Công nghiệp nông thôn có thuận lợi về mặt nguyên liệu , đặc biệt các ngành chế biến nông sản , dịch vụ cho nông nghiệp và các ngành sử dụng nguyên liệu tận dụng từ nông nghiệp . Mặt khác ở nước ta có nhiều loại nguyên liệu phân tán ở nhiêu vùng lãnh thổ ( dặc biệt là khoáng sản ) . Trữ lượng và chất lượng của chúng ta chưa đủ để tổ chức khai thác và chế biến trên quy mô lớn . Tuy nhiên nếu chỉ sản xuất quy mô nhỏ , chất lượng đòi hỏi không quá cao ( công nghiệp sơ chế chẳng hạn ) lại là nguồn nguyên liệu tại chỗ rất tiện lợi , cho phép tiết kiệm chi phí vận chuyển và hạ giá thành sản phẩm . Hơn nữa , khai thác các loại tài nguyên này cũng phù hợp với trình độ thấp trong các khâu chế biến trong công nghiệp nông thôn phù hợp với xu hướng thời kỳ đầu công nghiệp hoá là tận dụng nguồn lao động rẻ , tài nguyên có sẵn để tích luỹ , phát triển công nghiệp . Hiện nay , trình độ lao động nông thôn có trình độ tốt nghiệp phổ thông cơ sở và phổ thông trung học là khá cao , do vậy tuy chưa tiếp xúc trực tiếp với công nghệ hiện đại , chưa có kỹ năng , kỹ sảo trong hoạt động công nghiệp , song khả năng học nghề của họ khá nhanh . Ngoài những thuận lợi trên cũng phải thấy rằng công nghiệp nông thôn nước ta không phải bắt đầu từ con số không mà đã tồn tại , đã có sự phát triển về mặt tổ chức kinh doanh , tổ chức quản lý kinh doanh và quản lý của nhà nước đối với công nghiệp hoá nông thôn .
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3650 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta từ nay đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vậy , nếu cứ giữ mô hình đó sẽ không tránh khỏi lạc hậu , lạc điệu và lạc lõng trước bước tiến như vũ bão của thế giới .
Ngày nay , nền kinh tế trên thế giới là nền kinh tế mở , khả năng tận dụng , tranh thủ công nghệ tiên tiến của các nước phát triển là dễ dàng do đó có thể rút ngắn thời gian cần thiết để từ một nứoc chậm phát triển thành một nước có nền kinh tế phát triển , điều mà nếu áp dụng mô hình công nghiệp hoá cổ điển không thể đạt được . Do đó con đường sẽ được chọn đối với các nước tiến hành công nghiệp hoá muộn sẽ là con đường “ Công nghiệp hoá gắn với hiện đại hoá và quốc tế hoá qua chuyển giao công nghệ ” và đó là con đường mà chúng ta đã , đang và sẽ thực hiện để trang bị cơ sở vật chất , kỹ thuật hiện đại cho nền kinh tế .
2. Xây dựng cơ cấu kinh tế mới hợp lý .
Nói đến cơ cấu kinh tế là muốn nói trong nền kinh tế có bao nhiêu ngành ( bộ phận ) hợp thành và mối liên quan giữa các ngành đó như thế nào . Cơ cấu kinh tế hợp lý là cơ cấu kinh tế cho phép ta khai thác được mọi tiềm năng bên trong và các lợi thế so sánh bên ngoài của đất nước . Sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên , bảo vệ môi trường sinh thái , phát huy được thế mạnh về lao động , đất đai truyền thống ngành nghề , tạo một thế đứng cho nước ta trong tương lai trên thị trường thế giới , tham gia có hiệu quả vào việc phân công lao động và hợp tác quốc tế , bảo đảm sự phát triển có hiệu quả với năng suất cao cho toàn bộ nền kinh tế .
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là yêu cầu tất yếu trong quá trình công nghiệp hoá , cơ cấu kinh tế đó phải đảm bảo các yêu cầu sau :
Phản ánh đúng đắn các yêu cầu của các quy luật khách quan , đặc biệt là các quy luật kinh tế .
Phù hợp với xu thế phát triển của khoa học – kỹ thuật và công nghệ hiện đại trên thế giới hiện nay .
Phù hợp với sự phân công và hợp tác quốc tế ngày càng phát triển .
Tính hợp lý của cơ cấu còn phải đảm bảo cho phép tối ưu hoá việc sử dụng lợi thế so sánh về tài nguyên lao động của nước phát triển muộn về công nghiệp . Chỉ có như vậy mới cho phép khai thác tối đa và có hiệu quả những tiềm năng vốn có của các ngành , các địa phương , và các đơn vị kinh tế cơ sở .
Từ những yêu cầu đó , Đảng ta đề ra mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu , sản xuất nhỏ là chủ yếu sang nền kinh tế có cơ cấu công nông nghiệp và dịch vụ hợp lý theo hướng công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Từ một nền kinh tế tự nhiên ( tự cung , tự cấp ) sang nền kinh tế hàng hoá tương đối phát triển với thị trường nội địa thống nhất toàn quốc và mở rộng giao lưu trên thị trường thế giới . Kết hợp cơ cấu hướng ngoại và hướng nội để giảm nhẹ các chấn động có hại của thị trường thế giới .
Phải tăng nhanh khu vực công nghiệp chế biến và dịch vụ , thực hiện công nghiệp hoá theo nghĩa xây dựng một cơ cấu kinh tế đa ngành đảm bảo nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao .
Để cơ cấu kinh tế có thể chuyển dịch một cách linh hoạt , theo kịp với đà tiến bộ của kỹ thuật và công nghệ cần hạn chế các công trình có quy mô lớn , hết sức coi trọng các công trình có quy mô vừa và nhỏ vốn đầu tư ban đầu đòi hỏi còn ít , thời gian xây dựng ngắn và hệ số hoàn vốn cao .
Chủ trương công nghiệp hoá nước ta mấy thập kỷ trước đây ( cụ thể từ năm 1986 trở về trước ) thực hiện chưa được thành công là do :
Chưa hiểu đúng nội dung , bước đi của công nghiệp hoá phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của nước ta cộng thêm với tư tưởng chủ quan , nóng vội .
Xuất phát điểm của nước ta từ một nền kinh tế kém phát triển : sản xuất không đủ tiêu dùng , xuất không đủ nhập , thu không đủ chi … nên không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế quốc dân .
Có thiếu sót trong việc chỉ đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế , cơ cấu đầu tư nên mang lại hiệu quả thấp .
Cơ chế quản lý kinh tế theo kiểu bao cấp làm triệt tiêu động lực phát triển sản xuất . Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh đạt thấp , nhất là khu vực kinh tế quốc doanh .
Sự phân công lao động và hợp tác quốc tế của khối SEV cũ mang nặng tính hình thức .
Việc phân công hợp tác liên doanh chưa đáng kể . Thời gian từ nay đến cuối thế kỷ , trước mắt nhân dân ta cũng gặp những thách thức lớn . Đồng thời cũng có những thuận lợi rất cơ bản như :
Từ những thành tựu của công cuộc đổi mới trong mấy năm qua ( đặc biệt là từ năm 1991 đến nay ) đã chứng minh được đường lối đúng dắn của Đảng , tạo ra thế lực mới cho việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế .
Tài nguyên phong phú , nguồn lao động dồi dào và có tri thức văn hoá chuyên môn khá . Công suất máy móc sử dụng chưa được 90% . Đó là những tiềm năng quan trọng mà ta có khả năng khai thác được trong thời gian tới .
Xu thế mở rộng quan hệ hợp tác và phát triển trên thế giới và trong khu vực … tạo đIều kiện thuận lợi cho ta tiếp nhận vốn , kỹ thuật và công nghệ , kinh nghiệm quản lý của các nước .
Ta có lợi thế so sánh với các nước trong khu vực về vị trí địa lý , bờ biển để xây dựng các sân bay , bến cảng lớn , lập các khu chế suất dọc bờ biển , lập các trạm , kho trung chuyển , hàng hoá cho các nước trong khu vực .
Với các thuận lợi cơ bản nói trên , trong một thời gian không lâu chúng ta nhất định thực hiện được nhiệm vụ thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hương công nghiệp hoá , hiện đại hoá .
3. Những quan điểm cơ bản của Đảng và nhà nước ta về công nghiệp hoá , hiện đại hoá .
Theo định nghĩa của Liên Hiệp Quốc (1993) CNH là một quá trình phát triển kinh tế trong quá trình này nguồn của cải quốc dân được động viên để phát triển cơ cấu kinh tế nhiều ngành trong nước với kỹ thuật hiện đại . Đặc điểm của cơ cấu kinh tế này là có một bộ phận luôn luôn thay đổi để sản xuất ra những tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng có khả năng đảm bảo cho toàn bộ nền kinh tế phát triển với nhịp độ cao , đảm bảo đạt tới sự tiến bộ kinh tế – xã hội .
Còn hiện đại hoá ( theo định nghĩa của trường đại học Harward – 1994 ) là sự đầu tư một cách hệ thống , lâu dài và có định hướng để thực hiện mục đích của con người .
Như vậy , CNH và HĐH luôn là điều kiện tiền đề của nhau , nhịp điệu nhanh chóng của quá trình phát triển kinh tế xã hội là cơ sở để gia tăng đầu tư một cách có hệ thống . Ngược lại , đầu tư gia tăng sẽ thúc đẩy cơ cấu nhiều ngành với kỹ thuật ngày càng hiện đại .
Chúng ta không thể tiến hành công nghiệp hoá một cách nóng vội , chủ quan mà phải tiến hành trong một quá trình phấn đấu liên tục và lâu dài , từng giai doạn phải có bước đi thích hợp . Trong đại hội đảng , thực hiên nghị quyết hội nghị lần thứ 7 ban chấp hành trung ương khoá 7 đã chỉ rõ :
Chúng ta tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá phải theo đúng định hướng XHCN , muốn vậy trong khi phát triển kinh tế nhiều thành phần phải luôn luôn đảm bảo thành phần kinh tế quốc doanh là chủ đạo , kinh tế quốc doanh là nền tảng của kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước . Gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ , công bằng xã hội , phát triển văn hoá và bảo vệ môI trường sinh thái để từ đó tạo ra đội ngũ cán bộ không chỉ có trình độ , có sức khoẻ mà còn có phẩm chất tốt . Tiến hành công nghiệp hoá phải giữ vững độc lập chủ quyền , đi đôi với việc mở rộng hợp tác quốc tế , tận dụng mọi nguồn vốn trong đó vốn trong nước là quyết định , vốn bên ngoài là quan trọng . Kết hợp kinh tế với quốc phòng và an ninh , chúng ta kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu , đồng thời thay thế nhập khẩu bằng các sản phẩm trong nước .
Cần lấy hiệu quả kinh tế , xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương hướng phát triển , lựa chọn dự án đầu tư về công nghệ , trừ những tổ chức có nhiệm vụ chủ yếu là phục vụ quốc phòng , an ninh và phúc lợi xã hội , tiêu chuẩn hiệu quả quan trọng nhất đối với các doanh nghiệp là kinh doanh có lãi một cách hợp pháp . ở tầm vĩ mô , nhà nước xem xét hiệu quả toàn diện về kinh tế , văn hoá , xã hội , quốc phòng an ninh và môi trường sinh thái cả trước mắt và lâu dài .
Trong giai đoạn hiện nay , việc tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá là công việc của toàn xã hội , toàn Đảng , toàn dân phải đồng tâm nhất trí , đoàn kết một lòng , nêu cao tinh thần tự lực tự cường , ra sức làm ăn có hiệu quả , đặc biệt cần phải đề cao ý thức cần kiệm để tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước .
4. Công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông thôn và kinh tế nông thôn là một phương pháp cấp bách của sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá .
Chính sách công nghiệp hoá nhằm thực hiện công nghiệp hoá , hiện đại hoá hướng tới hình thành một số ngành chăn nuôi trọng yếu đối với sự phát triển kinh tế – xã hội , quốc phòng an ninh , trong đó trọng tâm là công nghệ chế biến tạo , công nghiệp cơ khí đIện tử có vị trí hàng đầu . Song trong những năm trước mắt , khả năng vốn của chúng ta còn có hạn , nhu cầu công ăn việc làm còn bức bách , đời sống của nhhân dân còn chưa ổn định vững chắc . Vì vậy , cần tập trung nỗ lực đẩy mạnh công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn .
Như chúng ta đã biết , nước ta là một nước nông nghiệp với 80% dâb cư đang sinh sống tại các vùng nông thôn . Đây là địa bàn tập trung đại bộ phận người nghèo trong xã hội . Vì vậy phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn đã đang và sẽ là mối quan tâm lớn của nước ta . Song nông nghiệp không thể tự mình đổi mới cơ sở vật chất kỹ thuật và công nghệ , không có khả năng tăng trưởng đủ nhanh , mạnh để tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động mà phải có tác động mạnh mẽ của công nghiệp , dịch vụ , phát huy vai trò hạt nhân của các đo thị ở từng vùng , từng địa bàn . Chỉ có như vậy mới phá vỡ được tình trạng trì trệ , lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp sản xuất nhỏ , tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân , thực hiện xoá đói giảm nghèo làm cho nông thôn ngày càng khá giả do đó trong giai đoạn này chúng ta phải chú trọng đến .
Việc phát triển nông nghiệp là vì bản thân nền kinh tế nước ta trong giai đoạn đầu tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá còn gặp nhiều khó khăn nên chưa đạt được kết quả như chúng ta mong muốn . Vì vậy , trong giai đoạn tiến hành công nghiệp hoá và hiện đại hoá này khi chuyển từ sản xuất nông nghiệp là chính sang sản xuất công nghiệp thì công nghiệp hoá nông thôn là một bước đi tuần tự , có thể thực hiện đơn giản , đễ dàng , phổ biến và phù hợp với điều kiện của đất nước . Mặt khác , quá trình công nghiệp hoá ở nước ta đang gặp những khó khăn to lớn về vốn , về thị trường , về cơ sở hạ tầng . Phát triển công nghiệp hoá nông thôn là một giải pháp cho phép tháo gỡ những vướng mắc đó một cách nhanh chóng , rộng rãi .
Tuy nhìn chung trình độ phát triển kinh tế của đất nước còn thấp song đã có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn về cơ sở hạ tầng , về lực lượng sản xuất . Vì vậy , một bộ phận lớn năng lực sản xuất không được khai thác và tận dụng đúng mức gây ra lãng phí về nhiều mặt .
Chính điều này đã làm giẩm hiệu quả kinh tế xã hội của kinh tế đô thị nói chung , công nghiệp đô thị nói riêng , làm giảm tốc độ phát triển chính của các đô thị đó . Hơn nữa , nông thôn Việt Nam đang đứng trước hàng loạt những vấn đề kinh tế xã hội cần phải giải quyết . Đó là sự hạn chế về đất đai , sự dư thừa về lao động tương đối và tuyệt đối , mức sống vật chất và tinh thần còn thấp kém . Những vấn đề này chỉ có thể giải quyết được bằng chương trình và biện pháp đồng bộ trong đó công nghiệp hoá nông thôn đóng vai trò rất quan trọng bởi vì phát triển công nghiệp nông thôn một mặt làm nhiều thêm các cơ sở sản xuất công nghiệp ở nông thôn tức là làm tăng số các doanh nghiệp tiềm tàng , tạo thêm công ăn việc làm , tận dụng được năng lực sản xuất ở thành thị và lao động dư thừa ở nông thôn , mặt khác , quá trình tích tụ và tập trung làm quy mô của các doanh nghiệp , cơ sở sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp lớn lên thông qua việc tự tích luỹ vốn hoặc sự liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ . Từ đây quá trình phân công lao động được thực hiện với tốc độ lớn hơn trước rất nhiều và kết quả là công nghệ và kỹ thuật được cải tiến và hoàn thiện ở những mức độ khác nhau .
Không những thế , quá trình phát triển công nghiệp nông thôn cũng hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp đô thị , liên kết với công nghiệp đô thị thành một khối thống nhất . Nó làm thay đổi tính chất của mối quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp làm thay đổi tính chất và trình độ của sản xuất nông nghiệp từ đó công nghiệp nông thôn góp phần tích cực vào việc thay đổi tổ chức bộ máy quản lý và cơ chế sản xuất kinh doanh của cả công nghiệp lẫn nông nghiệp do bản chất hàng hoá của nó .
Sự phát triển công nghiệp ở nông thôn còn góp phần thúc đẩy công nghiệp hoá thông qua hàng loạt các tác động như góp phần vào việc tích luỹ đầu tư phát triển công nghiệp , từng bước khai thác và mở rộng thị trường cho công nghiệp , chuẩn bị cơ sở hạ tầng cho sự phát triển của công ngiệp , từng bước tạo nguồn lao động , chuẩn bị tập quán , thói quen , kỹ năng sản xuất và kinh nghiệm quản lý cho các nhà kinh doanh công nghiệp sau này .
Như chúng ta đã biết , bất cứ một chính sách , một phương án nào đều chịu những tác động tích cực và tiêu cực , ở đây chúng ta nghiên cứu những tác động này .
Về mặt tích cực : Trong công cuộc công nghiệp hoá ở nông thôn nước ta , chúng ta có những yếu tố thuận lợi , góp phần tích cực trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước . Trước hết , ta thấy phát triển công nghiệp hoá ở nông thôn là lợi ích chung của cả dân tộc , kể cả các nhà kinh doanh lẫn người dân lao động . Vì lợi ích thiết thực này , khi không còn rằng buộc khắt khe công nghiệp hoá nông thôn có thể phát triển với tốc độ nhanh chóng và rộng rãi , biến đổi linh hoạt theo nhu cầu và cạnh tranh trên thị trường . Chúng ta thấy rằng công nghiệp nông thôn có một thị trường tiềm tàng to lớn . Thị trường tại chỗ của công nghiệp nông thôn là hơn 50 triệu dân được tổ chức thành hơn 10 triệu gia đình trong các làng xã có quy mô rất khác nhau do đó yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng công cộng là rất đáng kể .
Công nghiệp nông thôn có thuận lợi về mặt nguyên liệu , đặc biệt các ngành chế biến nông sản , dịch vụ cho nông nghiệp và các ngành sử dụng nguyên liệu tận dụng từ nông nghiệp . Mặt khác ở nước ta có nhiều loại nguyên liệu phân tán ở nhiêu vùng lãnh thổ ( dặc biệt là khoáng sản ) . Trữ lượng và chất lượng của chúng ta chưa đủ để tổ chức khai thác và chế biến trên quy mô lớn . Tuy nhiên nếu chỉ sản xuất quy mô nhỏ , chất lượng đòi hỏi không quá cao ( công nghiệp sơ chế chẳng hạn ) lại là nguồn nguyên liệu tại chỗ rất tiện lợi , cho phép tiết kiệm chi phí vận chuyển và hạ giá thành sản phẩm . Hơn nữa , khai thác các loại tài nguyên này cũng phù hợp với trình độ thấp trong các khâu chế biến trong công nghiệp nông thôn phù hợp với xu hướng thời kỳ đầu công nghiệp hoá là tận dụng nguồn lao động rẻ , tài nguyên có sẵn để tích luỹ , phát triển công nghiệp . Hiện nay , trình độ lao động nông thôn có trình độ tốt nghiệp phổ thông cơ sở và phổ thông trung học là khá cao , do vậy tuy chưa tiếp xúc trực tiếp với công nghệ hiện đại , chưa có kỹ năng , kỹ sảo trong hoạt động công nghiệp , song khả năng học nghề của họ khá nhanh . Ngoài những thuận lợi trên cũng phải thấy rằng công nghiệp nông thôn nước ta không phải bắt đầu từ con số không mà đã tồn tại , đã có sự phát triển về mặt tổ chức kinh doanh , tổ chức quản lý kinh doanh và quản lý của nhà nước đối với công nghiệp hoá nông thôn .
Về mặt tiêu cực : quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn cũng vấp phải một số khó khăn , khó khăn lớn nhất cần kể tới là tình hình kinh tế kém phát triển ở vùng nông thôn , tình trạng phát triển trong nông nghiệp với trồng trọt là chính trong đó chiếm tỉ trọng lớn là cây lúa . Nạn thiếu ăn kéo dài đè nặng nên tâm lý của người nông thôn , làm cho ngay cả một số vùng tiểu thủ công nghiệp phát triển cao cũng không dám bỏ nông nghiệp , cách ly hoàn toàn khỏi nông nghiệp . Đồng thời tình trạng kém phát triển của nông thôn còn làm cơ cấu tiêu dùng bất lợi cho các sản phẩm công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp . Đi đôi với nó là cơ sở hạ tầng và môi trường kinh doanh chưa đáp ứng được các yêu cầu của việc phát triển nhanh chóng , rộng rãi công nghiệp nông thôn . Hệ thống đường xá , bến bãi , kho tàng cũng như hệ thống điện , hệ thống thông tin liên lạc ở nông thôn rất kém . Những khó khăn này không những ngăn cản sự thâm nhập vào những thị trường mới của công nghiệp nông thôn mà còn gây trở ngại ngay cả cho sản xuất của công nghiệp nông thôn . Thêm nữa , sự yếu kém của cơ sở hạ tầng đã hạn chế sự phát triển của công nghiệp nông thôn trên cả hai mặt .
Nó hạn chế khả năng mở rộng quy mô sản xuất của các doanh nghiệp do khó khăn trong việc đảm bảo đầu ra , đầu vào .
Làm triệt tiêu lợi thế do chi phí lao động thấp bởi vì chi phí cho vận chuyển nguyên liệu cao , giá điện cũng như giá điện thoại cao và như vậy giá thành sản phẩm cũng phải lên cao . Đây là điều hoàn toàn bất lợi , đó là chưa kể đến sự lỡ thời cơ kinh doanh do chậm nắm thông tin của thị trường .
Qua những phân tích trên đây chúng ta thấy rằng công nghiệp hoá nông thôn là một hình thức cụ thể thích hợp để công nghiệp gắn với nông nghiệp , phục vụ nông nghiệp , là một bước cần thiết để thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá . Nó đồng thời cũng là bộ phận quản trọng trong nền kinh tế , ở giao điểm của những chính sách then chốt để phát triển nền kinh tế ( như chính sách công nghiệp hoá , chính sách phân bố lực lượng sản xuất , chính sách phát triển kinh tế , lãnh thổ … )
Việc phát triển công ngiệp cũng đồng thời đòi hỏi phải có một chính sách nhất quán với tư cách là một bộ phận quan trọng trong chiến lược kinh tế nói chung .
Vì vậy trong những năm trước mắt ,đảng và nhà nước ta cần phải hỗ trợ và khuyến khích ,huy động vốn để phát triển công ngiệp nông thôn ,hỗ trợ và đầu tư trực tiếp vào việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng ở nông thôn . Khuyến khích đổi mới kĩ thuật chuyển giao công nghệ thực hiên chế độ ưu đãi về thuế và bảo hộ sản xuất một cách chọn lọc đối vơí môt số sản phẩm và một số địa phương . Có như vậy thì chúng ta mới có thể tạo điều kiện cho việc phát triểncông nghiệp ở nông thôn và cũng từ đấy mới có thể tác động nhanh nhất đến mạng lưới giao thông, bến bãi , kho tàng ( Tức cơ sở hạ tầng của nền kinh tế )và như vậy thuận tiện cho sự giao lưu nguyên vật liệu cũng như sản phẩm giữa các vùng , từ những miền hẻo lánh nhiều nhiều tài nguyên đến các nhà máy , kho tàng ,bến bãi .
Khuyến khích đối với kỹ thuật , chuyển giao công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm , tận dụng cũng như tiết kiệm được tàI nguyên , nhờ đó chúng ta có thể làm hạn chế lãng phí của xã hội , ngăn chặn làm hàng giả . Sự ưu đãI về thuế và bảo hộ sản xuất nhằm giúp các sản phẩm và địa phương nhất định có được lợi thế nhất định trong việc cạnh tranh trên thị trường . Nhưng sự ưu đãI cũng như bảo hộ này chỉ có tính chất tạm thời .
III. ĐIỀU KIỆN ĐỂ THỰC HIỆN CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA TỪ NAY ĐẾN 2020 .
1. Vấn đề nhân lực .
Đây là một yếu tố quan trọng hàng đầu , là nhân tố cơ bản của sự phát triển kinh tế xã hội . Không phải ngẫu nhiên mà châu âu chỉ có thể đi vào công nghiệp hoá sau thời kỳ phục hưng . Các con rồng châu á đều coi giáo dục là nhân tố có ý nghĩa hàng đầu đối với sự phát triển nói chung và công nghiệp hoá nói riêng . Ngân hàng thế giới tính rằng tỷ lệ thu hồi vốn cho giáo dục tiểu học là 26% , cho cấp hai là 17% và cho cao đẳng , đại học là 14% trong khi đó thu hồi vốn cho đầu tư vật chất là 13% . Do các ý nghĩa đó mà các nước thực hiện công nghiệp hoá đều chi phí lớn cho giáo dục , coi giáo dục là một đảm bảo cho thành công của công nghiệp hoá . Theo hướng đó các nước công nghiệp phát triển và công nghiệp hoá thường dành 15 – 19% chi ngân sách cho giáo dục . Ví dụ như ở nước Cộng hoà Triều Tiên năm 1975 có 5% đại học , 42% trung học , 36% biết đọc và biết viết và 15% không được đi học . ở nước ta năm 1989 tỷ lệ tương ứng là 0,7% ; 82,4% ; 3% và 13,6% . Như vậy , tỷ lệ đại học của nước ta chưa phải là cao . Nhận thấy tầm quan trọng của hệ thống giáo dục gần đây nhà nước ta cũng từng bước đầu tư cho lĩnh vực này , đưa lên tới 10 – 12% cho ngân sách . Đó là một cố gắng lớn của chúng ta nhưng dù sao vẫn còn hạn hẹp .
Mặt khác Đảng và nhà nước ta coi trọng việc đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật , công nhân lành nghề và cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh . Đối với sự nghiệp công nghiệp hoá , hiên đại hoá là sự nghiệp của toàn thể nhân dân lao động , trong đó lực lượng cán bộ khoa học – kỹ thuật , quản lý sản xuất kinh doanh và công nhân lành nghề đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá vai trò của con người với tư cách là chủ thể của lực lượng sản xuất xã hội , đặc biệt con người có trình độ khoa học kỹ thuật cao càng có tầm quan trọng vượt bậc .
Tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế của một quốc gia chỉ có thể đạt đựơc tốc độ cao khi chúng ta giả quyết tốt và thực hiện đồng bộ cả hai nhân tố của quá trình sản xuất đó là tư liệu sản xuất hiện đại và con người hiện đại – chủ thể của quá trình sản xuất đó . Với thành tựu của khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày nay đã khẳng định rằng mặt kỹ thuật của các yếu tố tự nhiên của sản xuất ngày càng phức tạp và hiện đạ , hơn nữa con người Việt Nam chịu ảnh hưởng lâu ngày của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp , đIều đó tất yếu đòi hỏi phải không ngừng đào tạo và đào tạo lại để nâng cao trình độ , kỹ năng , kỹ sảo nhằm nắm bắt và sử dụng các thành tựu đó áp dụng vào quá trình sản xuất , thông qua đó phục vụ cho chính cuộc sống của mình .
Đảng ta đã đặt con người vào vị trí trung tâm trong sự nghiệp phát triển kinh tế : Đẩy mạnh hơn nữa sự nghiệp giáo dục đào tạo , khoa học và công nghệ , coi đó là quốc sách hàng đầu để phát huy nhân tố con người - động lực trực tiếp của sự phát triển .
Việc xây dựng đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật , công nhân lành nghề ở nước ta phải tuân theo các quá trình có tính quy luật . Chỉ trên cơ sở đáp ứng cá yêu cầu đó , chúng ta mới có thể có được đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật , công nhân lành nghề với tư cách là chủ thể của quá trình sản xuất . Từng bước đáp ứng đầy đủ kịp thời các yêu cầu mới của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến trên thế giới đang phát triển như vũ bão .
2. Vấn đề vốn .
Như chúng ta đã biết , nước ta là một nước có nền kinh tế kém phát triển , cho nên để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền sản xuất lớn hiện đại đòi hỏi phải có nhiều vốn , vốn cho công nghiệp hoá , hiện đại hoá gồm nhiều loại vật tư kỹ thuật , đất đai , tiền tệ , lực lao động có tri thức khoa học cao và tay nghề giỏi . Trong điều kiện hiện nay , để phát huy hết những khả năng tiềm tàng về vật tư , lao động tất yếu phải thực hiện chuyên môn hoá kết hợp với đa dạng hoá sản xuất nhằm đáp ứng các nhu cầu phát triển sản xuất nâng cao năng suất lao động , đa dạng hoá sản phẩm để thoả mãn nhu cầu của nhân dân .
Quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá kéo theo sự thay đổi to lớn về chất lượng và số lượng , về cơ cấu ngành sản xuất . Nhiều ngành nghề sản xuất mới xuất hiện do đó tất yếu đòi hỏi phải có những nguồn vốn đầu tư mới có thể đáp ứng nhu cầu đó , trong đó tích luỹ vốn là một khâu quan trọng .
Hiện nay mức độ tích luỹ vốn của nước ta là thấp ( chỉ trên dưới 10% GDP ) . Vì vậy , hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ của Đảng đã đặt nhiệm vụ : gia tăng tích luỹ vốn là phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở nước ta và kinh nghiệm phổ biến của thế giới . Hội nghị đặt vấn đề : Nguồn vốn trong nước là quyết định , vốn từ bên ngoài là quan trọng .
Đi đôi với việc gia tăng tiết kiệm , mức độ đầu tư có tầm quan trọng đặc biệt đối với quá trình công nghiệp hoá , hiện đại hoá . Kinh nghiệm của các nước đi vào công nghiệp hoá cho thấy : ở các nước có thu nhập đầu người khoảng 200USD mức đàu tư phải trên dưới 20% GDP . Điều này ảnh hưởng trực tiếp tới tốc độ tăng trưởng . Nhiều nhà kinh tế học khẳng định muốn tăng GDP lên 1 thì phải tăng đầu tư lên 3 . Tiếc rằng mức đầu tư ở nước ta so với GDP còn khá thấp , năm 1993 chỉ khoảng trên 10% .
Nguồn gốc cơ bản của nguồn vốn tích luỹ là lao động thặng dư . Nước ta tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá nhưng cũng không từ bỏ định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội do đó để tăng tích luỹ thì con đường duy nhất là tăng năng suất lao động ( chứ không phải là tăng thời gian lao động như ở các nước tư bản đã làm ) . Nguồn vốn để tiến hành công nghiệp hoá , hiện đại hoá bao gồm nguồn vốn tích luỹ từ trong nước cần phải thực hiện mạnh mẽ các biện pháp sau :
Nhà nước phải có chính sách bảo đảm lợi ích thoả đáng cho người có vốn đầu tư , đặc biệt là chính sách thuế và lợi nhuận để từ đó có thể thu hút vốn đầu tư tối đa các nguồn tichs luỹ từ bên trong nền kinh tế . Theo tính toán của các nhà kinh tế , nguồn vốn hiện đọng trong dân dưới dạng vàng , đôla , tiền Việt Nam ước khoảng 20000 tỷ đồng , các nguồn vốn này hiện nay chưa được chuyển và “ kênh” sản xuất kinh doanh là do nhiều nguyên nhân : tâm lý lo ngạI về hiệu quả , an toàn vốn đầu tư , mặt bừng để xây dựng và mở rộng sản xuất kinh doanh chưa đủ , nhà nước chưa quan tâm hỗ trợ , đặc biệt là chưa có chính sách hấp dẫn , thủ tục đăng ký kinh doanh còn nhiều p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá , hiện đại hoá ở nước ta từ nay đến năm 2020.DOC