đơn giản hóa pháp luật. Chúng ta hãy đặt giả thiết là không có pháp nhân mà chỉ có các thể nhân. Khi đó, mỗi thể nhân thành viên đều sẽ phải tham gia vào việc ký kết các giao dịch pháp lý. Hậu quả sẽ rất phức tạp.
Thứ hai, việc hình thành pháp nhân làm cho đời sống pháp luật được ổn định lâu dài. Đây là một yếu tố hết sức quan trọng. Người ta thường hay nói rằng, pháp nhân không gặp phải những thay đổi bất ngờ như thể nhân. Thời gian tồn tại của một pháp nhân thường dài hơn cuộc sống của một con người. Và hoạt động của pháp nhân có thể kéo dài, thậm chí rất dài. Pháp nhân không bị ảnh hưởng bởi những biến cố xảy ra đối với thành viên của nó.
Nếu đối chiếu bản chất của loại hình công ty hợp danh vào hai lợi ích được dẫn ra trên, thì có thể thấy sự không phù hợp cơ bản khi quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân.
Đối chiếu với lợi ích thứ nhất, công ty hợp danh không cần đến tư cách pháp nhân để làm đơn giản hóa pháp luật. Bản chất của các quy định của công ty hợp danh là tôn trọng tính thỏa thuận giữa các thành viên hợp danh và các nguyên tắc về đại diện. Số lượng thành viên hợp danh trong công ty hợp danh rất ít. Đặc biệt, theo quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005, mô hình công ty hợp danh ở Việt Nam là mô hình đóng kín giữa những thân hữu có thể tin tưởng lẫn nhau. Một thành viên có quyền đại diện cho các thành viên còn lại trong việc ký kết giao dịch với bên thứ ba mà không gặp trở ngại nào.
Đối chiếu với lợi ích thứ hai, khác với các loại hình công ty cổ phần hay công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh trong trường hợp gặp sự cố đối với thành viên hợp danh thì có thể chấm dứt sự tồn tại của nó. Chẳng hạn, nếu công ty hợp danh chỉ có hai thành viên hợp danh mà một người đột ngột qua đời thì công ty hợp danh đứng trước nguy cơ giải thế rất cao nếu thành viên còn lại không tìm được người để tiếp tục hợp danh.
Xét từ góc độ lợi ích của thành viên hợp danh, thì sự tồn tại của tư cách pháp nhân của công ty hợp danh và chế độ chịu trách nhiệm vô hạn không mang lại lợi ích lớn. ở một chừng mực nào đó, nó còn là sự cản trở.
Ở hầu hết các nước, do việc xác định hợp danh là sự liên kết của hai hay nhiều người cùng hùn vốn, tạo tài sản chung, chia sẻ quyền điều hành, cùng chịu lỗ hưởng lãi nên pháp luật đề cao sự thỏa thuận, không bắt buộc phải đăng ký kinh doanh. Với điều kiện như vậy, pháp luật nhiều nước không đánh thuế thu nhập đối với công ty hợp danh, từng thành viên chịu thuế với phần thu nhập cá nhân của riêng mình. Lợi ích của những cá nhân tham gia vào hợp danh thông thường là những cá nhân này sẽ không phải chịu thuế hai lần. Khác với loại hình hợp danh ở các nước khác, công ty hợp danh ở Việt Nam do có tư cách pháp nhân nên đương nhiên phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp. Khoản lợi nhuận sau thuế chia cho thành viên hợp danh có thể sẽ bị đánh thuế một lần nữa. Lợi ích của các thành viên rõ ràng là bị ảnh hưởng lớn, trong khi họ đồng thời phải chịu chế độ trách nhiệm vô hạn về các nghĩa vụ của công ty.
Cũng vì các lý do đó, mà công ty hợp danh theo luật Việt Nam là mô hình kém hấp dẫn nhà đầu tư. Điều đó thể hiện qua các con số thống kế trên thực tế về số lượng của các doanh nghiệp theo loại hình này. Theo thống kê doanh nghiệp của Sở Kế hoạch và đầu tư Hà Nội, cho đến ngày 20/11/2007, Hà Nội chỉ có 17 công ty hợp danh so với 33.327 công ty trách nhiệm hữu hạn, 21.061 công ty cổ phần, 2.921 doanh nghiệp tư nhân, 2.137 công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Như vậy, có thể thấy số lượng công ty hợp danh là quá ít ỏi so với số lượng các doanh nghiệp thuộc các loại hình khác.
Trong một nỗ lực giải quyết tính kém hấp dẫn của mô hình công ty hợp danh, Dự thảo Luật Thuế thu nhập cá nhân quy định thành viên hợp danh không phải nộp thuế thu nhập cá nhân đối với phần lợi nhuận sau thuế thu nhập doanh nghiệp của công ty hợp danh. Tuy nhiên, cách xử lý này bị phản đối gay gắt, và ngày 20/11/2007, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Thuế thu nhập cá nhân, vói quy định thành viên hợp danh vẫn phải chịu thuế thu nhập cá nhân.
3. Thành viên góp vốn:
Nếu thành viên hợp danh chỉ là có thể là cá nhân thì thành viên góp vốn có thể là cá nhân hoặc tổ chức, ví dụ các công ty hay thực thể có tư cách pháp nhân. Thành viên góp vốn chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ của Công ty hợp danh trong phạm vi số vốn (đã cam kết) góp vào công ty (theo điểm c khoản 1 điều 130 và điểm a khoản 2 điều 140 Luật doanh nghiệp). Ngoài quyền được hưởng lợi tức hàng năm (nếu công ti có lãi), được cung cấp báo cáo tài chính của công ti hàng năm…, thành viên góp vốn có quyền chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho người khác (khoản 1 điều 140 Luật doanh nghiệp). Luật không quy định việc chuyển nhượng này phải được hội đồng thành viên chấp thuận. Tuy không có quyền nhân danh công ti và quản lí công ti như các thành viên hợp danh những thành viên góp vốn cũng có quyền dự hợp, thảo luận và biểu quyết tại hội đồng thành viên về các sửa đổi điều lệ công ti có thể liên quan trực tiếp đến quyền và nghĩa vụ của họ (điểm b khoản 2 điều 140, điểm a khoản 1 điều 140 Luật doanh nghiệp 2005). Họ có quyền quản lí công ti nếu điều lệ công ti có quy định.
Với những đặc điểm về thành viên góp vốn trên, nếu có vốn và muốn đầu tư kinh doanh nhưng lại không có thời gian tham gia vào quản lí doanh nghiệp hoặc không có chuyên môn trong lĩnh vực đầu tư, các nhà đầu tư có thể góp vốn vào công ty hợp danh làm thành viên góp vốn hay nhận chuyển nhượng phần vốn góp từ thành viên góp vốn khác trong công ty hợp danh. Tuy nhiên, do mô hình này mới được quy định nên còn khá mới lạ và cũng chưa được sự quan tâm của các nhà đầu tư, do vậy cần có một hệ thống pháp luật chặt chẽ và sự tuyên truyền rộng rãi để khuyến khích và tạo sự yên tâm khi kinh doanh nơi các nhà đầu tư.
4. Phá sản công ty hợp danh:
Cũng như các doanh nghiệp khác, hợp danh có thể được giải thể tự nguyện hay bắt buộc; khi mất khả năng thanh toán có thể được xử lí theo thủ tục phá sản doanh nghiệp (điều 157 – 159 Luật doanh nghiệp). Về phá sản công ty: Trong phá sản, thành viên hợp danh khi nhận thấy công ti hợp danh lâm vào tình trạng phá sản có quyền nộp đơn xin mở thủ tục phá sản đối với công ti. Nhưng thủ tục giải quyết phá sản của công ty hợp danh có điểm khác biệt so với các loại hình khác. Kể cả khi công ti được xóa tên khỏi sổ đăng kí kinh doanh sau khi thanh lí theo thủ tục phá sản, điều đáng lưu ý là các thành viên hợp danh không được tuyên bố miễn trách nhiệm trả nợ; ngược lại, họ vẫn phải chịu trách nhiệm vô hạn về các khoản nợ của công ti (khoản 1 điều 90 Luật phá sản). Một số vấn đề được đặt ra thêm như:
- Thành viên hợp danh cũng là một thương nhân, có quyền tạo lập các hành vi kinh doanh, ký kết hợp đồng và hoàn toàn có thể có nợ. Trong khi đó, họ lại chịu trách nhiệm vô hạn với tư cách là thành viên hợp danh của Công ty hợp danh. Một điều được đặt ra là họ sẽ phải thanh toán nợ của công ty trước (trong trường hợp công ty không thể thanh toán hết nợ) rồi mới đến nợ của họ đối với người khác hay ngược lại? Việt Nam chưa quy định rõ điều này. Theo Luật Hợp danh thống nhất của Hoa Kỳ thì thành viên hợp danh sẽ phải thanh toán cho chủ nợ của thành viên hợp danh trước, sau đó mới đến nợ của công ty (quy định này áp dụng ngay cả khi chủ nợ của công ty cũng chính là chủ nợ của thành viên hợp danh). - Nếu Công ty hợp danh chưa trả hết, thành viên hợp danh sẽ phải trả bằng tài sản của mình nhưng theo cách thức nào? Điểm e, khoản 2 điều 134 Luật doanh nghiệp có quy định: thành viên hợp danh phải chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp của mình hoặc theo thỏa thuận quy định tại điều lệ công ty (Luật doanh nghiệp 1999 không quy định cách thức nào cả). Hiện nay, theo tinh thần Luật phá sản 2004, việc này phụ thuộc việc định giá và đánh giá lại tài sản góp vốn, đây cũng là một vấn đề không dễ giải quyết. Còn Bộ Luật Thương Mại Sài Gòn 1973 có quy định về cách thức trả nợ này của công ty của thành viên hợp danh: tùy thuộc vào khế ước lập hội, nếu không sẽ do các hội viên quyết định theo đa số và nếu có Hội Viên bất đồng ý kiến có thể xin Tòa án xét xử.
5. Quy định công ti hợp danh không được phát hành trái phiếu.
Trên thế giới chỉ quy định công ty hợp danh không được phát hành cổ phiếu. Việc phát hành trái phiếu không ảnh hưởng đến tính chất đóng, hạn chế tiếp nhận thành viên của loại công ty này bởi: người mua trái phiếu thực chất là chủ nợ của công ti chứ không phải là thành viên của công ty. Điều này sẽ giúp cho công ti hợp danh huy động vốn một cách dễ dàng hơn, thu hút được các nhà đầu tư hơn, thuận lợi hơn trong quá trình kinh doanh, nhất là thực tế công ty hợp danh ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, lại mang bản chất đối vốn nên rất thiếu vốn hoạt động. Tuy nhiên, tại khoản 3 điều 130 Luật doanh nghiệp lại quy định:” công ty hợp danh không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào”.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ:
Qua những phân tích đánh giá trên đây, chúng ta có thể đề cập đến một số biện pháp để hoàn thiện pháp luật về công ty hợp danh và làm cho loại hình này phổ biến hơn như quy định rõ ràng và hợp lí hơn về khái niệm, đặc điểm, thủ tục phá sản…cụ thể:
1. Phân chia rõ ràng hai loại công ty hợp danh.
Đó là: hợp danh thông thường và hợp danh hữu hạn. Hiện nay chỉ có 1 quy định duy nhất về công ty hợp danh nên 2 loại này về cơ bản chỉ được ghi nhận trong 1 định nghĩa. Điều này dẫn đến 1 số khó khăn nhất định khi xem xét các trường hợp giải thể bắt buộc của công ty hợp danh ( vì lý do không có đủ số lượng thành viên tối thiểu theo yêu cầu trong 6 tháng liên tục). Thành viên góp vốn không có quyền quản lý nhưng không phủ nhận được vai trò của họ. Hai loại trên có bản chất tương đối giống nhau nhưng vẫn có những đặc điểm pháp lý khác biệt. Nên quy định việc giải thể bắt buộc rõ ràng như sau:
- Đối với công ty hợp danh chỉ có thành viên hợp danh: Không còn
đủ 2 thành viên hợp danh
- Đối với công ty hợp danh có thành viên hợp danh và thành viên góp vốn: Không còn đủ 3 thành viên (không đủ 2 thành viên hợp danh hay không có thành viên góp vốn nào).
Nếu có quy định đối với Công ty hợp danh hữu hạn thì nếu loại này không đáp ứng điều kiện về số lượng thành viên có thể chuyển đổi sang công ty hợp danh thông thường nếu vẫn còn đủ 2 thành viên hợp danh. Công ty hợp danh là loại hình công ti đóng đặc thù nên bất kỳ một biến động nào của phạm vi thành viên hay cơ cấu vốn góp cũng để ngỏ khả năng phá vỡ nền tảng cơ sở của công ti và buộc chuyển đổi loại hình. Thay vì giải thể, có thể quy định thêm một số trường hợp chuyển đổi công ty hợp danh từ hữu hạn sang thông thường và ngược lại.
2. Quy định rõ quyền và nghĩa vụ của thành viên góp vốn:
Những quy định về thành viên góp vốn hiện nay còn khá sơ sài, nhất là chưa có chế tài xử lí và dự liệu những vi phạm của thành viên góp vốn này. Nên quy định thành viên góp vốn phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với những thương vụ do mình tạo lập do vượt quá thẩm quyền. Việc chuyển nhượng vốn góp của thành viên góp vốn còn phụ thuộc thành viên hợp danh là một bất cập góp phần làm hạn chế hoạt động của Công ty hợp danh. Thành viên hợp danh mới cần có sự hiện diện của yếu tố nhân thân nên quy định khắt khe về chuyền nhượng vốn là đúng. Còn thành viên góp vốn chẳng qua chỉ hiện diện thông qua phần vốn góp. Luật Doanh nghiệp quy định theo hướng bắt buộc thành viên góp vốn phụ thuộc quá nhiều vào điều lệ. Cần đưa ra những điều kiện cụ thể hơn để các thành viên hợp danh ở một mức độ nào đó không thể hạn chế việc chuyển nhượng vốn của các thành viên góp vốn và họ được rút khỏi công ty nếu được đa số thành viên hợp danh chấp nhận.
3. Cho phép công ti hợp danh được phát hành trái phiếu:
Điều này sẽ giúp cho công ti hợp danh huy động vốn một cách dễ dàng hơn, thu hút được các nhà đầu tư hơn, thuận lợi hơn trong quá trình kinh doanh, nhất là thực tế công ty hợp danh ở Việt Nam hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, lại mang bản chất đối vốn nên rất thiếu vốn hoạt động. Việc quy định cho công ty hợp danh được phát hành trái phiếu sẽ phần nào đem lại những thuận lợi và tạo điều kiện tốt cho công ty hơp danh hoạt động, phát triển.
KẾT BÀI
Với những phần đã trình bày ở trên, hy vọng sẽ góp phần vào việc tìm hiểu công ty hợp danh hơn. Với những ưu điểm như: tạo được sự tin cậy đối với bạn hàng, làm cho môi trường kinh doanh ngày càng lành mạnh, đẩy mạnh xu hướng làm việc cam kết theo khả năng chứ không theo kết quả, Nhà nước kiểm soát được hoạt động (một trong những lý do để quy định công ty hợp danh có tư cách pháp nhân và phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp)…thiết nghĩ mô hình này cần được nhanh chóng hoàn thiện để đi vào đời sống một cách mạnh mẽ. Để làm được điều đó, chúng ta cần một tư duy thoáng hơn trong xây dựng và áp dụng luật. Trong kinh doanh, việc lựa chọn loại hình phù hợp với ý tưởng và khả năng của mình, các thương nhân luôn cân nhắc và đánh giá toàn diện. Với những quy định hiện nay của Pháp luật Việt Nam về công ti hợp danh thi loại hình này khó
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bài tập lớn - Luật doanh nghiệp năm 2005 về công ty hợp danh.doc