Tiểu luận Nội dung chủ yếu của Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa ở nước ta

Việt Nam, sau một thời gian dài áp dụng không thành công mô hình CNH theo kiểu Liên Xô(cũ), mà thực chất là mô hình CNH hướng nội, nhờ đường lối đổi mới kinh tế, Đảng ta đã nhanh chóng vận dụng những bài học thành công về CNH của các nước khu vực để chuyển sang mô hình CNH hướng ngoại. Điều này đã tạo thuận lợi cho Việt Nam tham gia vào quá trình chuyển giao công nghệ với các nước trên thế giới và trong khu vực. Hiện nay trình độ công nghệ của Việt Nam còn rất thấp kém so với các nước láng giềng, chậm so với Trung Quốc khoảng 10 năm, và so với Đài Loan khoảng 20-30 năm ở vào thời điểm bắt đầu CNH. Vì vậy, tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ nước ngoài là cần thiết.Tuy nhiên trong quá trình tiếp nhân chuyển giao công nghệ phải tỉnh táo để tránh nhập công nghệ lỗi thời do các nước thải ra,tránh không để cho Việt Nam trở thành “bãi thải công nghệ” của các nước phát triển.

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3062 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nội dung chủ yếu của Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ghiệp dân dụng để phục vụ có hiệu quả nhất cho cả nhu cầu quốc phòng và dân dụng. Những quan điểm đó là một thể thống nhất và quan hệ chặt chẽ với nhau biểu hiện rõ trong việc xác định mục tiêu, nhiệm vụ của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; ở việc xác định rõ nguồn lực; động lực của tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa; ở việc xác định phương hướng, biện pháp cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta; và biểu hiện ở tiêu chuẩn để xác định các phương án, đánh giá kết quả khi tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 2. Nội dung chủ yếu của Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa ở nước ta: 2.1 Điều kiện để thực hiện Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa ở nước ta. 2.1.1 Những thuận lợi Bước vào thời kỳ đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đất nước ta có nhiều thuận lợi Trên thế giới, cách mạng khoa học- công nghệ đang phát triển nhanh với trình độ ngày càng cao, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế, và đời sống xã hội. Đây là một thời cơ thuận lợi cho phép chúng ta có thể khai thác được những yếu tố, nguồn lực bên ngoài (vốn, công nghệ, thị trường..) và những nguồn lực bên trong của đất nước có hiệu quả, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn, kết hợp các bước đi tuần tự với nhảy vọt, vừa tăng tốc, vừa chạy trước, đón đầu. Là nước tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đi sau, chúng ta có lợi thế của người đi sau. Không những có thể tiếp nhận được những công nghệ hiện đại mà còn rút được nhiều bài học của các nước đi trước đăc biệt của các “con rồng”, “con hổ” trên lĩnh vực (như kinh nghiệm chuyển giao công nghệ, thu hút vốn đầu tư, bảo vệ môi trường, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống.. ). Cả kinh nghiệm thành công và không thành công đều là bổ ích đối với chúng ta. Việt Nam lại nằm ở Đông Nam á- khu vực đang phát triển năng động và tốc độ cao, lại chịu ảnh hưởng của quy luật “lây lan” đó cũng là điều kiện thuận lợi. Đất nước sau 10 năm đổi mới, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, nhiều tiền đề cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được tạo ra, chúng ta đã và đang có những thế và lực mới, cả ở bên trong và bên ngoài để bước vào một thời kỳ phát triển mới. Tài nguyên thiên nhiên của đất nước ta đa dạng, phong phú, tuy không phải là loại giàu nếu xét theo bình quân đầu người, song có thể phát triển một nền kinh tế đa dạng, tạo thuận lợi cho giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Nếu xét về mặt này thì phần nào nước ta có lợi thế hơn so với các NIEs ở giai đoạn bắt đầu công nghiệp hóa. Tuy nhiên, không thể coi tài nguyên thiên nhiên là nguồn lực chủ chốt cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nước ta có 3260 km bờ biển. Các vùng biển và thềm lục địa thuộc chủ quyền tài phán quốc gia rộng gấp ba lần diện tích đất liền, đây là một tiềm năng to lớn và đa dạng. Nằm ở cửa ngõ giao lưu quốc tế, có thể phát triển các loại hình vận tải quá cảnh, viễn dương, dịch vụ hàng hải, viễn thông quốc tế. Thực tế cho thấy NIEs đều là những quốc gia – lãnh thổ hải đảo, bán đảo với các ngành kinh tế biển đóng vai trò mũi nhọn trong phát triển. Về tài nguyên con người- nguồn lực quan trọng nhất, là “ điểm tựa” cho quá trình phát triển cả trước mắt và lâu dài. ở các NIEs, nhân tố con người cũng là yếu tố quyết định cho sự thành công của quá trình công nghiệp hóa. Nước ta có đội ngũ lao động có học vấn tương đối khá, có khả năng tiếp thu kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, kể cả ngành nghề mới. Đặc biệt là lực lượng lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ được đào tạo tương đối lớn (Hiện tại nước ta có khoảng 9000 tiến sĩ và phó tiến sĩ, trên 800.000 người có trình độ đại học, cao đẳng và trên 2 triệu công nhân kỹ thuật). Lực lượng này có khả năng làm chủ, tiếp thu và thích nghi với các công nghệ nhập từ nước ngoài, kể cả công nghệ cao. Nước ta cũng có một lực lượng tương đối lớn người Việt Nam sống ở nước ngoài( chủ yếu là châu Âu, Oxtrâylia) ,trong đó có trên 300.000 người có trình độ cao về chuyên môn. Đây là một nguồn quan trọng góp phần phát triển đất nước, là cầu nối Việt Nam với thế giới về chuyển giao trí thức, công nghệ, các quan hệ quốc tế. Với các tiềm năng trên thêm với đường lối, chính sách đúng đắn chúng ta có thể tranh thủ được thời cơ thuận lợi và vượt qua những thử thách, thực hiện thắng lợi công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đưa đất nước thành một nước công nghiệp vào năm 2020. 2.1.2 Những khó khăn: Bên cạnh những thuận lợi, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước cũng gặp phải không ít những khó khăn. Bối cảnh quốc tế và khu vực vừa tạo ra thời cơ thuận lợi, vừa đặt ra những thử thách, nguy cơ. Đặc biệt là “nguy cơ tụt hậu” xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực vẫn là thử thách to lớn và gay gắt do điểm xuất phát của ta quá thấp, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt. Nước ta lại nằm trong khu vực Châu á- Thái Bình Dương và Biển Đông, nơi đang còn những diễn biến phức tạp, nơi đang “tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn định” Dấu ấn của cơ chế quản lý cũ- cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu- bao cấp chưa được xóa bỏ hết; cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước còn đang trong quá trình hình thành. Quản lý kinh tế- xã hội còn nhiều yếu kém, thủ tục hành chính rườm rà, bộ máy hành chính cồng kềnh kém hiệu quả.. có ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đến việc thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ.. Đặc biệt tệ quan liêu, tham nhũng và suy thoái về phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, Đảng viên.. làm cho các chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước bị thi hành sai lệch dẫn tới chệch hướng, đó cũng là mảnh đất thuận lợi cho diễn biến hòa bình.. Từ một điểm xuất phát quá thấp bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khả năng huy động vốn cho quá trình này rất bị hạn chế, mà vốn là chìa khóa, là điều kiện hàng đầu để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay, trong tổng số vốn dùng để đầu tư xây dựng cơ bản của Nhà nước thì vốn trong nước chỉ có 25% còn 75% là vay nước ngoài. Quản lý và sử dụng kém hiệu quả cùng với tham nhũng.. sẽ là nguy cơ gánh nặng nợ nần lớn lên và khả năng trả nợ khó khăn. Bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa từ một cơ cấu kinh tế mất cân đối và kết cấu hạ tầng kém phát triển là những khó khăn, cản trở đáng kể, đòi hỏi phải có sự chuyển biến nhanh chóng mới tạo điều kiện để tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước có hiệu quả. Vì vậy, trong kế hoạch 5 năm (1996-2000) Nhà nước đặc biệt chú ý tới chương trình phát triển công nghiệp và kết cấu hạ tầng. Kinh nghiệm của các NIEs và các nước ASEAN đều cho thấy, ở đâu hệ thống năng lượng, giao thông vận tải và liên lạc được xây dựng và hiện đại thì ở đó kinh tế, dịch vụ phát triển nhanh, có hiệu quả; đặc biệt là ở các điểm nút mở ra với thị trường thế giới và gắn với các trung tâm phát triển kinh tế hướng ngoại. Nhìn chung những khó khăn ban đầu và phát sinh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là rất lớn, song mặt thuận lợi vẫn là cơ bản. Với đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đúng đắn, chắc chắn sự nghiệp vĩ đại, nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội này ở nước ta nhất định giành được thắng lợi. 2.2 Trang bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại cho nền kinh tế quốc dân: Thế giới đã trải qua 2 cuộc cách mạng kỹ thuật: cuộc cách mạng kỹ thuật mà nội dung chủ yếu của nó là cơ khí hóa xuất hiện đầu tiên ở nước Anh vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII và hoàn thành vào những năm 50 đầu thế kỷ XIX. Đến khoảng giữa thế kỷ XX xuất hiện cuộc cách mạng khoa học- công nghệ hiện đại. Mấy thập niên đã qua, nhất là thập niên gần đây loài người đang chứng kiến những thay đổi rất to lớn, trên nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị và xã hội. Cuộc cách mạng này có nhiều nội dung, song có năm nội dung chủ yếu sau: -Về tự động hóa: Máy tự động quá trình, máy công cụ điều khiển bằng số; rôbốt. -Về năng lượng: Ngoài những dạng năng lượng truyền thống (nhiệt điện, thủy điện) ngày nay đã và đang chuyển sang lấy dạng năng lượng điện nguyên tử là chủ yếu. -Về vật liệu mới: chỉ trong khoảng chưa đầy 40 năm lại đây các vật liệu mới đã xuất hiện với chủng loại rất phong phú và có nhiều tính chất đặc biệt mà vật liệu tự nhiên không có được. Thí dụ: vật liệu tổ hợp hay còn gọi là composit với các tính chất mong muốn; gốm zin côn hoặc các- bua- si- lic chịu nhiệt cao.. . -Về công nghệ sinh học: công nghệ vi sinh, kỹ thuật cuzin; kỹ thuật gen và nuôi cấy tế bào được ứng dụng ngày càng nhiều trong công nghiệp, nông nghiệp, y tế, hóa chất, bảo vệ môi trường.. . Vào giữa những năm 80, cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật(hay công nghệ) hiện đại chuyển sang giai đoạn thứ ba- giai đoạn có nhiều quan điểm khác nhau đặt tên gọi cho nó. Có người cho rằng đó là giai đoạn vi điện tử; có nhiều ý kiến cho là giai đoạn tin học hóa; các nhà tương lai học gọi là giai đoạn văn minh trí tuệ- theo họ văn minh này diễn ra sau văn minh nông nghiệp và văn minh công nghiệp. Tương ứng với giai đoạn thứ ba cuộc cách mạng này còn có một nội dung mới: điện tử và tin học. -Về điện tử và tin học: một lĩnh vực vô cùng rộng lớn và hấp dẫn, nhất là lĩnh vực máy tính, diễn ra theo 4 hướng nhanh(siêu máy tính);nhỏ(vi tính);máy tính có xử lý kiến thức(trí tuệ nhân tạo); máy tính nói từ xa(viễn tin học). Từ nội dung cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật, mặc dù có thể còn có ý kiến nào đó khác nhau, song nhiều ý kiến nhất trí cho vằng cuộc cách mạng này có hai đặc trưng chủ yếu: Một là,khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp,tức là nó bao gồm cả khoa học tự nhiên- kỹ thuật lẫn khoa học- xã hội, nhất là khoa học kinh tế; nó do con người tạo ra thông qua con người- nhân tố trung tâm- nhân tố chủ thể- đến lực lượng sản xuất. Nó đòi hỏi phải có chính sách đầu tư đúng đắn cho khoa học- kỹ thuật. Ngày nay, bất cứ một sự tiến bộ nào của kỹ thuật( công nghệ) sản xuất đều phải dựa trên những thành tựu của khoa học làm cơ sở lý thuyết cho nó. Hai là, thời gian cho một phát minh mới của khoa học ra đời thay thế cho phát minh cũ có xu hướng rút ngắn lại và phạm vi ứng dụng của một thành tựu khoa học vào sản xuất và đời sống ngày càng mở rộng. Đặc trưng này làm cho tài sản cố định trong quá trình sử dụng, thậm chí vừa mới xây dựng xong không chỉ bị hao mòn hữu hình mà còn bị hao mòn vô hình nhanh chóng hơn trước; không chỉ liên quan đến sự tích lũy vốn mà còn liên quan đến sự biến động của giá thành sản phẩm và liên quan đến tốc độ thay đổi nhanh chóng của các ngành có công nghệ mũi nhọn. Nó đòi hỏi cần được kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược khoa học- kỹ thuật(công nghệ) với chiến lược kinh tế xã hội. Nước ta, một nước bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH, công nghiệp hóa, hiện đại hóa được tiến hành trong điều kiện thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật diễn ra trong xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa. Trong hoàn cảnh đó cuộc cách mạng khoa học- kỹ thuật ở nước ta phải bao gồm cả cơ khí hóa và hiện đại hóa, coi nó là “then chốt” và coi khoa học- công nghệ là “ động lực” cho sự tăng trưởng và phát triển bền vững. 2.3 Xác định cơ cấu kinh tế hợp lý và phân công lại lao động xã hội: 2.3.1 Xác định cơ cấu hợp lý: Việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý bao giờ cũng phải dựa trên tiền đề là phân công lại lao động xã hội. Từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn XHCN không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa trong quá trình công nghiệp hóa tất yếu phải phân công lại lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hóa lao động, tức là sự chuyên môn hóa sản xuất giữa các ngành trong nội bộ từng ngành và giữa các vùng trong nền kinh tế quốc dân. Phân công lao động có tác dụng to lớn: nó là đòn bẩy của sự phát triển công nghệ và năng suất lao động;cùng với cách mạng khoa học- kỹ thuật nó góp phần hình thành và phát triển có cấu kinh tế hợp lý. Sự phân công lại lao động xã hội trong quá trình công nghiệp hóa tuân thủ các quá trình có tính quy luật sau: -Tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần; tỷ trọng và số tuyệt đối lao động công nghiệp ngày một tăng lên. -Tỷ trọng lao động trí tuệ ngày một tăng và chiếm ưu thế so với lao động giản đơn trong tổng lao động xã hội. -Tốc độ tăng lao động trong các ngành phi sản xuất vật chất (dịch vụ) tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất. Nước ta, phương hướng phân công lại lao động xã hội hiện nay cần triển khai trên cả hai địa bàn: tại chỗ và nơi khác để phát triển về chiều rộng kết hợp với phát triển theo chiều sâu. Trong hai địa bàn này, cần ưu tiên địa bàn tại chỗ; nếu cần chuyển sang địa bàn khác (đi vùng kinh tế mới) phải có sự chuẩn bị chu đáo. Như trên đã nói vấn đề phân công lao động xã hội có liên quan chặt chẽ với việc xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Cơ cấu kinh tế hiểu theo nghĩa rộng bao gồm: cơ cấu ngành và lĩnh vực kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế và hướng phát triển trên các vùng kinh tế. Cơ cấu kinh tế hiểu theo nghĩa hẹp là tổng thể các quan hệ kinh tế giữa các ngành, các lĩnh vực kinh tế, giữa các vùng kinh tế.. .trong đó, quan hệ giữa công nghiệp, nông nghiêp và dịch vụ là ba bộ phận có tầm quan trọng- “bộ xương” của cơ cấu kinh tế. Các quan hệ này được xem xét dưới các khía cạnh: trình độ công nghệ, quy mô, nhịp điệu phát triển giữa chúng. Xây dựng cơ cấu kinh tế là yêu cầu cần thiết khách quan của mỗi nước trong thời kỳ công nghiệp hóa. Vấn đề quan trọng là tạo ra một cơ cấu kinh tế tối ưu (hợp lý). Xây dựng một cơ cấu kinh tế được gọi là tối ưu khi nó đáp ứng được các yêu cầu: -Phản ánh được và đúng các quy luật khách quan, nhất định là các quy luật kinh tế -Phù hợp với xu hướng của sự tiến bộ của khoa học và công nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới. -Cho phép khai thác tối đa mọi tiềm năng của đất nước, ngành, xí nghiệp, cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. -Thực hiện sự phân công và hợp tác quốc tế theo xu hướng sản xuất và đời sống ngày càng được quốc tế hóa, do vậy , cơ cấu kinh tế được tạo dựng phải là “cơ cấu mở”. -Xây dựng cơ cấu kinh tế là một quá trình, trải qua những chặng đường nhất định, do vậy xây dựng cơ cấu kinh tế của chặng đường trước phải sao cho tạo được đà cho chặng đường sau. Nước ta qua hàng chục năm xây dựng cơ cấu kinh tế đã đem lại những thành công nhất định, tạo dựng được một bộ phận cơ sở vật chất, công nghệ nhất định. Song trong việc bố trí cơ cấu kinh tế có những sai lầm không nhỏ về cơ cấu ngành, chạy theo công nghiệp nặng, công nghiệp cơ khí quá nhiều, xem nhẹ nông nghiệp và kết cấu hạ tầng; chạy theo quy mô lớn; công nghệ lạc hậu.. .Qua nhiều lần đại hội, nhưng kể từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, dưới ánh sáng của sự đổi mới nói chung, trong đó có đổi mới việc xây dựng cơ cấu kinh tế, đến nay đã đưa lại chuyển động bước đầu quan trọng: tỷ trọng công nghiệp và xây dựng trong GDP từ 22,7% năm 1990 tăng lên 30,1% năm1995; tỷ trọng các ngành dịch vụ từ 38,6% năm 1990 tăng lên 42,4% năm 1995. Nước ta đã chuyển sang một thời kỳ mới – thời kỳ đẩy mạnh CNH,HĐH phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH để đến năm 2000 về cơ bản nước ta trở thành một nước công nghiệp. Thông qua cách mạng khoa hoc- kỹ thuật và phân công lại lao động với những tính quy luật vốn có của nó, thích ứng với điều kiện nước ta, Đảng ta đã xác định một cơ cấu kinh tế hợp lý, mà “bộ xương” của nó là:” Cơ cấu kinh tế công- nông nghiệp- dịch vụ gắn với phân công và hợp tác quốc tế sâu rộng, và khi hình thành về cơ cấu kinh tế đó, sẽ cho phép nước ta kết thúc thời kỳ quá độ lên CNXH” Phương hướng phát triển của các ngành trong cơ cấu ấy phải đáp ứng được yêu cầu của mô hình chiến lược cụ thể là: Thứ nhất, khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng về nông- lâm- ngư nghiệp, thúc đẩy nhanh việc hình thành các vùng tập trung, chuyên canh, đưa công nghệ sinh học và các phương pháp canh tác tiên tiến vào nông nghiệp, thúc đẩy quá trình CNH nông nghiệp và nông thôn, bảo đảm thỏa mãn các nhu cầu lương thực, thực phẩm trong nước, tạo nguồn nguyên liệu vững chắc cho công nghiệp chế biến, tăng nguồn hàng xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, phân công lại lao động xã hội, mở rộng thị trường trong nước cho công nghiệp và dịch vụ. Thứ hai, kết hợp phát triển nông- lâm- ngư nghiệp với phát triển công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản: phát triển công nghiệp chế biến lúa gạo có chất lượng ngày càng cao đáp ứng nhu cầu trong nước, nâng cao hiệu quả xuất khẩu; chế biến thực phẩm có chất lượng dinh dưỡng cao, bảo đảm vệ sinh, đa dạng hóa mặt hàng, kiểu cách và nhãn hiệu để phục vụ nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu,tăng nhanh năng lực và nâng cao trình độ công nghệ chế biến các loại cây công nghiệp dài ngày, lâm sản và thủy sản. Thứ ba, phát triển mạnh mẽ sản xuất hàng tiêu dùng thông thường để thỏa mãn những nhu cầu tiêu dùng cơ bản, thiết yếu và phổ thông của dân cư, hạn chế tối đa việc nhập khẩu hàng hóa,nhằm tiết kiệm ngoại tệ, vừa tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển trong nước.Mở rộng sản xuất hàng lâu bền, cao cấp để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của dân cư, giảm dần tiến tới thay thế nhập khẩu loại hàng hóa này bằng hàng hóa sản xuất trong nước.Cần chú ý tới đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng, đa dạng hóa mặt hàng, cải tiến bao bì, giảm giá thành.. . để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hóa sản xuất trong nước. Phát huy lợi thế nhân công và truyền thống sản xuất đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ xuất khẩu, tập trung chủ yếu vào các sản phẩm may mặc, dệt, da,hàng điện tử, đồ điện gia dụng... Thứ tư, xây dựng, cải tạo và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển các ngành kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trước hết ưu tiên cho những khâu ách tắc và yếu kém nhất đang cản trở sự phát triển. Thứ năm, xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công nghiệp nặng trọng yếu và hết sức cấp thiết, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường, để phát huy nhanh và có hiệu quả cao.Cụ thể: ngành cơ khí hướng mạnh vào sản xuất công cụ, thiết bị phục vụ công nghiệp chế biến nông lâm thủy sản và sản xuất hàng tiêu dùng; sản xuất phụ tùng, lắp ráp một số loại sản phẩm phức tạp, có trình độ kỹ thuật cao; phát triển công nghiệp điện lực phục vụ quá trình điện khí hóa nước; phát triển một số ngành sản xuất nguyên liệu vật liệu: dầu khí và lọc dầu, xi măng, luyện cán thép, khai thác khoáng sản.. . Thứ sáu, phát triển dịch vụ du lịch, khai thác có hiệu quả lợi thế về tự nhiên, truyền thống lịch sử văn hóa dân tộc, phục vụ phát triển kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.. . Ngoài ra, trong cấu trúc của cơ cấu kinh tế còn có: Cơ cấu vùng kinh tế: Phải tạo điều kiện cho tất cả các vùng đều phát triển trên cơ sở khai thác thế mạnh và tiềm năng của mỗi vùng, liên kết giữa các vùng, làm cho mỗi vùng đều có một cơ cấu kinh tế hợp lý và đều chuyển biến tiến bộ, góp phần vào sự phát triển kinh tế- xã hội.Thực hiện đầu tư trọng điểm vào 3 vùng kinh tế Bắc,Trung ,Nam. Cơ cấu giữa thị tứ, thị xã, thị trấn,thành phố và đô thị:Tùy theo điều kiện từng nơi, tất cả các thị xã, thị trấn đều phải được phát triển trên cơ sở đẩy mạnh công nghiệp dịch vụ mang ý nghĩa tiểu vùng. Hình thành các thị tứ làm trung tâm kinh tế, văn hóa cho mỗi xã hoặc cụm xã. Phát triển các đô thị vệ tinh xung quanh các thành phố lớn để dãn bớt côngnghiệp và dân cư, tránh sự tập trung quá mức vào Hà Nội,thành phố Hồ Chí Minh.Tạo điều kiện cần thiết để thu hút công nghiệp và phát triển đô thị mới lên vùng đồi trung du, tránh sử dụng nhiều diện tích đất lúa. Hạn chế mở rộng quy mô các thành phố lớn,sớm quy hoạch mạng lưới đô thị,đồng thời phải chú ý đền việc phải xây dựng đồng bộ và quản lý các công trình điện, cấp thoát nước, cây xanh.. Coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế văn hóa, giữ gìn bản sắc và truyền thống văn hóa dân tộc với tiến lên hiện đại trong phát triển đô thị Cơ cấu thành phần kinh tế: Lấy việc giải phóng sức sản xuất, động viên tối đa mọi nguồn lực bên trong và bên ngoài cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,HĐH.Phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước,tạo điều kiện thuận lợi về kinh tế và pháp lý để các chủ doanh nghiệp tư nhân yên tâm đầu tư chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Mở rộng hình thức liên doanh, liên kết, áp dụng rộng rãi các hình thức kinh tế tư bản Nhà nước. 2.3.2 Đẩy mạnh cách mạng khoa học kỹ thuật và chuyển giao công nghệ từ nước ngoài. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ thế giới đã và đang đóng vai trò rất to lớn đối với sự nghiệp CNH,HĐH trong tất cả các nước, nhất là những nước có nền kinh tế kém phát triển. Tuy nhiên, cách thức tiến hành ở các nước lại không giống nhau, có nước tiến hành bằng cách tự nghiên cứu, tự trang bị công nghệ mới cho các ngành kinh tế trong nước, có nước tiến hành thông qua chuyển giao công nghệ,cũng có nước tiến hành bằng cách kết hợp giữa tự nghiên cứu với chuyển giao. Theo kinh nghiệm của Nhật Bản và các nước NIEs ở thời kỳ công nghiệp hóa, xây dựng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã chứng minh rằng chuyển giao công nghệ là cách làm rẻ nhất, có hiệu quả nhất để có được công nghệ hiện đại. Việt Nam, sau một thời gian dài áp dụng không thành công mô hình CNH theo kiểu Liên Xô(cũ), mà thực chất là mô hình CNH hướng nội, nhờ đường lối đổi mới kinh tế, Đảng ta đã nhanh chóng vận dụng những bài học thành công về CNH của các nước khu vực để chuyển sang mô hình CNH hướng ngoại. Điều này đã tạo thuận lợi cho Việt Nam tham gia vào quá trình chuyển giao công nghệ với các nước trên thế giới và trong khu vực. Hiện nay trình độ công nghệ của Việt Nam còn rất thấp kém so với các nước láng giềng, chậm so với Trung Quốc khoảng 10 năm, và so với Đài Loan khoảng 20-30 năm ở vào thời điểm bắt đầu CNH. Vì vậy, tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ nước ngoài là cần thiết.Tuy nhiên trong quá trình tiếp nhân chuyển giao công nghệ phải tỉnh táo để tránh nhập công nghệ lỗi thời do các nước thải ra,tránh không để cho Việt Nam trở thành “bãi thải công nghệ” của các nước phát triển. Song song với quá trình tiếp nhận chuyển giao công nghệ, Việt Nam còn phải xây dựng cho mình chiến lược phát triển khoa học và công nghệ quốc gia mang tính tổng thể lâu dài, bao gồm cả nghiên cứu, chuyển giao, thử nghiệm và ứng dụng. Đại hội Đảng lần thứ VIII đã khẳng định vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ: “Phát triển khoa học và công nghệ, nâng cao năng lực nội sinh, coi đó là nhân tố quan trọng để thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” Xuất phát từ điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, việc chuyển giao và phát triển khoa học, công nghệ sẽ theo phương hướng chung và giải pháp cụ thể sau đây: Phương hướng chung: hình thành cơ cấu kỹ thuật và công nghệ nhiều tầng, kết hợp nhiều trình độ, nhiều quy mô,tranh thủ tối đa công nghệ tiên tiến, cải tiến công nghệ truyền thống, ưu tiên công trình quy mô vừa và nhỏ nhưng không loại trừ cơ sở quy mô lớn hoặc tương đối lớn nếu có hiệu quả và điều kiện cho phép. Trong những năm trước mắt, coi trọng loại công nghệ có suất đầu tư thấp, thu hồi vốn nhanh, tạo thêm việc làm cho người lao động. Các giải pháp cụ thể là: Thứ nhất, chọn giải pháp kỹ thuật, công nghệ phù hợp để đầu tư chiều sâu,tận dụng có hiệu quả các cơ sở hiện có sau những năm xây dựng trước đay Thứ hai, cải tiến, nâng cấp,hiện đại hóa các kỹ thuật và công nghệ truyền thống phục vụ phát triển kinh tế nông thôn, thực hiện công nghiệp hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Thứ ba,tranh thủ công nghiệp tiên tiến, đặc biệt là đối với các dự án đầu tư nước ngoài.Thực hiện giám định nghiêm ngặt việc nhập công nghệ và thiết bị. Thứ tư, cần đặt ra một cách nghiêm túc ngay từ đầu vấn đề bảo vệ môi trường trong quá trình CNH,HĐH để tránh những hậu quả xấu phải trả giá đắt.Đầu tư nước ngoài bắt buộc phải tuân thủ tiêu chuẩn quốc tế và bảo vệ môi trường,nên bố trí các cụm công nghiệp phân tán ở nhiều địa bàn vừa là một biện pháp đỡ tốn kém vừa để hạn chế ô nhiễm. Thứ năm,gấp rút nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia nhằm đổi mới và làm chủ công nghệ nhập và sáng tạo công nghệ mới.Ưu tiên nghiên cứu ứng dụng tập trung cho các lĩnh vực công nghệ điện tử và tin học,công nghệ sinh học,công nghệ chế tạo và gia công vật liệu nhất là nguồn vật liệu trong nước.Chú trọng đúng mức các hoạt động nghiên cứu khoa học cơ bản. Cuối cùng là, tăng đầu tư bằng nhiều nguồn vốn cho việc nghiên cứu khoa học, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học, phát triển giáo dục và đào tạo, có cơ chế bồi dưỡng và bảo vệ nhân tài, được coi như “một kế sách bền sâu” để tiến hành CNH,HĐH trên cơ sở tận dụng thế mạnh của dân tộc và con người của cộng đồng Việt Nam. 3. Phân tích các điều kiện để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay: 3.1 Tạo nguồn vốn và sử dụng vốn có hiệu quả Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy nhân tố hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng như của sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế lớn là phải có vốn lớn.Vốn nhiều hay ít tùy thuộc vào năng lực của cơ chế huy động, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả hay không.Muốn cho sự nghiệp CNH-HĐH được tiến hành với tốc độ nhanh cần phải có cơ chế, chính sách và biện pháp huy động được nguồn vốn nhiều nhất, quản lý và sử dụng vốn có hiệu quả nhất

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50084.doc
Tài liệu liên quan