Tiểu luận Nỗ lực của Việt Nam trong quá trình gia nhập asean 1986-1995

 

MỤC LỤC

Trang

I. LỜI MỞ ĐẦU

 

Giới thiệu về ASEAN 1

 

II. NỘI DUNG

 

1. Bối cảnh chính sách 2

a. Tình hình quốc tế và khu vực 2

b. Tình hình trong nước 3

2. Nội dung và triển khai chính sách 4

3. Kết quả và đánh giá 8

4. Bài học kinh nghiệm rút ra 11

a. Luôn giữ vững và tăng cường sự 11

lãnh đạo của Đảng trong quá trình

Việt Nam hội nhậpvà phát triển

cùng ASEAN

b. Giữ vững tinh thần chủ động hội 12

nhập và phát triển trong ASEAN

c. lấy hội nhập vào ASEAN là cơ sở 12

để đẩy mạnh quan hệ hợp tác với

các nước trên thế giới

 

III. KẾT LUẬN 12

 

IV. PHỤ LỤC VÀ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 13

1. Các thành viên của ASEAN 13

Bản đồ khu vực Đông Nam Á 14

2. Hội nghị thượng đỉnh ASEAN 15

Hội nghị thượng đỉnh không chính thức ASEAN 16

3. Danh mục tài liệu tham khảo 17

 

 

 

doc21 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 2049 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nỗ lực của Việt Nam trong quá trình gia nhập asean 1986-1995, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n Xô tan rã. Khối quân sự VACSAVA không còn tồn tại. Như vậy cuộc cờ quốc tế hoàn toàn biến đổi, mâu thuẫn Đông- Tây đã mất đi, đồng nghĩa với trật tự hai cực Yalta chấm dứt. Nhưng chính trị thế giới vẫn chưa đi vào giai đoạn ổn định, mà tiếp tục với diễn biến gay gắt dưới hình thức mới là “diễn biến hòa bình” và chống diễn biến hòa bình. Nhiều mẫu thuẫn cũ vẫn tồn động, xuất hiện thêm những xung đột mới trong vấn đề an ninh chính trị quốc tế cũng như trong nội bộ các quốc gia như: xung đột sắc tộc, tôn giáo, nội chiến đẫm máu ở nhiều nơi, lái buôn vũ khí, chiến tranh cục bộ, mâu thuẫn khu vực, cùng với các vấn đề toàn cầu về môi trường, dân số, bệnh tật, tội phạm, ma túy…. là những ung nhọt đang đe dọa hòa bình, an ninh của nhiều dân tộc. Còn dưới góc độ kinh tế, cuộc cách mạng khoa học- công nghệ đã thúc đẩy sản xuất vật chất với khối lượng lớn, tạo ra những bước nhảy vọt đáng kể, đẩy mạnh việc cơ cấu lại nền kinh tế của hầu hết các quốc gia. Giai đoạn này, trong chính sách của các quốc gia lợi ích quốc gia đã được đặt lên hàng đầu cao hơn so với ý thức hệ. Do đó, các nước chuyển hướng điều chỉnh chiến lược thay vì chạy đua vũ trang là tập trung phát triển nội lực, tăng cường cạnh tranh và chạy đua kinh tế, “chấn chỉnh kinh tế”, “cải tổ”, “cải cách mở cửa” và “ bốn hiện đại hóa” là bốn chương trình được các nước vận dụng tích cực. Những thay đổi to lớn và cơ bản trong đời sống chính trị, kinh tế dẫn tới tập hợp những lực lượng mới trên thế giới. Kết thúc cục diện thế giới hai cực, thế giới nổi lên nhiều xu thế mới, trong đó chủ đạo là: xu hướng đa dạng hóa, đa phương hóa, toàn cầu hóa và cả khu vực hóa, vừa đối đầu vừa đối thoại, vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Những quốc gia không có cùng chế độ chính trị cũng hợp tác với nhau cùng tồn tại hòa bình. Riêng khu vực Đông Nam Á trải qua một thập niên phát triển năng động đầy hứa hẹn. Vấn đề Campuchia được giải quyết bằng Hiệp đinh Paris 1991 đã mở ra giai đoạn bình thường hóa quan hệ và hợp tác giải quyết các vấn đề khu vực, những hoài nghi, đối đầu căng thẳng của hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN được xoa dịu, bắt đầu chuyển từ đối đầu sang đối thoại, thúc đẩy hòa bình, hữu nghị và hợp tác. Tình hình trong nước Từ năm 1986, trước yêu cầu bức bách của tình hình trong nước: khủng hoảng kinh tế trầm trọng, mục tiêu tổng thể của kế hoạch 5 năm 1981 - 1985 thất bại: Việt Nam không chỉ thiếu cán bộ có trình độ chuyên môn về quản lý kinh tế nói chung mà còn chịu sức ép hết sức phức tạp về môi trường phát triển kinh tế: Các nguồn viện trợ cho “Việt Nam đánh Mỹ” đã bị cắt giảm đột ngột, các vụ bạo loạn, kích động và quấy phá cách mạng nổi lên ở nhiều nơi, nhất là ở hai khu vực biên giới phía Tây Nam và phía Bắc; nhu cầu chi ngân sách đột ngột tăng lên - nhất là chi chính sách xã hội và chi xây dựng cơ bản; đời sống vốn khó khăn nhưng lại phải chi viện cả sức người, sức của giúp nhân dân Campuchia. Cơ chế tập trung quan liêu bao cấp trong nền kinh tế nói chung, do đã bị kéo dài quá lâu và không còn hợp với thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội trong thời bình gây ra mất lòng tin trong nhân dân vào nhà nước giảm sút. Bên cạnh đó, Mỹ và phương Tây tiếp tục duy trì bao vây, cấm vận đối với VN. Cộng thêm những biến động quốc tế và khu vực (như đã nói trên) là những nguyên nhân buộc Việt Nam chỉ có lựa chọn duy nhất đó là: Đổi mới toàn diện đất nước, đặc biệt là đổi mới tư duy đối ngoại để giải quyết những vấn đề quốc tế bất lợi cho đất nước và có được một vị trí vững chắc hơn trên trường quốc tế và Công cuộc đổi mới đó được đánh dấu bằng Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng Sản Việt Nam tháng 12/1986, thông qua các nghị quyết của Bộ chính trị. Và các văn kiện tại các kỳ Đại hội kế tiếp cũng đều đề cập đến vấn đề chiến lược trong chính sách đối ngoại. Đặc biệt, vấn đề Campuchia dần được giải quyết bằng thương lượng chính trị, mở ra cho Việt Nam một vị thế mới trong khu vực, nới lỏng những bất đồng và thắt chặt thêm quan hệ hợp tác cùng phát triển. Nội dung và triển khai chính sách Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc, do chủ quan, nóng vội, duy ý chí và sự yếu kém của mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp (vốn có tác dụng trong thời chiến), đất nước ta rơi vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Sản xuất đình đốn, lạm phát phi mã (774,7% năm 1986). Đời sống nhân dân hết sức khó khăn, trong khi đất nước rơi vào tình thế bị bao vây, cấm vận nặng nề. Trên cơ sở phân tích một cách khoa học tình hình thế giới với thái độ nhìn thẳng vào sự thật, Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã phân tích một cách khách quan những sai lầm, khuyết điểm và nguyên nhân của cuộc khủng hoảng và đi đến quyết định lịch sử là tiến hành đổi mới đất nước một cách toàn diện.Về đối ngoại, Đại hội VI nhấn mạnh nhiệm vụ hàng đầu là “... tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc”... và “cần hoà bình để phát triển kinh tế”. Nghị quyết của Đại hội VI và các nghị quyết của Trung ương đã chuyển hướng chính sách ngoại giao, chủ trương đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau, thi hành chính sách hữu nghị, hợp tác, tồn tại hoà bình để phát triển, phù hợp với lợi ích của nhân dân ta và xu thế phát triển chung của thế giới. Trong quan hệ với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Đảng ta chỉ rõ: “Chúng ta mong muốn và sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hòa bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực hòa bình, ổn định và hợp tác”. Đây là những quyết nghị hết sức đúng đắn, sáng tạo của Đảng về chính sách đối ngoại trong giai đoạn cách mạng mới. Nó trở thành tư tưởng chủ đạo, sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đồng thời là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình từng bước gia nhập ASEAN của Việt Nam. Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng VI đề ra, trên các diễn đàn quốc tế và khu vực, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ta luôn khẳng định lập trường của Việt Nam là được chung sống hòa bình với các nước trong khu vực, sẵn sàng hợp tác để xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hòa bình, ổn định và phát triển. Trả lời phỏng vấn Tạp chí Quan hệ Quốc tế (tháng 10-1991), Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm đã nêu rõ chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với các nước trong khu vực, trong đó khẳng định: “Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, mà trước hết là Đông Nam Á và Đông Á, giữ vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam…”. Tháng 1-1989, tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo châu Á - Thái Bình Dương tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Văn Linh một lần nữa nhấn mạnh: Việt Nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các nước trong khu vực. Cũng tại Hội nghị này, Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố: Việt Nam sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á. Những phát biểu trên một lần nữa nhấn mạnh quan điểm trước sau như một của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề gia nhập ASEAN: “Việt Nam nỗ lực gia nhập ASEAN”. Để hiểu hơn về vấn đề này chúng ta sẽ điểm qua vài vấn đề trong tiến trình Việt Nam nỗ lực gia nhập ASEAN - những khó khăn cũng như thử thách. Những năm 1960 khi cuộc chiến tranh mà Mỹ tiến hành ở Việt Nam đang ở cao trào và có sự tham gia (trực tiếp hay gián tiếp) của một số nước ASEAN, hai bên hầu như không có quan hệ với nhau (trừ mối quan hệ giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Indonesia). Vào những năm 1970, quan hệ Việt Nam - ASEAN đã dần được thiết lập và phát triển cùng với thắng lợi của cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, và đặc biệt qua chuyến thăm các nước ASEAN của Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng năm 1978, sau khi Việt Nam thống nhất và trở thành Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các bên đã bàn đến các vấn đề hợp tác kinh tế và an ninh chính trị như khả năng ký hiệp ước không xâm lược lẫn nhau. Tuy nhiên các sự kiện tiếp theo liên quan đến Campuchia đã làm quan hệ hai bên trở nên xấu đi, thậm chí đối đầu vào những năm 80. Đại hội VI Đảng Cộng sản Việt Nam, đề ra đường lối đổi mới toàn diện trong đó Việt Nam chủ trương chính sách đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ. Thực hiện đường lối này Việt Nam đã rút hết quân khỏi Campuchia, trở ngại lớn nhất trong quan hệ giữa 2 bên đang dần được gỡ bỏ, vấn đề Campuchia đang đi dần vào giải pháp hòa bình. Sau khi vấn đề Campuchia được giải quyết (23/10/1991), vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được cải thiện, tạo thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới được thúc đẩy nhanh, mạnh hơn. Trên tinh thần “Biến Đông Dương từ chiến trường thành thị trường” của các nước ASEAN hoà nhập với quan điểm của Việt Nam là “lợi ích của Việt Nam gắn liền với lợi ích của khu vực”, sự cải thiện tích cực quan hệ Việt Nam - ASEAN đã tạo điều kiện cho Việt Nam ký hiệp ước Bali (1992) trở thành quan sát viên của tổ chức này. Cụ thể hoá Nghị quyết ĐH VII xác định công tác đối ngoại giữ vị trí quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, Nghị quyết Trung ương 3 khoá VII (29/6/1992) đã chủ trương “mở rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ đối ngoại cả về chính trị, kinh tế, văn hoá và khoa học kỹ thuật, cả về Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính phủ, trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy những truyền thống và bản sắc tốt đẹp của nền văn hoá dân tộc”. Với tư cách quan sát viên, Việt Nam đã thúc đẩy các quan hệ đa phương với cả tổ chức ASEAN. Từ đầu năm 1994 Việt Nam đã tham dự với tư cách quan sát viên các cuộc họp của sáu ủy ban hợp tác chuyên ngành ASEAN là khoa học công nghệ, môi trường, văn hóa thông tin, phát triển xã hội, phòng chống ma túy và các vấn đề công vụ. ASEAN đã mời Việt Nam tham gia với tư cách là quan sát viên của nhiều cuộc họp các cấp khác nhau như hội nghị thường niên ngoại trưởng ASEAN, ủy ban thường trực ASEAN,… để làm quen dần với cơ chế hoạt động của tổ chức này. Tại Hội nghị ngoại trưởng ASEAN lần thứ 27 tại Băng cốc(7/1994) các nước ASEAN đã nhất trí tuyên bố sẵn sàng chấp nhận Việt Nam là thành viên của ASEAN. Sau một loạt các tham khảo và thỏa luận ý kiến giữa Việt Nam ngày 17/10/1994 Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam đã gửi thư cho Bộ trưởng Ngoại giao Brunay, chủ tịch đương nhiệm ủy ban thường trực ASEAN, chính thức đặt vấn đề Việt Nam muốn trở thành thành viên đầy đủ của hội nghị. ASEAN hoan nghênh quyết định quan trọng này của Việt Nam. Về phần mình Việt Nam luôn bày tỏ lòng mong muốn phát triển quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước ASEAN, sự xích lại gần nhau giữa Việt Nam và ASEAN có thêm những nhân tố thúc đẩy mới sau việc Trung Quốc sử dụng vũ lực đánh chiếm một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa (Việt Nam) và thái độ của Việt Nam kiên trì chính sách đàm phán để giải quyết mọi tranh chấp về lãnh thổ cùng với việc Việt Nam giữ đúng cam kết rút hết quân khỏi Campuchia trước thời hạn vào năm 1988, mặc dù lúc đó chưa đạt được giải pháp về vấn đề Campuchia. Điều đó cũng tạo dựng được lòng tin vào thiện chí của Việt Nam trong chính sách tăng cường hợp tác khu vực. Bên cạnh những thay đổi sâu sắc diễn ra trên thế giới và ở khu vực từ năm 1989, nhận thức về lợi ích chung của ĐNA, về sự liên kết cùng nhau phát triển đã đưa đến sự thông cảm hơn giữa Việt Nam và ASEAN về lợi ích an ninh của nhau, để tiến tới cùng chia xẻ một số phận chung của các dân tộc Đông Nam Á. Ngoài những thắc mắc từ bên ngoài ASEAN, ngay trong một số nước ASEAN cũng còn những ý kiến e ngại về khả năng của Việt Nam - một nước có trình độ kinh tế phát triển thấp hơn rất nhiều so với các nước ASEAN có chế độ chính trị và kinh tế khác biệt - tham gia vào hợp tác ASEAN, và việc Việt Nam với những bất hoà và tranh chấp lãnh thổ vốn có với Trung Quốc có thể làm phức tạp thêm mối quan hệ ASEAN - Trung Quốc. Nghị quyết 13 Bộ Chính trị là cơ sở để phát triển và nâng cao đường lối đối ngoại đổi mới thành đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ như ngày nay. Triển khai thực hiện tư duy đó, Việt Nam đã rút hết quân tình nguyện khỏi Campuchia trước thời hạn (1989), sau đó cùng các bên liên quan ký Hiệp định Paris về một giải pháp cho vấn đề Campuchia (1991), bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc (1991) và từng bước cải thiện quan hệ với từng nước ASEAN. Với tư cách là thành viên chính thức của ASEAN, Việt Nam tích cực tham gia vào các hoạt động của tổ chức này trên mọi phương diện hợp tác và được dư luận các nước ĐNA và quốc tế đánh giá cao. Những sự kiện trong năm 1995 đã được nguyên Ngoại trưởng Nguyễn Mạnh Cầm phát biểu: “Cùng với việc bình thường hoá quan hệ với Mỹ, ký hiệp định hợp tác với liên minh châu Âu và Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN, lần đầu tiên kể từ khi giành được độc lập 50 năm trước đây, nước ta có quan hệ với tất cả các nước lớn và trung tâm kinh tế - chính trị lớn trên thế giới. Đây là kết quả, biểu hiện, đồng thời là sự khẳng định tính đúng đắn của chính sách ngoại giao rộng mở của chúng ta”. Sau khi Hiệp định Pa-ri về Cam-pu-chia được ký kết, “nút thắt” đầu tiên trong quan hệ của ta với các nước đã được tháo gỡ, quá trình đàm phán giữa ta và các nước ASEAN về việc Việt Nam gia nhập ASEAN đã được đẩy nhanh. Ngày 28-7-1995, chúng ta đã gia nhập ASEAN và trở thành thành viên chính thức thứ bảy của tổ chức tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 18. Sự kiện trọng đại này thể hiện rõ nét chính sách chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của ta. Đánh giá thắng lợi đó, Báo Sài gòn Giải phóng số ra ngày 20-9-1995 viết: Lịch sử đã thực sự sang trang mới ở khu vực này. Nhân tố Việt Nam trong ASEAN không chỉ đưa lại tác động tích cực về hợp tác kinh tế với một thị trường hơn 70 triệu dân đầy sức hấp dẫn mà còn có ý nghĩa chính trị sâu rộng. Kết quả và đánh giá Ngày 12/1/1995, Bộ trưởng Ngoại giao Brunei đã gửi thư cho nhà nước ta thông báo lễ kết nạp Việt Nam vào ASEAN sẽ được tiến hành trong dịp Hội nghị Ngoại trưởng ASEAN tại Brunei (tháng 7/1955). Lễ kết nạp trọng thể đã diễn ra tại Cung hội nghị quốc tế Brunei, một ngày trước khi hội nghị ngoại trưởng chính thức khai mạc và Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 7 của Hiệp Hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Ngày 28 tháng 7 năm 1995, tại thủ đô Bandar Seri Begawan của đất nước Brunei Darussalam tươi đẹp, trong tiếng Quốc ca hùng tráng, Quốc Kỳ Việt Nam đã tung bay phấp phới cùng cờ của 6 thành viên ASEAN khác, mở ra một trang sử mới của khu vực: Việt Nam chính thức là thành viên thứ 7 của ASEAN. Sự kiện này là một dấu son trên con đường hội nhập khu vực và thế giới, đưa nước ta tiến lên con đường phía trước trên con đường xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây cũng là nguyện vọng của những người sáng lập ra ASEAN và nhân dân trong khu vực về một hiệp hội bao gồm 10 nước trong khu vực, một ASEAN của Đông Nam Á, do Đông Nam Á, và vì Đông Nam Á, trong đó các quốc gia thành viên cùng nhau hợp tác vì hoà bình, ổn định, phát triển, phồn vinh, góp phần vào sự nghiệp hoà bình và phát triển ở khu vực và trên thế giới. Từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN, tổ chức này đã có những chuyển biến quan trọng về cả lượng và chất, trở thành nhân tố thiết yếu cho hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển ở Đông Nam Á, Đông Á Thái Bình Dương và thế giới. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN cũng là kết quả của việc thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa, chủ động tích cực hội nhập khu vực và thế giới mà Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra. Việc Việt Nam gia nhập ASEAN là một sự phát triển quan trọng ở khu vực. Nó đã chấm dứt hơn nửa thế kỉ Đông Nam Á bị chia ra làm 2 trận tuyến đối nghịch nhau, mở ra một thời kì mới trong khu vực, thời kì các bên tăng cường hợp tác cùng phát triển, vì lợi ích của mỗi bên và lợi ích chung của toàn khu vực. Việc ASEAN kết nạp thêm Việt Nam đã làm tăng uy tín và vị thế của ASEAN trên trường quốc tế, mở ra triển vọng phát triển mạnh mẽ tổ chức này trên nhiều lĩnh vực. Đặc biệt, nó khẳng định xu thế mở rộng của ASEAN bao gồm tất cả các quốc gia Đông Nam Á, một ý tưởng mà ASEAN đã dự định ngay từ khi thành lập. Thực tiễn 15 năm qua đã khẳng định chủ trương gia nhập ASEAN là quyết sách đúng đắn, kịp thời, có ý nghĩa lịch sử và chiến lược quan trọng. Tham gia hợp tác ASEAN đã và sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích quan trọng và thiết thực về chính trị - an ninh, kinh tế, văn hóa-xã hội và đối ngoại, mà bao trùm là giữ vững môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước cũng như hỗ trợ cho Việt Nam hội nhập khu vực và quốc tế.  Điều quan trọng hàng đầu là tham gia ASEAN đã giúp duy trì môi trường hòa bình và ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác và phát triển ở khu vực Đông Nam Á, thông qua việc xây dựng một Cộng đồng ASEAN thống nhất, liên kết chặt chẽ và có vai trò ngày càng quan trọng ở khu vực cũng như hình thành các mối quan hệ mới về chất giữa các nước thành viên. Hội nhập và tham gia vào các hoạt động hợp tác của ASEAN cũng giúp Việt Nam tranh thủ được những lợi ích thiết thực về kinh tế - thương mại và văn hóa - xã hội, hỗ trợ đắc lực cho phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tham gia liên kết kinh tế nội khối ASEAN cũng như các thỏa thuận Thương mại tự do giữa ASEAN với các Đối tác một mặt giúp Việt Nam thu hút được ngày càng tăng đầu tư và kinh doanh từ bên ngoài, mặt khác, cũng là cầu nối để Việt Nam tiếp cận các thị trường tiềm năng trong và ngoài khu vực. Hơn nữa, Việt Nam cũng tiếp nhận được thông tin, khoa học - công nghệ, kinh nghiệm quản lý hiện đại và nguồn lực; nâng cao năng lực thể chế và khả năng xử lý các vấn đề xuyên quốc gia như môi trường, thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu,… Là thành viên ASEAN cũng tạo thế cho Việt Nam mở rộng và tăng cường quan hệ với các đối tác ngoài ASEAN, nhất là các nước lớn, cũng như tham gia sâu rộng hơn vào các khuôn khổ hợp tác quốc tế hay liên khu vực rộng lớn hơn như ASEAN+3, Cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn hợp tác Châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Tiến trình hợp tác Á-Âu (ASEM), Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),…; qua đó góp phần nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Việt Nam. Hội nhập ASEAN đã giúp Việt Nam đào tạo và nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ tham gia các hoạt động đa phương cũng như hội nhập khu vực và quốc tế; góp phần tạo bước chuyển biến tích cực trong việc xây dựng và hoàn thiện chính sách, luật lệ và thủ tục trong nước cho phù hợp hơn với yêu cầu hội nhập. Việt Nam gia nhập ASEAN đã làm chấm dứt tình trạng khu vực Đông Nam Á chia rẽ thành 2 khối đối địch nhau, chuyển sang một kỷ nguyên mới tất cả các nước trong khu vực đoàn kết với nhau dưới một mái nhà chung, hợp tác với nhau để mỗi nước phát triển và cả khu vực cùng phát triển, mở ra triển vọng hiện thực hóa ước mong của các nhà sáng lập ASEAN là ASEAN sẽ bao gồm tất cả các nước trong khu vực. Rõ ràng việc Việt Nam gia nhập ASEAN là sự gặp nhau giữa chủ trương của Việt Nam đối với các nước trong khu vực và yêu cầu của các nước trong khu vực nhìn nhận về vai trò của Việt Nam trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế. Nói một cách khác, Việt Nam cần ASEAN và ASEAN cũng cần Việt Nam. Tuy vậy, gia nhập ASEAN ta cũng có một số khó khăn, thách thức ban đầu nhất định, như sự đồng thuận xã hội chưa cao, trình độ phát triển kinh tế còn thấp so với các thành viên khác, do nền kinh tế của ta có xuất phát điểm thấp, lại bị tàn phá nặng nề qua 30 năm chiến tranh liên tục, tiếp đó là cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng kéo dài; đội ngũ cán bộ của ta còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm hoạt động trong các tổ chức đa phương và trong hội nhập. Lần đầu tiên, trong ASEAN tồn tại các thành viên thuộc các thể chế chính trị khác nhau. Trình độ phát triển kinh tế của Việt Nam còn tương đối thấp so với các thành viên khác. Điều này có thể ảnh hưởng đến tiến trình hợp tác kinh tế ASEAN. Có những băn khoăn, lo ngại về khả năng hoàn thành các nghĩa vụ thành viên, đóng góp cũng như tham gia đầy đủ và các hoạt động ASEAN. Nhưng tóm lại, việc gia nhập ASEAN là một quyết sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước và nó đã mang lại cho Việt Nam rất nhiều cơ hội mới giúp đất nước ta vươn lên mạnh mẽ. Đó cũng là một sự thắng lợi to lớn về mặt chính sách đối ngoại của nước ta. Bài học kinh nghiệm Thứ nhất, luôn giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quá trình Việt Nam hội nhập và phát triển cùng ASEAN. Đây được coi là nguyên tắc quan trọng hàng đầu, nó không chỉ góp phần cho Việt Nam hội nhập và phát triển đúng hướng mà còn tạo ra sự thống nhất trong tư tưởng và hành động khi vị trí, vai trò của Việt Nam ngày càng được nâng cao trong tổ chức này. Sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình này còn thể hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ của Việt Nam. Trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, Việt Nam cũng mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong khu vực và trên thế giới. Quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam là tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, trên tinh thần hợp tác, bình đẳng cùng có lợi giữa các nước thành viên. Việt Nam luôn lấy mục tiêu lợi ích chung giữa các quốc gia làm điểm tương đồng trên cơ sở thống nhất trong sự đa dạng nhằm tạo ra sự đồng cảm và nhất trí cao đối với những vấn đề có tác động chi phối với các thành viên. Thứ hai, giữ vững tinh thần chủ động hội nhập và phát triển trong ASEAN. Việt Nam hoà nhập vào ASEAN nhưng không lệ thuộc, không trông chờ, ỷ lại, thụ động. Chúng ta tôn trọng những gì bè bạn đã hợp tác, giúp đỡ, nhưng đồng thời phải khẳng định có tính nguyên tắc: hợp tác trên tinh thần tự lực, tự cường, giữ vững độc lập chủ quyền về các mặt. Đẩy mạnh hội nhập và phát triển cùng ASEAN là nhằm để bảo vệ nền sản xuất trong nước, khai thác có hiệu quả tài nguyên quốc gia, góp phần củng cố độc lập dân tộc, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, rút ngắn khoảng cách tụt hậu; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Mục tiêu tổng quát là nhằm tạo ra những lợi thế để Việt Nam sớm khẳng định vị trí và vai trò của mình với tư cách là đối tác bình đẳng cùng có lợi với các nước trong ASEAN và trên thế giới. Thứ ba, lấy hội nhập vào ASEAN là cơ sở để đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới. Thực tiễn đã chứng minh, cùng với việc đẩy mạnh hợp tác trong khu vực ASEAN, Đảng ta luôn đẩy mạnh quan hệ hợp tác với tất cả các nước trên thế giới, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội. Hội nhập với ASEAN nhưng không chỉ chú trọng đến ASEAN mà xem nhẹ các quan hệ khác. Ngược lại, cũng không chỉ chú trọng đối tác với các nước khác mà xem nhẹ vai trò của ASEAN. Quan hệ và hợp tác nhiều mặt nhưng vẫn giữ được chủ quyền của mình cả về kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội quốc phòng, an ninh... mà không bị ảnh hưởng bởi bất kỳ một áp lực nào từ bên ngoài. Phần kết luận Cho đến nay, ASEAN đã có một quá trình hơn 40 năm hình thành và phát triển. Đó là quá trình ngày càng kiện toàn về chức năng của một tổ chức mang tính chất khu vực trong bối cảnh toàn cầu hóa và khu vực hóa thế giới. Qúa trình ấy không hoàn toàn tuân theo một con đường thảng mà có nhiều giai đoạn quanh co phức tạp bởi những biến động to lớn trong khu vực và trên thế giới. Nhưng vượt qua mọi trở ngại thử thách thậm chí có khi dẫn đến nguy cơ tan rã, ASEAN hiện nay ngày càng hoàn thiện, trở thành một tổ chức hòa bình, hữu nghị, hợp tác, gắn kết các nước thành viên trong khu vực cũng như giữa khu vực với phần còn lại cảu thế giới. ASEAN ban đầu chỉ có 5 nước thành viên ( một nữa số quốc gia Đông Nam Á) nên chưa thể được coi là một tổ chức khu vực theo đúng nghĩa của nó. Các quan hệ giữa 5 nước này chỉ hạn chế trên lĩnh vực an ninh – chính trị, đặc biệt là mối quan hệ đối đầu với Việt Nam luôn làm cho tình hình khu vực luôn luôn căng thẳng, không có lợi cho các nước thành viên cũng như các nước khác trong khu vực. Đánh giá về quyết định gia nhập ASEAN, Nguyên Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại Giao Nguyễn Mạnh Cầm cho rằng đó là một quyết sách đúng đắn, có ý nghĩa lịch sử quan trọng, ông khẳng định: “Việt Nam gia nhập ASEAN đã làm chấm dứt tình trạng khu vực Đông Nam Á chia rẽ thành 2 khối đối địch nhau, chuyển sang một kỷ nguyên mới tất cả các nước trong khu vực đoàn kết với nhau dưới một mái nhà chung, hợp tác với nhau để mỗi nước phát triển và cả khu vực cùng phát triển, mở ra triển vọng hiện thực hóa ước mong của các nhà sáng lập ASEAN là ASEAN sẽ bao gồm tất cả các nước trong khu vực. Rõ ràng việc Việt Nam gia nhập ASEAN là sự gặp nhau giữa chủ trương của Việt Nam đối với các nước trong khu vực và yêu cầu của các nước trong khu vực nhìn nhận về vai trò của Việt Nam trong bối cảnh mới của tình hình quốc tế. Nói một cách khác, Việt Nam cần ASEAN và ASEAN cũng cần Việt Nam.” Rõ ràng là cần một khoảng thời gian dài để có thể vượt qua tất cả những khó khăn, để hiểu nhau về nhau hơn và cùng nhau

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNỖ LỰC CỦA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH-nhóm Hoàng Thị Minh lớp D.doc
Tài liệu liên quan