I.Lời mở đầu: 1
II.Một số khái niệm chung: 1
1.Quan hệ tài sản vợ chồng: 1
2.Chế độ tài sản vợ chồng: 2
III.Một số vấn đề lí luận về chế độ tài sản vợ chồng: 2
1.Căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng 2
2 Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung 3
3.Nguyên tắc chia tài sản giữa vợ chồng theo luật định: 3
3.1Chia taì sản vợ chồng trong thời kì hôn nhân: 3
3.2 Chia tài sản vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết: 4
3.3 Chia tài sản vợ chồng khi vợ chồng li hôn: 4
4.Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản riêng: 5
III.Những vướng mắc bất cập về chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam và hướng hoàn thiện: 5
1.Về quy định tài sản riêng của vợ chồng: 5
2.Về quyền khởi kiện của người thứ ba: 7
3. Đóng góp vào việc thực hiện nghĩa vụ: 8
4.Nguyên tắc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân: 9
5. Quyền và lợi ích hợp pháp của các con khi bố mẹ chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân: 12
6.Xác định tài sản khi vợ chồng bị tuyên bố chết mà sau đó trở về: 12
7.Xác định nợ chung,nợ riêng 14
8.Nguyên tắc chia đôi tài sản: 15
9.Đảm bảo tài sản chung của vợ chồng khi li hôn: 15
10.Nghĩa vụ của vợ chồng được thực hiện từ tài sản riêng: 16
11.Xác định tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp vợ chồng đã chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân,sau đó lại khôi phục chế độ tài sản chung: 17
III.Lời kết: 18
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5914 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Những vướng mắc bất cập về chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam và hướng hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ dân sự riêng mà họ không có tài sản riêng hoặc tài sản riêng không đủ để để thực hiện nghĩa vụ thì họ có thể chia tài sản chung để giúp người có nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ của mình.
Trường hợp có lý do chính đáng khác:việc xác định có lý do chính đáng để chia tài sản chung của vợ chồng khi hôn nhân tồn tại là xuất phát từ lợi ích của gia đình,lợi ích vợ chồng hoặc của người thứ ba.Vì vậy lý do chính đáng đê chia tài sản chung vợ chồng tùy từng trường hợp khác nhau.
Việc chia tài sản sản chung vợ chồng nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản không được chấp nhận.
3.2 Chia tài sản vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết:
Điều 31 luật HN&GD quy định quyền thừa kế tài sản giữa vợ chồng
+ Vợ, chồng có quyền thừa kế tài sản của nhau theo quy định của pháp luật về thừa kế.
+Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Toà án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thoả thuận cử người khác quản lý di sản.
+ Trong trường hợp yêu cầu chia di sản thừa kế mà việc chia di sản ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của bên vợ hoặc chồng còn sống và gia đình thì bên còn sống có quyền yêu cầu Toà án xác định phần di sản mà những người thừa kế được hưởng nhưng chưa cho chia di sản trong một thời hạn nhất định; nếu hết thời hạn do Toà án xác định hoặc bên còn sống đã kết hôn với người khác thì những người thừa kế khác có quyền yêu cầu Toà án cho chia di sản thừa kế.
3.3 Chia tài sản vợ chồng khi vợ chồng li hôn:
Theo điều 95 Luật HN&GD 2000 thì:
+Việc chia tài sản khi ly hôn do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết. Tài sản riêng của bên nào thì thuộc quyền sở hữu của bên đó.
+Việc chia tài sản chung được giải quyết theo các nguyên tắc sau đây:
-Tài sản chung của vợ chồng về nguyên tắc được chia đôi, nhưng có xem xét hoàn cảnh của mỗi bên, tình trạng tài sản, công sức đóng góp của mỗi bên vào việc tạo lập, duy trì, phát triển tài sản này. Lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập;
-Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;
-Bảo vệ lợi ích chính đáng của mỗi bên trong sản xuất, kinh doanh và nghề nghiệp để các bên có điều kiện tiếp tục lao động tạo thu nhập;
-Tài sản chung của vợ chồng được chia bằng hiện vật hoặc theo giá trị; bên nào nhận phần tài sản bằng hiện vật có giá trị lớn hơn phần mình được hưởng thì phải thanh toán cho bên kia phần giá trị chênh lệch.
+Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết.
+Ngoài ra luật hôn nhân gia đình còn dự liệu các trường hợp như: Chia tài sản trong trường hợp vợ chồng sống chung với gia đình mà ly hôn, Chia quyền sử dụng đất của vợ, chồng khi ly hôn, Chia nhà ở thuộc sở hữu chung của vợ chồng.
4.Quyền sở hữu của vợ chồng đối với tài sản riêng:
Luật hôn nhân gia đình khẳng định vợ chồng có quyền có tài sản riêng và xác định rõ nguồn gốc phát sinh tài sản riêng.Đó là những tài sản mà vợ chồng có được từ trước khi kết hôn được tặng cho riêng hoặc được thừa kế riêng.Vợ chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản vào khối tài sản chung.
III.Những vướng mắc bất cập về chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam và hướng hoàn thiện:
Mặc dù đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần nhưng Luât Hôn nhân và Gia đinh Việt Nam cho đến nay, vẫn còn nhiều vướng mắc được đặt ra,gây khó khăn trong việc giải quyết các tranh chấp tài sản trong các vụ án li hôn,hay áp dụng luật vào thực tế của các cơ quan có thẩm quyền.Vấn đề chế độ tài sản vợ chồng theo luật hôn nhân gia đình cũng là một vấn đề gây nhiều tranh cãi.
1.Về quy định tài sản riêng của vợ chồng:
-Luật hôn nhân và gia đình quy định về tài sản chung và tài sản riêng của vợ chồng. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Điều 32 khoản 1,quy đinh tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 29 và Điều 30 của Luật này.
Theo một số nhà nghiên cứu một khi đã có định nghĩa tài sản chung, chỉ cần nói rằng những tài sản nào không được luật coi là tài sản chung, thì là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Thế nhưng, ngoài việc thừa nhận những tài sản riêng do tính chất, luật viết lại xây dựng định nghĩa tài sản riêng bên cạnh định nghĩa tài sản chung. Cuối cùng, có những tài sản không được ghi nhận tại bất kỳ định nghĩa nào và cũng không hẳn có tính chất riêng, do đó, không thể được biết thuộc về cả vợ và chồng hay chỉ thuộc về riêng một người.
- Luật HN&GD quy định tài sản riêng của vợ chồng gồm đồ dùng tư trang cá nhân.Tuy nhiên kể từ ngày luật HN&GD 2000 ra đời chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể về việc xác định thế nào là đồ dùng tư trang cá nhân.
Có trường hợp đồ dùng tư trang cá nhân cần thiết cho nhu cầu sinh hoạt vợ chồng có giá trị nhỏ so với khối tài sản chung,nhưng có những đồ dùng tư trang cá nhân lại được mua bằng tài sản chung của vợ chồng có giá trị lớn so với tài sản chung của vợ chồng như nhẫn kim cương,máy tính xách tay...trong khi đó thu nhập của vợ chồng lại rất thấp.
Luật nên quy định cụ thể nguồn gốc đồ dùng tư trang cá nhân gồm những gì thuộc tài sản riêng vợ chồng.Mặt khác khi có tranh chấp về loại tài sản này theo từng trường hợp cụ thể mà xem xét đồ dùng tư trang cá nhân có nguồn gốc giá trị như thế nào so với khối tài sản chung vợ chồng,mức thu nhập thực tế của vợ chồng để xác định chính xác và hơp lý tài sản riêng vợ chồng.
-Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 dự liệu vấn đề về tài sản riêng vợ chồng tại các điều 32,33.Theo nguyên tắc thì tài sản riêng của bên nào vẫn thuộc quyền sở hữu của bên đó nhưng từ những vướng mắc trong thực tế giải quyết các tranh chấp về tài sản giữa vợ chồng để đảm bảo tính thống nhất áp dụng,luật hôn nhân gia đình năm 2000 cần dự liệu những vấn đề sau:
+Đối với những căn cứ xác lập tài sản riêng của vọ chồng còn bao gồm những tài sản mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản riêng của một bên,trừ trường hợp sự thỏa thuận đó có căn cứ rõ ràng là nhằm tẩu tán tài sản trốn tránh nghĩa vụ của vợ chồng với người khác.
+Đối với tài sản mà vợ chồng được hưởng do cùng hàng thừa kế theo pháp luật về nguyên tắc thuộc tài sản riêng của vợ chồng chỉ là tài sản chung khi có thỏa thuận.
- Hoa lợi,lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ chồng :
Hiện nay có quan điểm khác nhau trong việc xác định các hoa lợi lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ chồng?
Quan điểm xét dưới góc độ thuần túy của pháp luật dân sự thì cho rằng chỉ chủ sở hữu tài sản mới có quyền thu hoa lợi lợi tức từ tài sản riêng đó.Vì vậy phải coi hoa lợi lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là tài sản riêng của vợ chồng.
Tuy nhiên trong lĩnh vực hôn nhân gia đình do tính cộng đồng của quan hệ hôn hân,vợ chồng cùng chung sức chung ý chí tạo dựng tài sản chung nhằm đảm bảo nhu cầu đời sống chung của gia đình,cho nên một trong những đặc điểm của căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung của vợ chồng không nhất thiết phải do cả hai vợ chồng cùng trực tiếp tạo ra mà chỉ cần một bên vợ chồng tạo được trong thời kì hôn nhân.Vả lại tài sản riêng của vợ chồng cũng đươc sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình trong trường hợp tài sản chugn không đủ để đáp ứng.(khoản 4 điều 33 luật HN&GD năm 2000).Pháp luật HN&GD của một số nước cũng quy định toàn bộ tài sản vợ chồng tạo ra trong thời kì hôn nhân là thuộc khối tài sản chung vợ chông.
Luật HNGD cần quy định cụ thể các hoa lợi lợi tức thu được từ tài sản riêng của vợ chồng trong thời kì hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng phù hợp với nguyên tắc xác lập tài sản chung vợ chồng.Khoản 1 điều 27 luật hôn nhân gia đình nước ta cần cụ thể hóa vấn đề này.
2.Về quyền khởi kiện của người thứ ba:
-Việc pháp luật HN&GĐ chỉ công nhận vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng có quyền yêu cầu Toà án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, quyền khởi kiện của người thứ ba trong trường hợp này không được thừa nhận (Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000), là hoàn toàn phù hợp về mặt nguyên tắc. Tuy nhiên, nếu áp dụng qui định này vào thực tiễn vẫn còn vấn đề bất cập cần phải có sự vận dụng linh hoạt hơn.
Theo luật hiện hành, khi vợ, chồng có nghĩa vụ tài sản riêng thì nghĩa vụ tài sản đó được thực hiện bằng tài sản riêng của họ, tài sản chung của vợ chồng không sử dụng cho việc thanh toán các khoản nợ này trừ khi vợ chồng có thoả thuận (Điều 33 Luật HN&GĐ năm 2000). Vấn đề đặt ra là, rất có thể người có nghĩa vụ tài sản không có hoặc không đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ và vợ chồng đã không có thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản. Trong trường hợp này, nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người có quyền (chủ nợ) về chia tài sản chung của vợ chồng để lấy phần tài sản của người có nghĩa vụ thanh toán nợ, thì quyền lợi của họ được đảm bảo như thế nào?
Ví dụ: người chồng được gọi để hưởng di sản do cha ruột chết để lại và nhận một số tài sản thuộc di sản sau một vụ phân chia giữa những người đồng thừa kế; người chồng mang các tài sản ấy về nhà; ít lâu sau, một người xuất hiện tự xưng là chủ nợ của người cha đã chết và yêu cầu người chồng thanh toán món nợ đã đến hạn; người chồng thừa nhận có mắc nợ nhưng lại dây dưa không chịu trả; thế là chủ nợ yêu cầu kê biên và bán tài sản của người chồng để thanh toán nợ.
Luật nói rằng các nghĩa vụ riêng của vợ chồng được bảo đảm thanh toán bằng các tài sản riêng; chủ nợ trong giả thiết vừa nêu không có quyền yêu cầu kê biên những tài sản mà người chồng có quyền sở hữu chung với người vợ, mà chỉ có quyền yêu cầu kê biên các tài sản riêng của người chồng; nhưng, tài sản riêng của người chồng nằm ở đâu ?
Nên chăng pháp luật cần qui định rõ: Trong trường hợp người có quyền có đủ chứng cứ cho rằng, vợ chồng không có thoả thuận hoặc không yêu cầu Tòa án chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nhằm mục đích trốn tránh thực hiện nghĩa vụ về tài sản, thì người có quyền có thể yêu cầu Toà án chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân để lấy phần tài sản của người vợ hoặc người chồng có nghĩa vụ thực hiện thanh toán các khoản nợ. Yêu cầu của người có quyền sẽ không được Toà án công nhận, nếu việc chia tài sản chung ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích gia đình của người có nghĩa vụ hoặc bản thân vợ, chồng có nghĩa vụ có đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ.
3. Đóng góp vào việc thực hiện nghĩa vụ:
Trong trường hợp đặc thù mà người có nghĩa vụ có vợ (chồng) và trong gia đình có đến ba khối tài sản,một vấn đề đặt ra là một khi một tài sản nào đó của gia đình được dùng để thanh toán nghĩa vụ đối với người có quyền, thì khối tài sản mà tài sản đó là một yếu tố có phải chịu tổn thất một cách dứt khoát ?
Ví dụ: chồng có một người con được sinh ra do ngoại tình và có nghĩa vụ cấp dưỡng; chồng dùng thu nhập của mình (tức là tài sản chung) để thực hiện nghĩa vụ đó; thế thì trong quan hệ nội bộ giữa vợ và chồng, liệu người vợ có buộc phải chấp nhận rằng khối tài sản chung gánh chịu nghĩa vụ đó hay có quyền yêu cầu người chồng phải dùng tài sản riêng để trả lại cho khối tài sản chung những gì mà khối tài sản chung đã ứng trước để giúp người chồng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của mình đối với con ngoại tình ?
Luật hôn nhân gia đình Việt Nam hiện nay chưa có giải pháp cho vấn đề này.
4.Nguyên tắc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân:
Vấn đề thứ nhất:
Khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ qui định, vợ, chồng có thể yêu cầu Toà án giải quyết việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nếu không có hoặc không thoả thuận được. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ và các văn bản hướng dẫn có liên quan chưa qui định cụ thể nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân khi việc chia tài sản chung đó thuộc thẩm quyền của Toà án. Do đó, trong thực tiễn áp dụng, Toà án sẽ gặp khó khăn khi vận dụng căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh.
Trước đây, Điều 18 Luật HN&GĐ năm 1986 đã qui định: “Khi hôn nhân còn tồn tại, nếu một bên yêu cầu và có lý do chính đáng, thì có thể chia tài sản chung của vợ chồng theo qui định ở Điều 42 (nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn) của Luật này”.
Trên cơ sở kế thừa qui định trên của Luật HN&GĐ năm 1986, cần thiết phải qui định một giải pháp như sau:
Khi chia tài sản chung, Toà án căn cứ vào lý do, mục đích chia tài sản chung để quyết định phạm vi tài sản chung được chia. Việc chia tài sản chung căn cứ vào các nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn qui định tại Điều 95 của Luật HN&GĐ; nếu tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất thì áp dụng các qui định tại các điều 97, 98 và 99 của Luật HN&GĐ
Vấn đề thứ hai
Quy định trong thời kỳ hôn nhân, nếu có lý do chính đáng vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung bằng văn bản mà không qui định trách nhiệm của họ đối với gia đình sau khi chia tài sản chung là một qui định quá “mở”.
Giả sử, ngay sau khi kết hôn với lý do kinh doanh riêng, vợ chồng có thoả thuận toàn bộ tài sản chung được chia, tài sản của ai làm ra thuộc về người đó, thì khi đó lợi ích gia đình được đặt ở vị trí nào? Nếu thoả thuận này được thực hiện thì quan hệ hôn nhân chỉ còn tồn tại về mặt nhân thân, còn quan hệ tài sản giữa vợ chồng đã được dân sự hóa, bản chất của hôn nhân XHCN vì thế không được thực hiện.
Để phát huy được mục đích, ý nghĩa của chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân nên chăng cần bổ sung vào khoản 1 Điều 6 Nghị định số 70 một nội dung bắt buộc trong văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng là: Tài sản bảo đảm cho các nhu cầu chung của gia đình.
Ngoài ra cũng cần qui định cụ thể: Trong trường hợp vợ chồng không thoả thuận được việc bảo đảm các nhu cầu chung của gia đình, thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Toà án quyết định mức đóng góp của các bên trên cơ sở nhu cầu thực tế của gia đình và khả năng kinh tế của các bên hoặc quyết định không chia toàn bộ tài sản chung, phần tài sản chung không chia được sử dụng cho nhu cầu của gia đình
Vấn đề thứ 3
Luật HN&GĐ năm 2000 và Nghị định số 70 qui định các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà không có lý do chính đáng thì bị Toà án tuyên bố là vô hiệu.
Tuy nhiên, Luật HN&GĐ lại không qui định ai là người có thể yêu cầu Toà án hủy bỏ thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong trường hợp thoả thuận này vi phạm các điều kiện được qui định tại Điều 29 Luật HN&GĐ hoặc gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống gia đình, đến việc trông nom, nuôi dưõng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Luật HN&GĐ cũng chưa qui định hậu quả pháp lý của việc Tòa án tuyên bố vô hiệu đối với thoả thuận chia tài sản chung,nên chăng cần qui định rõ: Trong trường hợp thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân bị Toà án tuyên bố vô hiệu, chế độ tài sản chung của vợ chồng được khôi phục lại tình trạng trước khi có thoả thuận chia tài sản chung
Vấn đề thứ 4.
Theo Điều 9 và Điều 10 Nghị định số 70 trong trường hợp vợ chồng có thoả thuận bằng văn bản về khôi phục chế độ tài sản chung, thì kể từ ngày văn bản thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung có hiệu lực, việc xác định phần tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên, phần tài sản thuộc sở hữu chung căn cứ vào sự thoả thuận của vợ chồng. Theo các nhà nghiên cứu, qui định này đã trao cho vợ chồng một quyền hạn quá rộng.
Việc vợ chồng có quyền chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, đồng thời có quyền khôi phục chế độ tài sản chung mà không cần có sự xem xét của Toà án đã đưa Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 trở thành hình thức, chế độ tài sản pháp định không đảm bảo đúng bản chất pháp lý của nhà làm luật đề ra.
Theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu, việc khôi phục chế độ tài sản chung có nghĩa là khôi phục chế độ tài sản pháp lý được qui định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000, do đó khi thoả thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực, những tài sản có nguồn gốc được qui định tại Điều 27 phải được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Pháp luật chỉ nên trao cho vợ, chồng quyền thoả thuận về tài sản chung đối với những tài sản riêng được qui định tại Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2000..
Vấn đề thứ 5
Theo điều 29 và 30 Luật hôn nhân gia đình và điều 8 nghị định số 70/2001/NĐ-CP quy định về hậu quả pháp lý chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân:”Sau khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân các thu nhập do lao động hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên vợ chồng được coi là tài sản riêng của vợ chồng trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Như vậy phải chăng quy định này đã chấp nhận chế độ “Biệt sản”(là một loại chế độ tài sản giữa vợ chồng trong đó không có khối cộng đồng tài sản)Có gì mâu thuẫn với điều 27 luật HN&GD khi quy định về ăn cứ xác lập tài sản chung vợ chồng?
Bởi lẽ luật có hiệu lưc bắt buộc đối với các sặp vợ chông trong thực tế mà theo quy định này thì việc áp dụng chế độ tài sản cho vợ chồng tùy trường hợp là khác nhau.Nếu đã chấp nhân chế độ biệt sản khi chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kì hôn nhân các thu nhập do lao động hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên vợ chồng được coi là tài sản riêng của vợ chồng thì pháp luật phải dự liệu các vấn đề sau:
Sau khi chia tài sản trong thời kì hôn nhân thì hôn nhân của họ vẫn tồn tại trước pháp luật nên các quyền và nghãi vụ của họ vẫn phải đảm bảo thực hiện.
-Trường hợp vợ chồng thỏa thuận đã yêu cầu tòa án chia hết tài sản chung nhưng vợ chồng vẫn phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nhau nếu một bên túng thiếu,có yêu cầu cấp dưỡng và có lí do chính đáng.Nghĩa vụ nuôi dưỡng con.Thế nhưng khối tài sản chugn đã không còn luật cần dự liệu cụ thể vợ chồng tùy theo khả năng của mình mà đóng góp phí tổn cho viêc giáo dục nuôi dưỡng giáo dục con.
Một vấn đề nữa là có phải tất cả các trường hợp mà vợ chồng thỏa thuận hoặc yêu cầu tòa án chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân đều áp dụng hay chỉ áp dụng cho trường hợp vợ chồng đã yêu cầu chia toàn bộ tài sản chung? Vấn đề này phải được dự liệu trong pháp luật thì mới có cơ sở pháp lý áp dụng thực tiễn thống nhất xét xử.
5. Quyền và lợi ích hợp pháp của các con khi bố mẹ chia tài sản chung trong thời kì hôn nhân:
Việc chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo qui định của pháp luật không làm thay đổi quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng và quan hệ giữa cha mẹ và con. Thực tế, việc vợ chồng áp dụng chế định này đã phản ánh những mâu thuẫn tồn tại trong quan hệ giữa họ. Sự độc lập về tài sản sau khi chia tài sản chung, có thể dẫn đến vợ chồng sống ly thân hoặc một trong các bên lại lẩn tránh trách nhiệm đối với gia đình, từ đó có tranh chấp về việc chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên hoặc con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không có thu nhập, không có tài sản để tự nuôi mình.
Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các con,nên chăng pháp luật cần qui định rõ: Trong trường hợp sau khi chia tài sản chung, vợ chồng có tranh chấp về chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không có thu nhập và không có tài sản để tự nuôi mình, thì Toà án quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Việc giải quyết tranh chấp liên quan đến con áp dụng tương tự qui định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con khi ly hôn.
6.Xác định tài sản khi vợ chồng bị tuyên bố chết mà sau đó trở về:
Đối với các trường hợp mà vợ chồng bị tòa án tuyên bố là đã chết mà sau này vi lí do nào đó họ lại trở về thì việc xác định tài sản chung của vợ chồng rất phức tạp vì pháp luật dân sự và luật hôn nhân gia đình nước ta chưa có dự liệu về vấn đề này.
Điều 26 luật hôn nhân gia đình năm 2000 đã quy định về quan hệ hôn nhân khi một bên vợ chồng bị tuyên bố là đã chết mà lại trở về như sau: Khi Toà án ra quyết định huỷ bỏ tuyên bố một người là đã chết theo quy định tại “Điều 93 của Bộ luật dân sự mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục; trong trường hợp vợ hoặc chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật”
Quy định này mới chỉ đề cập đến quan hệ nhân thân giữa vợ chồng khi một bên bị tuyên bố là đã chết mà lại trở về còn quan hệ tài sản(Nhất là hậu quả pháp lý với tài sản chung vợ chồng chưa được pháp luật dự liệu) Trường hợp vợ chồng đã bị tuyên bố chết sau này người vợ chồng đó trở về,nếu người vợ chồng chưa kết hôn với người khác hôn nhân mặc nhiên được khôi phục.Tuy nhiên chế độ tài sản chung của vợ chồng được xác định như thế nào khi người vợ chồng đó trở về.
Pháp luật cũng chưa dự liệu cụ thể chế độ tài sản của vợ chồng được tái lập từ khi nào?Từ khi kết hôn hay từ ngày hôn nhân được tái lập?Các giao dịch dân sự mà do người vợ chồng kí kết với người khác bằng tài sản chung của gia đình có được coi là hợp pháp không mặc dù không có sự đồng ý thỏa thuận của bên kia đã bị tòa án tuyên bố chết mà trở về?
Luật hôn nhân và gia đình không dự liệu về nguyên tắc chia tài sản chung vợ chồng khi một bên vợ chồng đã bị tòa án tuyên bố là đã chết,sau một thời gian họ trở về.Vậy những tài sản do người chồng vợ kia tạo ra thu nhập do lao động hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác trong khoảng thời gian kể từ khi người vợ,chồng bị tuyên bố chết đến khi trở về là tài sản chung của vợ chồng hay là tài sản riêng của vợ chồng?
Bằng sự so sánh đối chiếu với pháp luật một số nước,tiến sĩ Nguyễn Văn cừ đưa ra một số ý kiến hoàn thiện vấn đề này như sau:
Điều 26 luật hôn nhân gia đình nước ta nên chỉnh sửa theo hướng: Khi có phán quyết của tòa án tuyên bố vợ chồng chết có hiệu lực pháp luật thì quan hệ hôn nhân chấm dứt kể cả người bị tuyên bố là đã chết có trở về hay không cũng không thể đương nhiên phục hồi qua hệ được.Nếu vợ chồng muốn tái hợp hôn nhân thì có thể đăng kí kêt hôn theo thủ tục chung.Tức là sẽ phát sinh quan hệ hôn nhân mới dù chủ thể vẫn là vợ chồng đó.Như vậy chế độ tài sản giữa vợ chồng vân phát sinh theo luật định áp dụng trong thời kỳ hôn nhân mới này.Tạo được cơ sở thống nhất cho việc áp dụng luật HNGD liên quan đến chế độ tài sản vợ chồng.
7.Xác định nợ chung,nợ riêng
Cuộc sống chung của vợ chồng đòi hỏi phải có giao dịch với người khác và những tổn phí về vật chất(tiền bạc,tài sản) để đáp ứng quyền lợi của gia đình và vợ chồng.Theo nguyên tắc nếu là nợ chung thì vợ chồng phải có nghĩa vụ trả nợ(có thể trích từ khối tài sản chung của vợ chồng hoặc xác định nghĩa vụ của cả hai vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm chi trả khoản nợ đó),ngược lại nếu vợ chồng sử dụng vào mục đích riêng thì vợ chồng phải có nghĩa vụ thanh toán bằng tài sản riêng,mà không buộc người vợ hay chồng phải liên đới trách nhiệm.
Thực tế cho thấy phân biệt nợ chung hay nợ riêng của vợ chồng là điều rất khó.Cuộc sống vợ chồng đặc biệt là đối với gia đình truyền thống phương đông ,đời sống vợ chồng gắn bó chủ yếu là tình cảm yêu thương,vấn đề tiền bạc tài sản thường bị “xem nhẹ”.Tuy nhiên khi có tranh chấp lại thường rất gay gắt và phức tạp.Có trường hợp món nợ do một bên vợ chông vay,hoặc cả hai vợ chồng cùng đi vay nhưng chỉ một bên kí điểm chỉ vào giấy vay nợ.Khi có tranh chấp việc xác định nợ chung hay nợ riêng giữa vợ chồng và chủ nợ thường gặp nhiều khó khăn.
Một giải pháp đã được đặt ra là điều 25 luật HN&GD đã dự liệu: “Vợ hoặc chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình.”
Cần xác định vợ chồng vay nợ nhằm mục đích gì,có nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của sinh hoat gia đình không?Nhưng vấn đề đặt ra ở đây là nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình bao gồm những gì?Luật và những văn bản hướng dẫn áp dụng của các cơ quan nhà nước chưa có quy định hướng dẫn cụ thể vấn đề này.
Ngoài ra khoản 5 điều 33 luật HNGD 2000 quy định: Trong trường hợp tài sản riêng của vợ hoặc chồng đã được đưa vào sử dụng chung mà hoa lợi, lợi tức từ tài sản riêng đó là nguồn sống duy nhất của gia đình thì việc định đoạt tài sản riêng đó phải được sự thoả thuận của cả vợ chồng.
Và theo quy định tại khoản 3 điều 95 luật HN&GD năm 2000 thì:”Việc thanh toán nghĩa vụ chung về tài sản của vợ, chồng do vợ, chồng thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết”
Từ những quy định này Thiết nghĩ luật cần quy đinh cụ thể tài sản chung của vợ chồng được dùng chi trả vào các khoản nợ sau:
-Nợ phát sinh nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yêu của gia đình;
- Nợ liên quan đến việc tạo lập quả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- File915.DOC