MỤC LỤC
I. PHẦN MỞ ĐẦU Trang
Yêu cầu khách quan cần tìm hiểu về những tác động của Quốc tế Cộng sản đến sự phát triển của Cách mạng nước ta.
II. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Quá trình ra đời, hoạt động và những đặc điểm nổi bật của Quốc tế Cộng sản.
Chương 2: Vấn đề dân tộc và thuộc địa đặt ra trong Quốc tế Cộng sản
Chương 3: Những tác động tích cực của Quốc tế Cộng sản đến Cách mạng Việt Nam.
Chương 4: Một số hạn chế trong mối quan hệ giữa Quốc tế Cộng sản với Cách mạng Việt Nam.
III. PHẦN KẾT LUẬN
Ý nghĩa, bài học chính trị - thời sự khi nghiên cứu về những tác động của Quốc tế Cộng sản đến Cách mạng nước ta.
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2927 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Những tác động của quốc tế cộng sản đến cách mạng Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chủ nghĩa, được lịch sử phát triển của cách mạng thế giới và sự phát triển của loài người sang bước ngoặt thời đại mới: Quá trình đi lên CNXH, CNCS. Nối tiếp những ý tưởng lớn của K.Mác và F.ăng-ghen, đặt trong bối cảnh thuận lợi, V.Lê-nin đã nghĩ ngay đến việc phải nhất thiết thành lập sớm Quốc tế III, tức là Quốc tế Cộng sản. Sau khi chuẩn bị kỹ về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức, ngày 1/3/1919, tại Mát-xcơ-va (Nga), Lênin đã chủ trì họp, để chuẩn bị về mọi mặt cho Chương trình làm việc của Hội nghị quốc tế những người cộng sản và công nhân trên toàn thế giới, nhằm thành lập Quốc tế Cộng sản.
Khác với các Hội nghị thành lập Quốc tế I và Quốc tế II, Hội nghị thành lập Quốc tế Cộng sản bắt đầu diễn ra vào chiều ngày 2/3/1919, lần đầu đã có đại biểu một số nước phương Đông, đại diện cho các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa. Tham gia Đại biểu của các đảng cộng sản và các tổ chức cách mạng của 30 nước có mặt trong Hội nghị thành lập này, đã thông qua nhiều văn kiện quan trọng, như Cương lĩnh của Quốc tế Cộng sản, Luận cương và Báo cáo về dân chủ tư sản và chuyên chính vô sản, Tuyên ngôn của Quốc tế Cộng sản gửi những người vô sản toàn thế giới. Quyết định thành lập Quốc tế Cộng sản (ngày 4/3/1919) ghi rõ: "Hội nghị cộng sản quốc tế quyết định thành lập Quốc tế III và thông qua tên gọi là Quốc tế Cộng sản (...). Tất cả các Đảng, các tổ chức và các nhóm trong thời gian 8 tháng có quyền tuyên bố dứt khoát về việc tham gia vào Quốc tế III"...
Quốc tế Cộng sản đã tồn tại 24 năm 2 tháng 11 ngày (tính từ ngày thành lập 4/3/1919 đến khi tuyên bố tự giải thể vào ngày 15/5/1943) và trải qua 7 kỳ Đại hội. Đại hội I, từ ngày 2 đến ngày 6/3/1919. Đại hội II, từ ngày 19/7 đến ngày 7/8/1920. Đại hội III, từ ngày 22/6 đến ngày 12/7/1921. Đại hội IV, từ ngày 5/11 đến ngày 5/12/1922. Từ Đại hội V khoảng cách giữa các kỳ Đại hội doãng xa dần. Đại hội V, từ ngày 17/6 đến ngày 8/7/1924. Đại hội VI, từ ngày 17/7 đến 1/9/1928. Đại hội VIII, từ ngày 25/7 đến 20/8/1935. Đây là Đại hội cuối cùng.
Quốc tế III (tức Quốc tế Cộng sản) đã để lại những dấu ấn - đặc điểm nổi bật. Một là, Quốc tế Cộng sản đã trở thành một tổ chức quốc tế rộng lớn hơn so với các tổ chức tương tự trước nó và có sự tham gia của các tổ chức, các đảng cộng sản và công nhân ở các nước thuộc địa và phụ thuộc vào công việc chung của phong trào cộng sản, công nhân, phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới. Nếu trong Quốc tế I và Quốc tế II chỉ có các đảng công nhân (hoặc XHCN), các tổ chức cộng sản trong các nước tư bản chính quốc; thì chính nhờ điểm mới này, mà Quốc tế Cộng sản đã khác cả về chất và lượng so với trước. Hai là, Quốc tế Cộng sản ra đời trong bối cảnh lịch sử mới, đã có một nước Nga Xô-viết; tức là đã có một hình mẫu thực tế của Học thuyết Mác-Lênin và do đó, làm cho Quốc tế Cộng sản có sức mạnh tiềm ẩn lớn hơn, cuốn hút phong trào cách mạng thế giới. Ba là, lần đầu trong lịch sử, vấn đề dân tộc - thuộc địa trở thành một trong những vấn đề trung tâm được sự quan tâm chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng sản coi cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa là một bộ phận của cuộc cách mạng vô sản trên hpạm vi toàn cầu. Thậm chí, Quốc tế Cộng sản xem đó như là điều kiện tiên quyết để được gia nhập Quốc tế Cộng sản, khi yêu cầu các chính đảng, các tổ chức cách mạng trên thế giới phải thừa nhận và giúp đỡ các dân tộc thuộc địa trong quá trình đấu tranh giải phóng khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân. Điều này thể hiện đậm nét trong "Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa" được V.I.Lê-nin dự thảo và được Đại hội II Quốc tế Cộng sản thông qua năm 1920. Đó cũng là khi câu khẩu hiệu "Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại" của Mác và ăng-ghen đề ra trước đó, đã được bổ sung thành "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại"... Bốn là, trong quá trình tồn tại, Quốc tế Cộng sản đã đề ra và định hướng cho các đảng cộng sản và công nhân vận dụng Học thuyết Mác - Lênin vào điều kiện thực tiễn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân. Quốc tế Cộng sản đã tập hợp, liên kết phong trào cộng sản và công nhân chống chủ nghĩa phát-xít, ngăn chặn nguy cơ bùng nổ chiến tranh. Năm là, Quốc tế Cộng sản đã giúp đỡ các dân tộc thuộc địa truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân, dẫn đến thành lập nhiều Đảng Cộng sản trên các châu lục. Đến Đại hội VII (19350 đã có 75 Đảng Cộng sản và các tổ chức cách mạng trên thế giới tham gia vào Quốc tế Cộng sản. Sáu là, trong mối quan hệ với cách mạng Việt Nam, trong 7 kỳ Đại hội; những người cách mạng Việt Nam - với tư cách là đảng viên Đảng Cộng sản Pháp và đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương - đã tham gia 3 kỳ Đại hội của Quốc tế Cộng sản (ở các Đại hội V (1924); Đại hội VI (1928) và Đại hội VII vào năm 1935). Trong đó, Nguyễn ái Quốc và Lê Hồng Phong, bằng tài năng của chính mình, đã nổi bật dần lên giữa chính trường chính trị vô sản thế giới, chứng minh thêm năng lực xuất chúng trên cương vị chính trị - xã hội là các lãnh tụ của Đảng ta. Đáng chú ý thêm là ở Đại hội VII, Đảng Cộng sản Đông Dương đã tham dự với tư cách là một độc lập trực thuộc Quốc tế Cộng sản. Và, trong số 46 uỷ viên chính thức được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Quốc tế Cộng sản đại diện cho 23 nước trên thế giới; thì Lê Hồng Phong là một trong hai uỷ viên chính thức của các nước thuộc địa (cùng với một đại biểu khác của Palextin).
Chương 2
vấn đề dân tộc và thuộc địa đặt ra trong
Quốc tế Cộng sản
Trong Quốc tế I và Quốc tế II, do tầm nhìn hạn chế, có tính lịch sử - cụ thể, chỉ nhận ra vai trò của các Đảng Cộng sản, các tổ chức cách mạng khác ở các nước tư bản phát triển - chính quốc, nên chưa hề có vai trò của các Đảng Cộng sản, các tổ chức cách mạng ở các nước thuộc địa - phụ thuộc. Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) đã khắc phục được nhận thức phiến diện ấy trong quá khứ và xác định đúng đắn vấn đề dân tộc, thuộc địa; nhấn mạnh cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản thế giới (bắt đầu từ Đại hội lần thứ II). Luận điểm này, vấn đề này có ý nghĩa vô cùng lớn lao không chỉ đối với phong trào cách mạng giải phóng dân tộc nói chung; mà đặc biệt có ý nghĩa thức tỉnh, định hướng đối với cách mạng Việt Nam. Qua đó, cũng đã chỉ ra mối liên hệ tất yếu, bên trong của các bộ phận cấu thành nên cách mạng vô sản toàn thế giới. Khách quan, còn biểu hiện và thể hiện được sức mạnh nội lực bước đầu của cách mạng vô sản thế giới trước các thế lực thù địch của giai cấp tư sản, bắt buộc chúng thực hiện sự áp bức, bóc lột ở đâu trên trái đất này.
Vấn đề dân tộc và thuộc địa đặt ra trong Quốc tế Cộng sản còn cho thấy đây là một quá trình đấu tranh lâu dài, để đạt được đường lối đúng đắn. Sau khi V.I.Lênin qua đời, do nhận thức lệch lạc và có cả sự trì kéo của nhận thức kiểu cũ, một số nhân vật chủ chốt trong Quốc tế Cộng sản đã cố gắng xác lập quan điểm tả khuynh, cho rằng nhất thiết phải đánh đổ giai cấp phong kiến trước và luận giải về giai cấp phong kiến theo kiểu quy nạp "cả gói" rất giáo điều. Tại Đại hội V (1924), đấu tranh gay gắt trong nội bộ Quốc tế Cộng sản đã diễn ra. Đại biểu Đảng ta là đồng chí Nguyễn ái Quốc đã phát biểu rất thẳng thắn, ba lần đòi hỏi các Đảng Cộng sản lớn trên thế giới phải chú ý đến và giúp đỡ thiết thực cho các Đảng Cộng sản tại thuộc địa. Người còn cho rằng, để tập hợp lực lượng cách mạng, thì có thể liên kết cả với trung, tiểu địa chủ, tiểu tư sản, tư sản dân tộc yêu nước. Và, khẳng định rằng, trong "phương thức sản xuất á Đông", đặc điểm xã hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam có sự phân hoá giai cấp không rõ nét, không sâu sắc như các dân tộc phương Tây tư bản chủ nghĩa. Tuy bị chụp mũ là "hữu khuynh", nhưng chính những ý kiến xác đáng, đúng đắn, thể hiện "nẩy lửa" đó của Người, đã góp phần dẫn đến những sự kiện quan trọng về sau. Dù tại Đại hội VI (1928), vấn đề dân tộc và thuộc địa đã được Quốc tế Cộng sản nâng lên, thảo luận thành chiến lược, sách lược của cách mạng vô sản thế giới; Khẳng định cách mạng thuộc địa chống phong kiến là "rường cột" của cách mạng thuộc địa; nhưng Quốc tế Cộng sản vẫn không hiểu hết những luận điểm "vượt trước thời đại" của Nguyễn ái Quốc và do vậy đã chỉ đạo không phù hợp đối với cách mạng Đông Dương, cách mạng Việt Nam. Phải đến Đại hội VII (1935), tư tưởng "Tả khuynh" trên của Quốc tế Cộng sản mới được khắc phục, điều chỉnh một bước. Bằng chứng là vào lúc đó, Quốc tế Cộng sản đã tạm gác lại việc đánh đổ phong kiến đòi lại ruộng đất, giải phóng dân tộc; mà tập trung mọi thực lực để chống chủ nghĩa phát-xít và nguy cơ chiến tranh thế giới II, mở rộng các hình thức Mặt trận, đòi quyền lợi dân sinh, dân chủ cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
ở Việt Nam, Đảng ta, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của các Tổng Bí thư Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ, đã sáng tạo ra hình thức Mặt trận Dân chủ Đông Dương, tập hợp được đông đảo quần chúng, tiến hành cách mạng sâu rộng trong cả nước, giành được nhiều thắng lợi có ý nghĩa và phát triển thêm uy thế, uy lực của Đảng ta. Đó còn là sự đóng góp có ý nghĩa về mặt lý luận đối với Cách mạng vô sản thế giới.
Tóm lại, vấn đề dân tộc và thuộc địa đặt ra trong Quốc tế Cộng sản không chỉ có ý nghĩa là vấn đề lý luận trong nội bộ tổ chức này; mà còn có tác dụng tích cực và thiết thực đối với Cách mạng Việt Nam...
Chương 3
những tác động tích cực của Quốc tế Cộng sản đến cách mạng Việt Nam
Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) đã có những đóng góp to lớn đối với tiến trình phát triển buổi đầu của Cách mạng Việt Nam. Chí ít, sự tác động tích cực này được thể hiện trên 5 điểm chủ yếu, chúng tôi sẽ lần lượt trình bày tiếp dưới đây.
Thứ nhất, việc Quốc tế Cộng sản xác định đúng vấn đề dân tộc - thuộc địa đã định hướng sáng tỏ cho con đường cứu nước, giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Như ở các chương trên đã phần nào đề cập, việc Quốc tế Cộng sản xác định đúng vấn đề dân tộc, thuộc địa; bổ sung khẩu hiệu của K.Mác và F.ăng-ghen đề ra trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại"; thông qua Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa do V.Lê-nin khởi thảo và các "Điều kiện gia nhập Quốc tế Cộng sản"; coi cách mạng giải phóng dân tộc là một bộ phận không thể tách rời của cách mạng vô sản tại Đại hội làn thứ II của Quốc tế Cộng sản đã có một ý nghĩa to lớn đối với phong trào cách mạng toàn thế giới, đặc biệt có ý nghĩa dẫn đường, định hướng, thức tỉnh đối với Cách mạng Việt Nam - nhất là đặt trong bối cảnh lúc đó ở nước ta có rất nhiều xu hướng cách mạng, nhiều học thuyết cách mạng tràn vào và thực tiễn cách mạng thì vẫn trong trạng thái "bế tắc như không có đường ra".
Trước khi Quốc tế Cộng sản thành lập (1919), phong trào cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam đã phát triển mạnh. Hàng loạt nhân sĩ, trí thức; nhiều sĩ phu phong kiến yêu nước đã anh dũng, mưu lược tập hợp lực lượng trong nước đứng lên đấu tranh chống Pháp; hoặc cố đi ra nước ngoài "cầu viện", tìm cách chống lại chúng và bè lũ tay sai. Cùng lúc, ở Việt Nam, có cả ba xu hướng cách mạng cùng tồn tại. Đó là cách mạng theo con đường quân chủ lập hiến; Cách mạng theo con đường dân chủ tư sản và cách mạng theo con đường vô sản. Song, cứu nước và giải phóng dân tộc theo con đường nào là "chân chính nhất, cách mạng nhất, chắc chắn nhất" thì chưa được xác định rõ. Trong khi đó, hằng ngày lại phải đối phó với kẻ thù mạnh hơn, có kinh nghiệm xâm lược và thống trị, có tiềm lực kinh tế, quân sự và cả sự liên kết quốc tế của các thế lực đế quốc, thực dân. Việc tranh giành ảnh hưởng về đường lối như thế, tất nhiên sẽ dẫn đến sự chia rẽ, phân rã và cuối cùng các phong trào cách mạng này hầu hết đều bị kẻ thù dìm trong biển máu, thất bại cay đắng, dù có thừa ý chí nhiệt huyết yêu nước và hành động dũng cảm, bất khuất.
Việc Quốc tế Cộng sản coi vấn đề dân tộc - thuộc địa; vấn đề tăng cường lãnh đạo- chỉ đạo, giúp đỡ toàn diện, phối hợp hành động giữa cách mạng chính quốc với cách mạng thuộc địa là một trong những nhiệm vụ quan trọng bậc nhất, nằm ở vị trí trung tâm chú ý của Quốc tế Cộng sản đã định hướng cho các lực lượng yêu nước và Cách mạng Việt Nam; giúp họ đoàn kết lại với nhau, để tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc Việt Nam, thoát khỏi những lệch lạc trước đó. Người có vai trò lịch sử nghiên cứu kỹ những văn kiện cơ bản và tư tưởng chỉ đạo nói trên của Quốc tế Cộng sản là Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh. Và, chính Người, bằng Thiên tài chính trị của mình, đã sớm nhận ra tư tưởng vĩ đại của V.I.Lênin trong Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, xem đó là "chiếc cẩm nang thần kỳ", là "con đường" để giải phóng "hoàn toàn" dân tộc Việt Nam ta, phá vỡ sự bế tắc lịch sử đường thời mở đường đi tới thắng lợi ngày càng to lớn hơn cho Cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, Quốc tế Cộng sản đã giúp đỡ, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, từ đó thành lập được Đảng Cộng sản của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam. Ai cũng biết, tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản là cực kỳ quan trọng, là nền tảng bước đầu cho mọi thắng lợi. Song, chưa đủ! Để biến đường lối đó thành hiện thực, phải trải qua công tác tổ chức thực hiện lâu dài, phải có những điều kiện, bước đi, biện pháp cụ thể. Quốc tế Cộng sản đã tạo ra môi trường hoạt động quốc tế thuận lợi giúp đỡ Nguyễn ái Quốc và những người yêu nước Việt Nam trong việc truyền bá Chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, nghiên cứu khảo sát thực tế, học tập kinh nghiệm của các đảng, các phong trào, tạo diễn đàn đấu tranh để các đảng cộng sản ở chính quốc quan tâm đúng mức đến việc giúp đỡ cách mạng thuộc địa. Quốc tế Cộng sản đã giao nhiệm vụ cho các Đảng Cộng sản Pháp, Trung Quốc ấn Độ, Nhật Bản, Tiệp Khắc giúp đỡ in ấn tài liệu, chuyển tài liệu về Việt Nam. Tổ chức nhiều lớp học ở Trường Đại học phương Đông và các lớp ở Quảng Châu để bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cho phong trào. Chính nhờ sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản thông qua các phân bộ của mình, phong trào công nhân và phong trào yêu nước v thông qua các phân bộ của mình, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam có một bước chuyển biến căn bản từ tự phát sang tự giác, từ lẻ tẻ rời rạc đi đến có tổ chức để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam vào tháng 2 năm 1930, đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trọng đại trong lịch sử cách mạng hiện đại Việt Nam. Thiếu sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản hoặc trực tiếp hoặc thông qua các chi bộ của mình Chủ nghĩa Mác - Lênin khó có thể được truyền bá vào phong trào cộng sản và công nhân ở Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Những tác phẩm cơ bản nhất như "Cộng sản sơ giải", "Bệnh ấu trĩ tả khuynh", "Hai sách lược của Đảng Công nhân Nga trong cách mạng dân chủ tư sản", "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản" khó có thể vượt qua hàng rào kiểm soát của Chủ nghĩa thực dân Pháp. Nhờ có việc thâm nhập lý luận Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, Cách mạng Việt Nam đã có bước nhảy vọt về chất tạo ra những tiền đề cho việc chuẩn bị thành lập đảng mác-xít, lãnh đạo cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Thứ ba, Quốc tế Cộng sản đã tạo môi trường, điều kiện cho Nguyễn ái Quốc học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác - Lênin, khảo sát thực tế để xây dựng và hoàn thiện lý luận về con đường Cách mạng Việt Nam
Nhờ hoạt động thực tiễn trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế và trong Quốc tế Cộng sản, nhờ tiếp thu tận gốc Chủ nghĩa Mác - Lênin, Nguyễn ái Quốc đã có một bước chuyển biến căn bản từ chủ nghĩa yêu nước đến Chủ nghĩa Mác - Lênin vận dụng sáng tạo và phát triển Chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình lãnh đạo Cách mạng Việt Nam. Nhờ hoạt động trong Quốc tế Cộng sản với tư cách là uỷ viên đoàn Chủ tịch Hội đồng nông dân quốc tế phụ trách nông dân các thuộc địa, phụ trách Cục phương Nam trong Bộ phương Đông của Quốc tế Cộng sản, Nguyễn ái Quốc đã đi nghiên cứu thực tế ở 28 nước của 4 châu lục, điều mà ngay cả K.Mác, Ph.ăng-ghen và V.I.Lênin sinh thời cũng chưa thực hiện được. Chính từ tiếp thu lý luận và có thực tiễn nghiên cứu phong trào cách mạng các nước để so sánh, để kiểm chức mà Nguyễn ái Quốc đã có những vượt trội hơn tầm nhìn của nhiều chính khách đương thời trong đánh giá, sắp xếp lực lượng các giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc, trong sách lược Mặt trận, trong đánh giá xu thế vận động của lịch sử tiến hoá mà thực tiễn lịch sử hiện đại thế giới và Việt Nam đã minh chứng tính đúng đắn của nó. Chắc chắn nếu không tiếp thu tận gốc Học thuyết Mác - Lênin, nếu không có những cuộc khảo sát phong trào công nhân và nông dân khắp 4 châu lục, Nguyễn ái Quốc không thể có những chủ trương chiến lược và sách lược rất sớm, hết sức đúng đắn khác với Quốc tế Cộng sản đề ra ở Đại hội VI năm 1928.
Thứ tư, Quốc tế Cộng sản đã đào tạo cho Việt Nam nhiều cán bộ xuất sắc nắm giữ các trọng trách cao trong Đảng và Quốc tế
Quốc tế Cộng sản đã đào tạo và bồi dưỡng cho Cách mạng Việt Nam nhiều cán bộ ưu tú trở thành những lãnh tụ chân chính của Cách mạng Việt Nam. Thông qua việc phân công và đào tạo trong công tác thực tiễn và qua các trường lớp của Quốc tế Cộng sản (Trường Quốc tế Lênin, Trường Lao động Cộng sản Phương Đông) nhiều chiến sỹ cộng sản Việt Nam đã trưởng thành trở thành các lãnh tụ chính trị xuất sắc của Đảng ta: Hồ Chí Minh, Trần Phú, Hà Huy Tập, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, v.v.. Nhờ được đào tạo cơ bản và có hệ thống mà Đảng ta có bước trưởng thành vững chắc về lý luận. Một số chiến sỹ cộng sản Việt Nam đã trở thành những "giáo sư đỏ" tham gia vào việc đào tạo cán bộ cho Quốc tế Cộng sản.
- Trong 10 năm đầu thành lập Đảng, các chức vụ chủ chốt trong Đảng như Tổng Bí thư, Bí thư các Xứ uỷ, Tỉnh uỷ hầu hết là do cán bộ được đào luyện từ Quốc tế Cộng sản đảm đương. Chính vì vậy các chủ trương của Quốc tế Cộng sản được thực hiện có hiệu quả ở Đông Dương. Nhờ đó cho dù lịch sử có những biến động, những đổi thay ở mỗi giai đoạn cụ thể có thể khác nhau tác động đến sự cần thiết phải có sự điều chỉnh về đường lối nhưng nhìn chung đường lối chiến lược và sách lược mà Đảng ta đề ra ngay từ thời kỳ xây dựng Đảng là đúng đắn và chính xác. Điều đó có được chỉ có thể cắt nghĩa do sự trưởng thành của cán bộ đảng viên Việt Nam được đào tạo trách nhiệm cao trong Quốc tế Cộng sản. Nhiều đồng chí trở thành cán bộ giảng dạy lý luận của Quốc tế Cộng sản. Theo số liệu mới nhát, chỉ trong thời gian 10 năm tồn tại của Trường Lao động Cộng sản Phương Đông (1921-1931), Quốc tế Cộng sản đã đào tạo cho Đảng ta gần 100 cán bộ mà đại đa số các đồng chí này khi về nước nắm giữ các cương vị lãnh đạo chủ chốt của Đảng, lãnh đạo phong trào cách mạng từ cấp trung ương đến các Xứ uỷ, Thành uỷ, Tỉnh uỷ.
Thứ năm, Quốc tế Cộng sản đã chỉ đạo, uốn nắn và biểu dương kịp thời đối với Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Trong thời kỳ tồn tại của mình, Quốc tế Cộng sản thường xuyên chỉ đạo, uốn nắn kịp thời những vấn đề thuộc về đường lối, những vấn đề về chiến lược và chỉ đạo chiến lược dễ dẫn đến "tả" hoặc hữu khuynh trong thực hiện - một điều khó tránh khỏi với một Đảng còn non trẻ. Quốc tế Cộng sản đã đúng đắn khi phê bình sự công kích lẫn nhau của các tổ chức cộng sản và có chỉ thị cho Đảng về sự cần thiết phải hợp nhất Đảng theo đúng nguyên tắc của Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng sản cũng phê bình những biểu hiện "tả" khuynh trong Xô-viết Nghệ An và Xô-viết Hà Tĩnh cùng với một vài biểu hiện hữu khuynh, cầu an, dao động sau thất bại của phong trào. Với thái độ Bôn-sơ-vích và tính nhân đạo cộng sản, thái độ phê bình và chỉ trích, của Quốc tế Cộng sản là có tình có lý. Quốc tế Cộng sản vẫn biểu dương mặt tốt và thấy rõ cả những sai lầm khó tránh khỏi của mt Đảng còn trẻ tuổi. Thái độ này giúp cho những người cộng sản Việt Nam đứng vững và vượt qua khó khăn trong những năm khủng bố trắng của thực dân Pháp.
Nhờ có Quốc tế Cộng sản những người cộng sản Việt Nam có điều kiện tập hợp và kiểm điểm, đánh giá lại phong trào thời gian qua, xây dựng Chương trình hành động năm 1932. Quốc tế Cộng sản chủ trương và chỉ đạo mở nhiều cuộc thảo luận về các vấn đề cách mạng Đông Dương trong Quốc tế Cộng sản những năm từ 1931-1934 để chuẩn bị cho các văn kiện chính trị và phục hồi Đảng ở Đại hội I. Nhờ có Quốc tế Cộng sản, Đảng ta kịp thời chuyển hướng sang thời kỳ Mặt trận dân chủ và sáng tạo ra một hình thức Mặt trận thích hợp ở Đông Dương - Mặt trận dân chủ Đông Dương mà không sa vào hình thức Mặt trận nhân dân chống đế quốc nói chung. Sự tiếp thu đường lối Mặt trận của đảng ta trong và sau Đại hội VII của Quốc tế Cộng sản năm 1935 đã đánh dấu sự vượt qua tư tưởng giai cấp chống giai cấp để chuyển sang sự kết hợp giai cấp - dân tộc trong Cách mạng Việt Nam.
Quốc tế Cộng sản đánh giá cao và biểu dương kịp thời cách mạng Đông Dương trên toàn thế giới, giúp cho các đảng cộng sản và công nhân trên thế giới có thể học tập từ kinh nghiệm của phong trào Cách mạng Việt Nam. Cao trào 1930-1931 được Quốc tế Cộng sản xem như là "những hình thức chủ yếu" của phong trào cách mạng dân tộc, đã "giáng một đòn trực diện" vào hệ thống đế quốc chủ nghĩa, coi Xô-viết Nghệ -Tĩnh là "thành tích đặc biệt to lớn". Quốc tế Cộng sản lưu ý các đảng cộng sản đặc biệt là Đảng Cộng sản Pháp trong lĩnh vực công tác thuộc địa cần phải học tập nhiều ở các đồng chí Đông Dương. Chính vì vậy từ một phân bộ dự bị trực thuộc Đảng Cộng sản Pháp, tháng 4/1931 Quốc tế Cộng sản đã quyết định công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một bộ phận dự bị trực thuộc Quốc tế Cộng sản. Hàng chục bài báo được đăng trên Tạp chí Quốc tế Cộng sản đưa tin về tình hình và diễn tiến của phong trào cách mạng Đông Dương nhằm biểu dương phong trào, đúc rút kinh nghiệm hoạt động và kêu gọi sự đồng tình giúp đỡ của cộng đồng cộng sản quốc tế với Việt Nam. Quốc tế Cộng sản chỉ rõ "Phải triệt để tìm mọi phương kế thực hiện việc giúp đỡ những người Cộng sản Đông Dương chăm lo việc gây dựng lại cơ sở cho Đảng Cộng sản Đông Dương", chỉ cho những người Cộng sản Đông Dương hiểu rõ đường lối của Quốc tế Cộng sản cùng những phương pháp hoạt động khôn khéo để tập hợp lại thợ thuyền làm đội tiền phong cho cách mạng Đông Dương. Sự hy sinh của Tổng Bí thư Trần Phú được Quốc tế Cộng sản đánh giá là một tổn thất to lớn không gì bù đắp được của giai cấp vô sản Đông Dương mà còn là một tổn thất nặng nề của phong trào cộng sản quốc tế.
Chính sự ủng hộ mạnh mẽ, sự đồng tình biểu dương Đảng Cộng sản Đông Dương của Quốc tế Cộng sản mà nhiều Đảng, nhiều phong trào trên thế giới biết đến Đông Dương, Việt Nam, kính trọng hoạt động của Đảng ta và Nguyễn ái Quốc. Quốc tế Cộng sản đã công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương trở thành đội tiền phong của giai cấp vô sản Đông Dương đi theo đường lối của Quốc tế Cộng sản, trực tiếp lãnh đạo thợ thuyền, dân cày và lao động nghèo khổ xứ Đông Dương, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Đó là biểu hiện của Đảng Bôn-sơ-vích, Quốc tế Cộng sản công nhận Đảng Cộng sản Đông Dương là một bộ phận chính thức của Quốc tế Cộng sản tại Đại hội VII và bầu đồng chí Lê Hồng Phong là uỷ viên chính thức và là một trong hai uỷ viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản là người các nước thuộc địa.
Chương 4
một số hạn chế trong mối quan hệ giữa quốc tế
cộng sản với cách mạng Việt Nam
Mặc dù có những ảnh hưởng tích cực, quan trọng như đã nêu rõ ở chương 3, trong quá trình tồn tại hoạt động và chỉ đạo của mình, Quốc tế Cộng sản cũng có một số ảnh hưởng không thật tốt, thậm chí đôi khi là kìm hãm đối với Cách mạng Việt Nam. Đó là những biểu hiện giáo điều trong đánh giá về giai cấp tư sản nói chung và giai cấp tư sản dân tộc ở các thuộc địa nói riêng của Quốc tế Cộng sản ở Đại hội lần thứ VI (1928). Đây thực chất là đường lối giai cấp chống giai cấp, tuyệt đối hoá đấu tranh giai cấp tồn lưu trong tư duy chính trị lúc bấy giờ của Quốc tế Cộng sản.
Từ chỗ nhận định về sự phản bội của giai cấp tư sản trên phạm vi toàn thế giới, đặc biệt là giai cấp tư sản dân tộc ở các nước thuộc địa, nửa thuộc địa đã phản bội lại lợi ích của giai cấp công - nông, Quốc tế Cộng sản đã cho rằng giai cấp tư sản nói chung là đối tượng phải đánh đổ. Đặt giữa bối cảnh của chủ nghĩa phát-xít đã xuất hiện, nguy cơ chiến tranh thế giới do chúng gây ra đã đến gần, luận điểm "tả khuynh" này càng được củng cố và đã chi phối hành động của các đảng vô sản. ở Việt Nam và Đông Dương, đặc điểm ra đời và phân hoá trong giai cấp tư sản khác rất nhiều nước. Do vậy, khi phải thực hiện chủ trương này của Quốc tế Cộng sản đã dẫn đến những biểu hiện "tả khuynh" trong phong trào cách mạng vô sản ở nước ta, nhất là gây nên khó khăn trong tập hợp lực lượng cách mạng. Khẩu hiệu "Trí, phú, địa, hào - đào tận gốc, trốc tận rễ" trong giai đoạn cuối 1930 đến 1936 và bị lặp lại trong giai đoạn 1953 - 1955; rơi rớt cả đến thời kỳ chống xâm lược Mỹ là biểu hiện của tinh thần này. ở đây có bài học về hậu quả vận động các chủ trương của Quốc tế Cộng sản không phù hợp với thực tế Việt Nam; bài học về sự giáo điều, không chịu nghiên cứu - tổng kết thực tiễn - cụ thể. Thực ra, ở Việt Nam, tư sản dân tộc có hai khuynh hướng; Hoặc cách mạng;
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tieuluan.doc