MỤC LỤC
Chương I: Nguồn gốc - bản chất của lợi nhuận. 4
I. Các quan điểm về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận.
1. Quan điểm của trường phái trọng thương về lợi nhuận 4
2. Quan điểm của trường phái cổ điển. 4
a. Quan điểm của W. Petty. 4
b. Quan điểm của A.Smith. 5
c. Quan điểm của D.Ricardo. 6
d. Quan điểm của Samuelson. 6
II. Quan điểm của Mác về nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận
1. Qúa trình sản xuất ra giá trị thặng dư. 6
a. Mâu thuẫn của công thức của tư bản 6
b. Qúa trình sản xuất ra giá trị thặng dư 7
2. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa. Lợi nhuận 8
a. Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa 8
b. Lợi nhuận. Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận
3. Tỷ suất lợi nhuận-Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận. 9
III. Những hình thức chuyển hoá của giá trị thặng dư 10
1. Tỷ suất giá trị thặng dư. 10
2. Tỷ suất lợi nhuận 10
3. Lợi nhuận công nghiệp 11
4. Lợi nhuận thương nghiệp 11
5. Lợi tức và tỉ suất lợi tức 11
6. Lợi nhuận ngân hàng 11
7. Lợi tức cổ phần 12
8. Địa tô, lợi nhuận siêu ngạch 12
Chương 2: Vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam 13
I. Những tác động tích cực của lợi nhuận 13
1. Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển
2. Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển 14
3. Vai trò của lợi nhuận với quá trình tái sản xuất xã hội 14
4. Lợi nhuận là động lực hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 14
II. Ảnh hưởng tiêu cực của lợi nhuận 15
III. Lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam 16
1. Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế ở Việt Nam 16
2. Những khuyết điểm còn tồn tại. 17
3. Một số giải pháp nhằm nâng cao vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam 18
Kết luận. 20
Tài liệu tham khảo. 21
18 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3901 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luận rằng tỷ suất lợi nhuận giảm là do tăng lương.
Quan điểm của Samuelson về lợi nhuận:
Theo Samuelson lợi nhuận là phần thưởng cho việc gánh chịu rủi ro cho sự đổi mới, lợi nhuận là lợi tức độc quyền.
Ông cho rằng phần lớn giá trị lợi nhuận kinh doanh được báo cáo chỉ là phần lợi tức của các chủ sở hữu công ty có được do lao động của họ hay do vốn đầu tư của họ mang lại. Nếu loại bỏ tất cả các lợi tức ẩn thì ta được lợi nhuận thuần tuý và đó là phần thưởng cho các hoạt động đầu tư có lợi bất định. Doanh thu của công ty phụ thuộc rất lớn vào thăng chầm trong chu kỳ kinh doanh. Do các nhà đầu tư không thích các trường hợp rủi ro nên họ đòi hỏi phải có mức phí dự phòng cho các đầu tư không chắc chắn nhằm bù đắp cho những rủi ro này.
Quan điểm của Mác về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận:
Qúa trình tạo ra giá trị thặng dư:
Mâu thuẫn chung của công thức của Tư Bản:
Mac và Ănghen là người đầu tiên đã xây dựng nên lý luận về giá trị thặng dư một cách hoàn chỉnh. Qua thực tế xã hội tư bản lúc bấy giờ Mác thấy rằng giai cấp tư bản ngày càng giàu thêm còn giai cấp vô sản ngày càng nghèo khổ, ông đã đi tìm hiểu nguyên nhân vì sao có hiện tượng này. Cuối cùng ông đã phát hiện ra rằng nếu nhà tư bản đưa ra một lượng tiền là T vào quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá thì số tiền thu về là T’ lớn hơn số tiền ứng ra ( T’>T) hay T’=T+DT.
C.Mác gọi là giá trị thặng dư. Ông cũng thấy rằng mục đích của lưu thông tiền tệ với tư cách là tư bản không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị. Mục đích của lưu thông T-H-T’ là sự lớn lên của giá trị thặng dư nên sự vận động T-H-T’ là không có giới hạn. Mác gọi đó là Công thức chung của tư bản chủ nghĩa. Qua nghiên cứu Mác đi đến kết luận: “ Tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện bên ngoài lưu thông. Nó phải xuất hiện trong lưu thông và đồng thời cũng không phải trong lưu thông “ (*). Đây chính là mâu thuẫn chung của công thức tư bản.Để giải thích mâu thuẫn này Mác đã phát hiện ra nguồn gốc sinh ra giá trị hàng hoá - sức lao động. Cũng như mọi hàng hoá khác được qui định bởi số thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và do đó để tái sản xuát ra sức lao động, nó được qui thành thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra lượng tư liệu sinh hoạt mà người công nhân phải tiêu dùng để duy trì cuộc sống ở trạng thái bình thường. Hàng hoá sức lao động không chỉ có giá trị mà còn có giá trị sử dụng, giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động cũng chỉ thể hiện trong quá trình tiêu dùng sức lao đông. Qúa trình đó là quá trình sản xuất ra hàng hoá và đồng thời là quá trình tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân sức lao động. Phần lớn đó chính là giá trị thặng dư mà nhà Tư Bản chiếm đoạt. Vậy “ Gía trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm đoạt “. Như vậy hàng hoá sức lao động cũng có thuộc tính là nguồn gốc sinh ra giá trị. Đó là đặc điểm cơ bản nhất của hàng hoá sức lao động do với hàng hoá khác. Nó là chìa khoá để giải thích tính mâu thuẫn của công thức chung của tư bản.
Qúa trình sản xuất giá trị thặng dư (m):
Để nghiên cứu cốt lõi tạo nên giá trị thặng dư trong quá trình sản xuất của tư bản Mác đã chia tư bản thành hai bộ phận: Tư bản bất biến và tư bản khả biến Tư bản bât biến là hình thái tư liệu sản xuất mà giá trị được bảo tồn và chuyển vào sản phẩm tức là giá trị không biến đổi về lượng trong quá trình sản xuất. Ký hiệu là C. Còn bộ phận tư bản biểu hiện dưới hình thức giá trị sức lao động trong quá trình sản xuất đã tăng thêm về lượng gọi là tư bản khả biến. Ký hiệu là V.
Như vậy ta thấy muốn tư bản khả biến hoạt động được phải có một tư bản bất biến đã được ứng trước với những tỉ lệ tương đương. Và qua sự phân chia ta rút ra tư bản khả biến tạo ra giá trị thặng dư vì nó dùng để mua sức lao đông. Còn tư bản bất biến có vai trò gián tiếp trong việc tạo ra giá trị thặng dư. Từ đây ta có kết luận “ Gía trị của một hàng hoá bằng giá trị tư bản bất biến mà nó chứa đựng cộng với giá trị của tư bản khả biến ( tức là giá trị thậng dư đã được sản xuất ra ). Nó được biểu hiện bằng công thức:
Gía trị = C + V + m
C: Gía trị tư liệu sản xuất chuyển vào sản phẩm.
V: Gía trị sức lao động của người công nhân.
m: Gía trị thặng dư.Như thế nhà tư bản đã bỏ ra một lượng tư bản để tạo ra giá trị là C + V. Nhưng giá trị mà nhà tư bản thu vào là C+V+m. Phần m dôi ra ngoài là phần mà nhà tư bản bóc lột của người công nhân.
Để rõ hơn chúng ta về quá trình tăng thêm của giá trị, ta hãy nghiên cứu thí dụ sau:
Gỉa định để sản xuất 10kg sợi cần 10kg bông. giá 10kg bông là 10$. Để biến số bông đó thành sợi, một công nhân phải lao động trong 6h và hao mòn máy móc là 2$; giá trị sức lao động của công nhân trong 1ngày là 3$; trong 1h lao động người công nhân tạo ra lượng giá trị là 0,5$. Trong quá trình sản xuất sợi đã hao phí theo thời gian lao động xã hội cần thiết. Với giả đình như vậy, nếu như thời gian lao động chỉ kéo dài đến cái điểm mà ở đó bù đắp được giá trị sức lao động(6h), tức là bằng thời gian lao động cần thiết thì chưa có sản xuất ra giá trị thặng dư, do đó tiền chưa biến thành tư bản.
Trong thực tế quá trình lao động không dừng lại ở điểm đó. Gía trị sức lao động mà nhà tư bản phải trả khi mua và giá trị sức lao động đó có thể tạo ra cho nhà tư bản là hai đại lượng khác nhau. Nhà tư bản trả tiền mua sức lao động trong ngày. Vậy việc sử dụng sức lao động trong ngày đó thuộc về nhà tư bản.
Chẳng hạn nhà tư bản bắt công nhân lao động 12h trong một ngày thì chi phí sản xuất = Tiền bông+Hao mòn máy móc + Tiền mua sức lao động của công nhân=20+4+3=27$. Gia trị sản phẩm mới tạo ra =giá trị của bông +Gia trị của máy móc + giá trị do sức lao động của công nhân tạo ra= 20+4+12=30$. Như vậy toàn bộ chi phí nhà tư bản để mua tư liệu sản xuất và sức lao động là 27$. Trong 12h lao động công nhân tạo ra một lượng giá trị mới là 30$. Vậy 27$ ứng trước chuyển hoá thành 30$. Do đó tiền đã biến thành tư bản. Phần giá trị mới dôi ra này là giá trị thặng dư.
Chi phí sản xuất Tư Bản Chủ Nghĩa. Lợi nhuận:
Chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa:
Muốn tạo ra giá trị hàng hoá, tất yếu phải chi phí một số lao động nhất định bao gồm:
Lao động hiện tại, tức là lao động tạo ra giá trị mới (v+m ).
Lao động quá khứ.
Chi phí thực tế để tạo ra giá trị hàng hoá là c+v+m. Nhưng các nhà tư bản không quan tâm đến điều đó họ chỉ ứng tư bản để sản xuất ra hàng hoá do đó nhà tư bản chỉ xem hao phí hết bao nhiêu tư bản chứ không tính xem hết bao nhiêu lao động xã hội. Mác gọi chi phí đó là chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa, và ký hiệu bằng k ( k= c+v+m).
Vậy chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa là chi phí về tư bản mà nhà tư bản bỏ ra để sản xuất hàng hoá.
Khi xuất hiện chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa thì công thức giá trị hàng hoá (gt=c+v+m) sẽ chuyển thành gt=k+m. Giữa giá trị và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa có sự khác nhau về cả mặt lượng lẫn về mặt chất.
Về mặt lượng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn nhỏ hơn chi phí thực tế hay giá trị hàng hoá.
( c+v)<(c+v+m).
Về mặt chất chi phí thực tế là chi phí lao động, phản ánh đúng đầy đủ hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó, còn chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa chỉ phản ánh hao phí tư bản của nhà tư bản mà thôi.
Nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận:
Ta đã thấy giữa giá trị hàng hoá và chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa luôn luôn có một khoảng chênh lệch, nên sau khi tiêu thụ hàng hoá nhà tư bản không những bù đắp đủ số tư bản đã ứng ra mà còn thu đực một số tiền lời ngang bằng với giá trị thặng dư. Số tiền này được gọi là lợi nhuận. “ Gía trị thặng dư được so với toàn bộ tư bản ứng trước, được quan niệm là con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước sẽ mang hình thức chuyển hoá của lợi nhuận.
Nếu ta ký hiệu lợi nhuận là pt thì công thức: gt = c+v+m sẽ chuyển thành gt= k+m.(hay giá trị hàng hoá bằng chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa cộng với lợi nhuận.
Qua những phân tích trên ta có thể thấy nguồn gốc của lợi nhuận là kết quả bóc lột lao động của công nhân làm thuê. Đồng thời sự hình thành chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xoá nhoà sự khácnhau giữa c và v nên việc p sinh ra trong quá trình sản xuất nhờ bộ phận của v được thay thế bằng sức lao động bây giờ lại trở thành con đẻ của toàn bộ tư bản ứng trước. Do k luôn nhỏ hơn chi phí sản xuất thức tế nên nhà tư bản chỉ cần bán hàng hoá cao hơn chi phí sản xuất là đã có lợi nhuận. Nếu nhà tư bản bán hàng với giá bằng giá trị của nó thì m=p, trong trường hợp còn lại thì m > hoặc < p. Chính sự không nhất quán này đã che dấu quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa, che dấu nguồn gốc thực sự của lợi nhuận.
Tỷ suất lợi nhuận. Những nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận:
Tỷ suất lợi nhuận là tỷ số tính theo % giữa giá trị thặng dư và toàn bộ tư bản ứng trước:
m
P’= .100%
c+v
Tỷ suất lợi nhuận không phản ánh trình độ bóc lột của nhà tư bản mà nói lên mức lãi của việc đầu tư cho nhà tư bản biết tư bản của họ đầu tư vào đâu thì có lợi. Do đó việc thu lợi nhuận và theo đuổi tỷ suất lợi nhuận là động lực thúc đẩy các nhà tư bản, là mục tiêu cạnh tranh của các nhà tư bản.
Do mục tiêu đạt được lợi nhuận cao nhất nên giữa các nhà tư bản luôn diễn ra sự cạnh tranh gay gắy giữa nội bộ ngành và giữa các ngành nhằm mục tiêu tìm nơi đầu tư có lợi hơn để thu được lợi nhuận siêu ngạch.
Các nhân tố ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận:
Tỷ suất giá trị thặng dư.
Sự tiết kiệm của tư bản bất biến.
Cấu tạo hữu cơ của tư bản.
Tốc độ chu chuyển của tư bản.
Những hình thức chuyển hoá của giá trị thặng dư:
Như ta đã biết, giá trị thặng dư và lợi nhuận không hoàn toàn đồng nhất nhưng chúng đều có nguồn gốc từ lao động thặng dư. Gía trị thặng dư là phần giá trị mà nhà Tư Bản bóc lột không công của người công nhân. Có thể nói chinh giá trị thặng dư biểu hiện sự bóc lột sản xuất, chứng minh công thức, mâu thuẫn tư bản một cách chính xác và khoa học. Trước Mác các nhà kinh tế học đã hình dung ra giá trị thặng dư nhưng họ chưa có đủ lý luận để diễn đạt mà chủ yếu biểu hiện quan điểm của mình trong vấn đề thu nhập tiền lương. Chỉ đến Mác lý thuyết giá trị thặng dư mới được xây dựng một cách hoàn chỉnh.
Trong xã hội tư bản giá trị thặng dư chuyển hoá thành những hình thái sau:
Tỷ suất giá trị thặng dư:
Là tỷ số giữa giá trị thặng dư và tư bản khả biến. Ký hiệu là m’.
m.100%
m’=
v
Tỷ suất giá trị thặng dư vạch ra một cách chính xác trình độ bóc lột công nhân. Thức chất đây là tỉ lệ phân chia lao động thành thời gian lạo động cần thiết và lao động thặng dư. Nhưng nó không biểu hiện lượng tuyệt đối của sự bóc lột tức là khối lượng giá trị thặng dư.
Tỷ suất lợi nhuận:
Đối với người chủ xí nghiệp thì mức lãi cao hay thấp là do tỷ suất lợi nhuận quyết định. Tỷ suất lợi nhuận là biểu hiện của tỷ số giữa giá trị thặng dư và tổng tư bản. Ký hiệu: P’.
m.100
P’=
k
Sự chuyển hoá giá trị thặng dư thành tỷ suất lợi nhuận được hoàn thành ở sự chuyển hoá giá trị thăng dư thành lợi nhuận.
Lợi nhuận công nghiệp:
Về bản chất là phần giá trị do công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm không và phần giá trị này được đem bán trên thị trường để thu được một số tiền lời sau khi trừ đi chi phí sản xuất. Ngày lao động của công nhân được chia thành hai phần: một phần làm ra giá trị tương đương với số lương mà nhà tư bản trả cho anh ta và một phần tạo ra giá trị thặng dư. Vì mong muốn lợi nhuần cao nên nhà Tư Bản Công Nghiệp luôn tìm cách giảm thời gian lao động tất yếu tăng thời gian lao động thặng dư bằng cách làm tăng năng suất lao động. Thời gian lao động thặng dư càng nhiều lợi nhuận của nhà tư bản càng cao. Đây là hình thái gần nhất dễ thấy nhất với giá trị thặng dư và lợi nhuận công nghiệp là hình thái chung.
Lợi nhuận thương nghiệp:
Khác với tư bản thương nghiệp trước chủ nghĩa tư bản, tư bản thương nghiệp dưới chủ nghĩa tư bản là một bộ phận của tư bản công nghiệp tách rời ra để phục vụ quá trình lưu thông hàng hoá của tư bản công nghiệp. Tư bản thương nghiệp chỉ hạn chế ở chức năng mua và bán nó không sáng tạo ra gía trị và giá trị thặng dư. Nhìn bề ngoài lợi nhuận thương nghiệp là do mua rẻ bán đắt do lưu thông tạo ra. Nhưng thực chất “ Lợi nhuận thương nghiệp là một phần giá trị thặng dư của nhà tư bản công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp “(*)(C.Mac: Tư bản, NXB Sự thật, HN,1962,QIII tập I), vì tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lĩnh vực lưu thông, đó là một khâu một giai đoạn của quá trình sản xuất, không có giai đoạn đó thì quá trình tái sản suất không thể tiếp tục được. Và dĩ nhiên nhà tư bản thương nghiệp không hoạt động không công và họ cũng đòi hỏi phải có lợi nhuạn. Điều này buộc nhà tư bản công nghiệp phải nhường một phần lợi nhuận của mình cho nhà tư bản thương nghiệp.
Lợi tức và tỉ suất lợi tức:
Trong quá trình tuần hoàn và chu chuyển của tư bản công nghiệp luôn có số tư bản tạm thời nhàn rỗi thí dụ như tiền trong quĩ khấu hao của tư bản cố định, tiền để mua nguyên vật liệu nhưng chưa đến kỳ ; bộ phận giá trị thặng dư tích luỹ ( dưới dạng tiền ) để mở rộng sản xuất nhưng chưa sử dụng...số tiền nhàn rỗi đó không đem lại một thu nhập nào cho nhà tư bản. Nhưng đối với nhà tư bản tiền phải đẻ ra tiền. Vì vậy nhà tư bản phải cho người khác vay để kiếm lãi. Trong cùng thời gian đó có những nhà tư bản khác rất cần tiền để mở rộng sản xuất do đó họ có nhu cầu vay. “ Tư bản cho vay là tư bản tiền tệ mà người chủ của nó nhường cho người khác sử dụng trong một thời gian để nhận được một khoản lời nào đó, Số lời đó được gọi là lợi tức “. Bản chất của lợi tức là một phần lợi nhuận bình quân mà nhà tư bản đi vay đã đưa cho nhà tư bản cho vay sử dụng. Vì vậy nguồn gốc của lợi tức là một phần giá trị thặng dư do công nhân sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất.
Lợi tức vận động theo qui luật tỉ suất lợi tức. Tỉ suất lợi tức là tỉ lệ tính theo % giữa tổng số lợi nhuận bình quân, tỉ lệ phân chia lợi nhuận thành lợi tức và thu nhập của xí nghiệp mà nhà tư bản hoạt động, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu của tư bản cho vay.
Lợi nhuận ngân hàng:
Lợi nhuận ngân hàng là thu nhập của nhà tư bản ngân hàng là hình thái biến tướng riêng biệt của giá trị thặng dư m. Nghiệp vụ chính của ngân hàng là thu nhận tiền gửi cho vay. Lợi tức cho vay của ngân hàng cao hơn lợi tức tiền gửi, con số chênh lệch này là nguồn gốc lợi nhuận của ngân hàng. Tuy vậy không phải toàn bộ con số chênh lệch ấy đều là lợi nhuận của ngân hàng, lợi nhuận ngân hàng mà lợi nhuận ngân hàng chỉ là con số còn lại sau khi đã trừ đi một phần để bù vào chi phí nghiệp vụ ngân hàng.
Ngân hàng trực tiếp cho các nhà sản xuất, kinh doanh vay. Nhà tư bản lấy số tiền đó để sản xuất ra giá trị thặng dư, sau đó đem một phần m thu được thành lợi tức trả cho ngân hàng. Do đó lợi nhuận ngân hàng cũng là giá trị thặng dư.
Sự cạnh tranh giữa các ngành trong xã hội tư bản cũng là do lợi nhuận ngân hàng bằng lợi nhuận binh quân, nếu không chủ ngân hàng sẽ chuyển sang kinh doanh ngành khác.
Lợi tức cổ phần:
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản gặp phải một giới hạn của qui mô tư bản cá biệt. Vì vậy muốn mở rộng sản xuát và xây dựng các xí nghiệp lớn thì phải liên kết nhiều nhà tư bản cá biệt lại với nhau thành công ty cổ phần. “ Công ty cổ phần là một xí nghiệp lớn tư bản chủ nghĩa mà vốn được hình thành từ sự đóng góp của nhiều nguồn thông qua phát hành cổ phiếu. Cổ phiếu là một thứ chứng khoán có giá, ghi nhạn quyến sở hữu cổ phần đồng thời bảo đảm cho người chủ sở hữu có quyền lĩnh một phần thu nhập của công ty tương ứng với số tiền ghi trên cổ phiếu. Như ta đã biết lợi nhuận của công ty có nguồn gốc từ giá trị thặng dư do người công nhân làm ra. Vì vậy thực chất lợi tức cổ phần cũng bắt nguồn từ giá trị thặng dư.
Địa tô, lợi nhuận siêu ngạch:
Cũng như các nhà tư bản kinh doanh trong công nghiệp, các nhà tư bản kinh doanh trong nông nghiệp cũng phải thu được lợi nhuận bình quân. Nhưng muốn kinh doanh trong nông nghiệp thì họ phải thuê ruộng đất của địa chủ. Vì vậy, ngoài lợi nhuận bình quân ra, nhà tư bản kinh doanh phải thu thêm được một phần giá trị thặng dư dôi ra ngoài lợi nhuận bình quân đó, tức là lợi nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạch này tưông đối ổn định và lâu dài và họ phải trả nó cho chủ ruộng đất dưới hình thái địa tô tư bản chủ nghĩa.
Vậy, địa tô tư bản chủ nghĩa là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất.
Chương 2: vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam.
I.Những tác động tích cực của lợi nhuận:
1.Lợi nhuận thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển:
Các nhà Tư Bản luôn mong muốn tạo ra ngày càng nhiều lợi nhuận. Với mụch đích đó, trước đây họ có thể tạo ra lợi nhuận bằng cách kéo dài ngày lao động của công nhân nhưng phương pháp đó gặp phải sự phản đối quyết liệt vì vậy muốn có thêm lợi nhuân buộc các nhà Tư Bản phải chuyển sang một phương pháp bóc lột khác đó là áp dụng kỹ thuật mới để tăng năng suất lao động đồng thời tăng thời gian lao động thặng dư của người công nhân trong điều kiện giờ làm không thay đổi.Yếu tố này đã giúp cho nhà Tư Bản không chỉ thu được lợi nhuận đơn thuầnmà còn thu được lợi nhuận siêu ngạch. Nhưng để có được điều này các buộc nhà Tư Bản phải đầu tư ngày càng nhiều vào vấn đề nghiên cứu khoa học, đây là một điều kiện hết sức thuận lợi đối với sự phát triển của khoa học kỹ thuật qua đó tạo điều kiện thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển một cách nhanh chóng.
Theo bước tiến của sự phát triển về khoa học kỹ thuật. những người công nhân là nhưng người trực tiếp sử dụng vận hành công nghệ mới cũng buộc phải không ngừng nâng cao trình độ tay nghề nếu không họ sẽ bị đào thải bởi qui luật phát triển. Còn về các nhà Tư bản, họ hiểu rằng để đạt được hiệu quả cao, tận dụng được hết các chức năng của công nghệ tiên tiến thì phải có một đội ngũ công nhân lanh nghề có trình độ kỹ thuật cao. Vì vậy yêu cầu cấp thiết là phải nâng cao trình độ của bản thân nhà tư bản và của công nhân đã diễn ra. Qua đó trình độ chuyên môn chung trong các nganh nghề nói riêng và cả xã hội nòi chung từng bước được nâng cao.
2.Lợi nhuận thúc đẩy quan hệ sản xuất phát triển:
Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất có quan hệ biện chứng với nhau, khi lực lượng sản xuất phát triển thì nó kéo theo sự phát triển của quan hệ sản xuất và ngược laị.
Do tác động của lợi nhuận, do sự phân chia lợi nhuận dưới nhiều hình thức khác nhau một cách hết sức chặt chẽ giữa các bên tham gia vào quá trình phân chia đã làm cho chế độ sở hữu ngày càng được củng cố và phát triển. Quan hệ sở hữu từng bước được thắt chặt hơn, rõ ràng hơn giữa các nhà Tư Bản và người lao động nói riêng, giữa các cá nhân trong xã hội nói chung.
Bên cạnh mục đích lợi nhuận luôn đặt cácnhà kinh tế, các tổ chức kinh tế trước yêu cầu hiệu quả, làm thế nào để chi phí ít nhât và thu được lợi nhuân lớn nhất. Điêu đó đòi hỏi tính chuyên môn hoá cao và sự sắp sếp, tổ chức thiết lập lại các bộ phận quản lý để quá trình hoạt động được nhịp nhàng thông suốt, tránh sự trì trệ hạn chế bớt một bộ phận quản lý cồng kềnh. Thông qua những hoạt động trên quan hệ sản xuất trong xã hội dần dân từng bước phát triển.
3.Vai trò của lợi nhuận với quá trình tái sản xuất xã hội:
Để hiểu được vai trò của lợi nhuận đối với quá trình tái sản xuất xã hội trước tiên ta hãy xem xét điều kiện để tái sản xuất xã hội diễn ra là gì ?
Như ta đã biết muốn tái sản xuất mở rộng thì phải có nhiều vốn. Muốn vậy phải tích luỹ vốn.
Tích luỹ vốn gắn liền với tái sản xuất mở rộng và trở thành qui luật kinh tế chung của các hình thái kinh tế xã hội có tái sản xuất mở rộng.
Tích luỹ vốn nói chung xét về thực chất là sự chuyển hoá một phần giá trị của sản phẩm thặng dư do lao động thặng dư tạo ra thành vốn phụ thêm để mở rộng sản xuất. Do vậy nguồn tích luỹ vốn là giá trị của sản phẩm thặng dư do lao động thặng dư tạo ra trong quá trinh sản xuất. Như vậy dù ở dạng nào thì vốn cũng là một phần lợi nhuận và lợi nhuận đóng vai trò quyết định cho quá trình tái sản xuất xã hội.
4.Lợi nhuận là động lực hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường:
Mục tiêu duy nhất của mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường là đáp ứng được tối đa nhu cầu của thị trường và xã hội nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao nhất – lợi nhuận tối đa. Một doanh nghiệp tiến hành kinh doanh có hiệu quả là một doanh nghiệp thoả mãn được tối đa nhu cầu của thị trường về hàng hoá hoặc dịch vụ mình kinh doanh trong giới hạn cho phép của nguồn lực hiện có và thu được lợi nhuận nhiều nhất.
Các nhà doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường luôn được đặt trong một môi trường cạnh tranh gay gắt. Có nghĩa là sự phát triển đi lên của doanh nghiệp này sẽ kéo theo sự phát triển suy sụp của doanh nghiệp khác. Yếu tố quyết định sự tồn tại của các doan nghiệp chính là lợi nhuận. Chính vì vậy mà ba vấn đề cơ bản trong nền kinh tế là: Sản xuất cái gì - Sản xuất như thế nào – Sản xuất cho ai ( What – How – Whom ) được các nhà kinh doanh quan tâm hàng đầu. Họ không thể lựa chọn kinh doanh những hàng hoá - dịch vụ không thu được lợi nhuận. Trên họ luôn theo đuổi những ngành sản xuất dịch vụ có tỉ suất lợi nhuận cao đồng thời không ngừng tìm mọi biện pháp để tăng sức cạnh tranh trên thị trường. Khi đó cơ cấu lợi nhuận của các ngành cũng thay đổi theo. Như vậy lợi nhuận doanh nghiệp là yếu tố quyết định sự tồn tại của mọi doanh nghiệp, nó chi phối các quyết định của doanh nghiệp về ba vấn đề cơ bản: Sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai.
II.ảnh hưởng tiêu cực của lợi nhuận:
Việc sử dụng các thành tựu mới của khoa học kỹ thuật đòi hỏi qui mô sản xuất và tư bản rất lớn. Vì vậy đặt ra yêu cầu phải tích tụ và tập trung sản xuất. Do mục tiêu lợi nhuận dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt làm cho tư bản loại vừa và nhỏ phá sản còn tư bản lớn thì càng lớn. Khi sự tích tụ và tập trung sản xuất tới một mức cao sẽ dẫn tới sự hình thành các tổ chức độc quyền. Do đó phá vỡ thế cạnh tranh hoàn hảo, gây nên tình trạng mất hiệu quả của nền kinh tế. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì cấu tạo hữu cơ của tư bản càng cao do đó tỷ suất lợi nhuận chung giảm xuống. Đây là kết quả không một nhà tư bản nào mong muốn cả. Do vậy họ tìm mọi cách đẻ kìm hãm sự giảm sút của tỷ suấ lợi nhuận, vì vậy dẫn đến việc công nhân bị áp bức bóc lột nặng nề. Nhà tư bản không quan tâm đến sức khoẻ của công nhân. Các chủ xí nghiệp bắt công nhân làm việc trong những điều kiện dưới mức trung bình tối thiểu, nguy hiểm... quả như lạm. Những hành động đó làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng trở nên sâu sắc.
Lợi nhuận cũng có những tác động xấu đến nền kinh tế thị trường. Lợi nhuận sự giàu có làm cho các nhà Tư Bản, không ít doanh nghiệp quên mất tư cách đạo đức của mình, vi phạm truyền thống tốt đep của dân tộc, của gia đình để làm những việc trái với đạo đức, pháp luật, làm mai một dần các nganh nghề cổ truyền làm lung lay các truyền thống văn hoá có từ lâu đời. Đồng thời việc chạy theo lợi nhuận keo theo sự phát triển của công nghiệp cùng với những cặn bã mà nó đã và đang làm ô nhiễm bầu không khí, ô nhiễm môi trường sống tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt;các nhà tư sản đổ xô vào các nước đang phát triển để chia xẻ bớt gánh nặng này. Họ xuất sang các nước này những phương tiện lạc hậu gây ô nhiễm, tận dụng nguồn tài nguyên nhân lực phong phú ở những nước này. Nhân dân ở các nước đang phát triển bị bóc lột triệt để đồng thời để lại những hậu quả nghiêm trọng khó có thể khắc phục đối với môi trường hiện nay và trong tương lai như: Hiệu ứng nhà kính, thủng tầng ôzôn, trái đất nóng lên... Đây là một vấn đề nhức nhối cấp thiết mang tính toàn cầu. Nếu chúng ta không ngăn chặn đưa ra những biện pháp kịp thời thì thế giới sẽ không còn sự sống.
Bên cạnh đó lợi nhuận làm nảy sinh các hành vi tiêu cực khác của xã hội như tệ nạn buôn lậu làm hàng giả, tệ nạn tham nhũng... cũng ngày một gia tăng. Các tệ nạn xã hội như mại dâm ma tuý bạo lực cũng mọc ra ở khắp nơi...
Nhìn chung lợi nhuận có vai trò rất lớn đối với nền kinh tế trị trường nói riêng cũng như toàn xã hội nói chung. Nhưng cũng như mọi sự vật hiện tượng khác lợi nhuận có tính hai mặt: Mặt tích cực và mặt tiêu cực. Vì vậy vần đề đặt ra là ta phải phát triển mặt tích cực hạn chế mặt tiêu cực để phát huy vai trò của lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
III. Lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam.
Sự chuyển đổi cơ chế kinh tế ở Việt Nam:
. Cơ chế kinh tế là khái niệm dùng để chỉ sự tương tác giữa các yếu tố kết thành hệ thống mà đó là hệ thống có thể hoạt động. Nó mang tính khách quan vốn có của một nền kinh tế. Ta có thể dựa vào cơ chế kinh tế để phân loại nền kinh tế.
Trước năm 1986 nước ta áp dụng mô hình kinh tế chỉ huy, Nhà Nước kiểm soát hầu hết các phương tiện sản xuất cũng như giá cả tiền lương và sự phân phối hàng hoá dịch vụ sao cho doang nghiệp nhà nước có thể chiếm đoạt được lợi nhuận độc quyền mà phần lớn nguồn lợi nhuận đó được chuyển vào Ngân sách NhàNước như một thứ thuế ngầm. Mọi hoạt động của các đơn vị kinh doanh đều dựa vào Nhà Nước: Kinh phí do Nhà Nước cấp, sản xuất kinh doanh lỗ được nhà nước bù ;
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 50177.doc