MỤC LỤC
A- Đặt vấn đề 2
B- Giải quyết vấn đề 2
I. Định nghĩa về Quốc tịch 2
1. Quốc tịch là gì? 2
2. Cơ sở ra đời và tồn tại của Quốc tịch 2
3. Quốc tịch với vấn đề quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân 2
II. Sự hình thành và phát triển của pháp luật Quốc tịch Việt Nam 3
1. Giai đoạn trước năm 1975 3
2. Giai đoạn sau năm 1975 3
a, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988 4
b, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 4
c, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 4
III. Nội dung của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008- Sự kế thừa và phát triển 4
1. Nguyên tắc một Quốc tịch 4
2. Nhập Quốc tịch Việt Nam 6
3. Trở lại Quốc tịch Việt Nam 6
4. Mất Quốc tịch Việt Nam 7
5. Pháp luật Quốc tịch về trẻ em 9
C- Kết thúc vấn đề 9
Danh mục tài liệu tham khảo 10
10 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2687 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nội dung của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 – Sự kế thừa và phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ta trong giai đoạn đi lên xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hình thành, vấn đề quốc tịch Việt Nam luôn có sự kế thừa và phát triển. Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 là một minh chứng cụ thể.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Định nghĩa về Quốc tịch
Khái niệm Quốc tịch là gì?
Quốc tịch là mối quan hệ pháp lý – chính trị có tính chất lâu dài, bền vững, ổn định cao về mặt thời gian, không bị giới hạn về mặt không gian giữa một cá nhân cụ thể với một chính quyền nhà nước nhất định.
Cơ sở ra đời và tồn tại của Quốc tịch.
Quốc tịch có mối quan hệ khăng khít, không tách rời với nhà nước. Sự ra đời và tồn tại của nhà nước quyết định sự ra đời và tồn tại của Quốc tịch và ngược lại sự ra đời và tồn tại của Quốc tịch phản ánh sự ra đời và tồn tại của nhà nước. Chỉ khi thiết lập được chính quyền nhà nước, giai cấp thống trị mới ban hành pháp luật về Quốc tịch nhằm điều chỉnh mối quan hệ giữa nhà nước của mình với các cá nhân sống trên lãnh thổ của nhà nước. Đồng thời người ta cũng chỉ có thể nói về một nhà nước khi quyền lực chính trị bao trùm lên một lãnh thổ nhất định và những cá nhân trên lãnh thổ đó.
Như vậy, khi một chính quyền nhà nước thành lập sẽ hình thành mối quan hệ pháp lý – chính trị một cách tự động và trực tiếp giữa chính quyền nhà nước và các cá nhân đang sống trên lãnh thổ của chính quyền nhà nước đó. Chỉ có sự ra đời của nhà nước mới làm xuất hiện Quốc tịch, không phải luật về Quốc tịch tạo ra Quốc tịch.
Quốc tịch với vấn đề quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Điều đầu tiên trong chương “quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, Hiến pháp 1992 (Điều 49) quy định vấn đề Quốc tịch: “Công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là người có Quốc tịch Việt Nam”. Với quy định trên, những nguyên tắc cơ bản về địa vị pháp lý của công dân trong chế độ nhà nước ta đã được ghi nhận. Nó thể hiện các quyền tự do, bình đẳng, không bị áp bức của công dân. Trong lịch sử phát triển nhà nước ta, các quyền và nghĩa vụ của công dân ngày càng được mở rộng và đảm bảo chắc chắn đi đôi với sự tăng cường và mở rộng cơ sở chính trị, kinh tế, xã hội của chế độ nhà nước ta. Mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân ngày được phát triển bằng sự nỗ lực hoạt động của cả Nhà nước lẫn công dân vì sự nghiệp Cách mạng chung.
Mối quan hệ giữa Quốc tịch và các quyền, nghĩa vụ của công dân cho thấy rằng thông qua cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, chống áp bức, bóc lột nhằm xây dựng chế độ mới dân chủ, công dân nhà nước ta đã trở thành chủ thể của các quan hệ xã hội. Trên cơ sở đó, công dân nước ta có điều kiện để phát triển cá nhân mình một cách toàn diện, trở thành chủ thể thực sự của đất nước.
Sự hình thành và phát triển của pháp luật Quốc tịch Việt Nam.
Ngày 2/9/1945, chủ tịch nước Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước công- nông đầu tiên tại khu vực Đông Nam Á. Sự kiện này khẳng định: Việt Nam là quốc gia độc lập, có chủ quyền và bình đẳng, đồng thời cũng đánh dấu sự bắt đầu của chế định “Quốc tịch Việt Nam”. Pháp luật Quốc tịch được hình thành và phát triển gắn liền với tiến trình hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam được khái quát hóa ở hai giai đoạn trước và sau năm 1975:
Giai đoạn trước năm 1975.
Trước nhiệm vụ cấp thiết phải xóa bỏ hệ thống pháp luật thực dân phong kiến và nhanh chóng xây dựng hệ thống pháp luật mới để quản lý đất nước, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã khẩn trương ban hành các văn bản pháp luật mới, trong đó có những văn bản về luật Quốc tịch là các sắc lệnh để dựa vào đó xây dựng và giải quyết các vấn đề liên quan tới Quốc tịch Việt Nam.
Về Quốc tịch Việt Nam.
Quốc tịch thể hiện chủ quyền của quốc gia đối với dân cư đồng thời xác định ai, người nào là công dân của quốc gia. Do vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký và ban hành sắc lệnh số 53/SL ngày 20/10/1945 quy định về Quốc tịch Việt Nam. Sắc lệnh đảm bảo cho trẻ sơ sinh trên lãnh thổ Việt Nam không bị rơi vào tình trạng không Quốc tịch.
Bên cạnh đó, Điều 1 và Điều 4 Sắc lệnh số 73/SL quy định những điều kiện và thủ tục liên quan tới vấn đề gia nhập Quốc tịch Việt Nam.
Về việc mất Quốc tịch Việt Nam.
Về thôi Quốc tịch, Điều 2 Sắc lệnh số 51/SL ngày 14/12/1959 quyết định phụ nữ Việt Nam lấy chồng có Quốc tịch nước ngoài muốn theo Quốc tịch của chồng thì trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày ban hành sắc lệnh này phải xin bỏ Quốc tịch Việt Nam và phải được Chính phủ Việt Nam cho phép.
Về việc tước Quốc tịch được xác định trong Điều 7 Sắc lệnh số 59/SL.
Các sắc lệnh về Quốc tịch đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành và phát triển chế định Quốc tịch Việt Nam.
Tuy nhiên, trước năm 1975, do đặc điểm nước ta bị chia cắt làm hai miền và chế độ chính trị khác nhau nên các văn bản pháp luật về Quốc tịch Việt Nam chỉ có hiệu lực hay nói cách khác chỉ được áp dụng ở miền Bắc. Pháp luật Quốc tịch Việt Nam trước năm 1975 đã thể hiện rõ chủ quyền của quốc gia đối với dân cư, quyết định của nhà nước về các vấn đề cơ bản liên quan đến Quốc tịch như: nguyên tắc một Quốc tịch, bảo đảm quyền có Quốc tịch của cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam, bình đẳng giữa các công dân Việt Nam về quyền và nghĩa vụ công dân… Từ đó tạo cơ sở pháp lý để giải quyết những vấn đề đặt ra trên thực tế.
Giai đoạn sau năm 1975.
Ta thấy được rằng vấn đề Quốc tịch được nhà nước ta đề cập dưới góc độ là Luật Quốc tịch. Thể hiện như sau:
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988.
Ngày 28/6/1988, Quốc hội khóa VIII kỳ họp thứ 3 đã thông qua Luật Quốc tịch Việt Nam quy định một cách khá toàn diện các vấn đề Quốc tịch Việt Nam. Để cụ thể hóa, ngày 05/13/1990, Hội đồng bộ trưởng đã ban hành nghị định số 37/HĐBT. Luật Quốc tịch năm 1988 gồm lời nói đầu và 18 điều đề cập đến 4 nội dung cơ bản: nguyên tắc bình đẳng, nguyên tắc một Quốc tịch, có Quốc tịch Việt Nam, mất Quốc tịch Việt Nam. Luật quốc tịch năm 1988 và Nghị định số 37/HĐBT đã đáp ứng nhu cầu chính trị và pháp lý về Quốc tịch trong giai đoạn mới của đất nước.
Luật Quốc tịch năm 1998.
Luật Quốc tịch năm 1998 ra đời để phù hợp với quy định của Hiến pháp 1992, tạo cơ chế đồng bộ thực hiện một cách nhất quán, triệt để để nguyên tắc một Quốc tịch, quyết định tình trạng không rõ về Quốc tịch Việt Nam do lịch sử để lại trong cộng đồng Việt Nam định cư ở nước ngoài, khắc phục tính đơn giản chung chung của Luật Quốc tịch năm 1988. Luật Quốc tịch năm 1998 gồm 7 chương với 42 điều.
Bên cạnh việc ban hành Luật Quốc tịch 1998, các cơ quan có thẩm quyền còn ban hành các văn bản dưới luật: Nghị định của Chính phủ số 104/1998/NĐ-CP ngày 31/12/1998, Nghị định của Chính phủ số 55/2000/NĐ-CP ngày 11/10/2000 sửa đổi một số điều của Nghị định số 104/1998/NĐ-CP, Thông tư liên tịch của Bộ Tư Pháp số 09/1999/TT-BTP ngày 07/04/1999.
Sau 9 năm thực hiện, gyà 15/02/2008, Bộ Tư Pháp đã tổ chức hội nghị tổng kết thực hiện Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998, đánh giá những mặt tích cực, chỉ ra những hạn chế cần khắc phục như ghi nhận nguyên tắc một Quốc tịch còn cứng nhắc, điều kiện nhập lại Quốc tịch Việt Nam chưa thực sự phù hợp với tình hình mới, thủ tục tiếp nhận và giải quyết các vấn đề về Quốc tịch còn rườm rà, công tác quản lý nhà nước về Quốc tịch lỏng lẻo, chưa sát thực tiễn…
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008.
Ngày 13/11/2008, kỳ họp thứ 4 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2009 bao gồm 6 chương với với 44 điều. Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 còn bảo đảm sự phù hợp với quy định của Hiến pháp năm 1992, sự đồng bộ với các văn bản pháp luật có liên quan cũng như tính khả thi các quy định có tính nguyên tắc của Luật. Đảm bảo quyền có Quốc tịch của mỗi cá nhân, hạn chế tình trạng không Quốc tịch ở nước ta, tăng cường và nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước về Quốc tịch, tạo cơ sở pháp lý chặt chẽ cho việc bảo hộ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của công dân Việt Nam ở nước ngoài.
III. Nội dung của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 – Sự kế thừa và phát triển.
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 có 6 chương gồm 44 điều:
Chương 1: Những quy định chung;
Chương 2: Có Quốc tịch Việt Nam;
Chương 3: Mất Quốc tịch Việt Nam;
Chương 4: Thay đổi Quốc tịch của người chưa thành niên và của con nuôi;
Chương 5: Trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước về Quốc tịch;
Chương 6: Điều khoản thi hành.
So với cấu trúc của Luật Quốc tịch năm 1998, Luật Quôc tịch năm 2008 cũng có 6 chương tuy nhiên tăng thêm 2 điều và chương 5 có tên gọi khác Luật năm 1998 (Thẩm quyền và thủ tục giải quyết các vấn đề về Quốc tịch). Chương 5 Luật Quốc tịch năm 2008 thay đổi tên nhằm mục đích nhấn mạnh đến trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong những vấn đề về Quốc tịch. Phân tích toàn bộ các chương và điều của Luật Quốc tịch năm 2008, chúng ta thấy Luật này có các nội dung cơ bản sau đây:
Nguyên tắc một Quốc tịch.
Nếu như điều 3 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 có tên gọi là nguyên tắc “một Quốc tịch” và điều này quy định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân có một Quốc tịch là Quốc tịch Việt Nam” thì “nguyên tắc Quốc tịch” là tên gọi của điều 4 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 là: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam công nhận công dân Việt Nam có một Quốc tịch là Quốc tịch Việt Nam, trừ trường hợp Luật này có quy định khác”. Như vậy, có thể thấy Luật Quốc tịch năm 1998 được xây dựng trên nguyên tắc “một Quốc tịch triệt để” còn Luật Quốc tịch năm 2008 được xây dựng trên nguyên tắc “một Quốc tịch mềm dẻo”.
Nguyên tắc “một Quốc tịch mềm dẻo” thể hiện ở chỗ một mặt luật xác định ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam mỗi cá nhân đều có quyền có Quốc tịch Việt Nam. Nhà nước thừa nhận công dân Việt Nam có một Quốc tịch là Quốc tịch Việt Nam, nhưng nhà nước cũng thừa nhận một số người có hai hoặc nhiều Quốc tịch.
Do công nhận thực trạng một số công dân có hai hoặc nhiều Quốc tịch nên Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã bổ sung thêm một số điều quy định về việc giải quyết vấn đề phát sinh từ tính trạng công dân Việt Nam đồng thời có Quốc tịch nước ngoài. Theo quy định tại điều 12, vấn đề phát sinh từ tình trạng công dân Việt Nam đồng thời có Quốc tịch nước ngoài được giải quyết theo điều ước Quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trường hợp chưa có điều ước Quốc tế thì giải quyết theo tập quán và thong lệ quốc tế. Điều 12 cũng xác định nhiệm vụ của Chính Phủ là ký kết hoặc đề xuất việc ký kết, quyết định gia nhập điều ước Quốc tế để giải quyết vấn đề phát sinh từ thực trạng công dân Việt Nam đồng thời có Quốc tịch nước ngoài. Để giải quyết các xung đột pháp luật trong lĩnh vực Quốc tịch, nhiều quốc gia đã ký kết một số điều ước quốc tế đa phương về vấn đề Quốc tịch như: Công ước La Haye năm 1930 về một số vấn đề liên quan tới xung đột Quốc tịch, công ước năm 1963 về việc giảm các trường hợp nhiều Quốc tịch và về nghĩa vụ quân sự trong trường hợp nhiều Quốc tịch, công ước Châu Âu năm 1997 về Quốc tịch. Trong trường hợp nhiều Quốc tịch, Công ước La Haye đã xác định nguyên tắc Quốc tịch hữu hiệu. Điều 5 của công ước La Haye đã quy định: “Tại một nước thứ 3, một người có nhiều Quốc tịch sẽ được coi như chỉ có một Quốc tịch. Nước thứ ba chỉ công nhận một trong số những Quốc tịch mà người đó có hoặc công nhận Quốc tịch của nước mà người đó thường trú và cư trú chủ yếu hoặc Quốc tịch của nước đó mà lúc đó trên thực tế người đó có mối quan hệ gắn bó nhất”. Nguyên tắc Quốc tịch hữu hiệu được ghi nhận trong công ước La Haye năm 1930 có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn luật áp dụng. Mặt khác, công ước La Haye cũng xác lập nguyên tắc bảo hộ ngoại giao đối với người có hai hoặc nhiều Quốc tịch. Theo điều 4 công ước này, một quốc gia không được bảo hộ ngoại giao cho công dân nhà nước mình tại quốc gia khác mà người này cư trú.
Tuy nhiên, trong thực tiễn quan hệ quốc tế vẫn tồn tại tranh chấp giữa Việt Nam với các nước trong việc thực hiện bảo hộ công dân cũng như vấn đề áp dụng pháp luật dân sự khi có tranh chấp hoặc phápluật hành chính, hình sự khi công dân đó vi phạm pháp luật Việt Nam. Trong nhiều trường hợp, các cơ quan nhà nước Việt Nam rất lúng túng khi giải quyết các giao dịch dân sự, kinh tế… có sự tham gia của công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài mang hai Quốc tịch. Bên cạnh đó, công tác quản lý và nắm danh sách người Việt Nam định cư ở nước ngoài gặp nhiều khó khăn, chưa đầy đủ, chính xác. Vì vậy, ngoài việc hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật về Quốc tịch, Việt Nam cũng nên nghiên cứu khả năng đàm phán, ký kết các điều ước quốc tế song phương cũng như tham gia các điều ước đa phương nhằm phối hợp với các quốc gia liên quan giải quyết vấn đề công dân Việt Nam đồng thời có Quốc tịch nước ngoài đặc biệt là đối với bộ phận công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Nhập quốc tịch Việt Nam.
Về điều kiện để người nước ngoài, người không Quốc tịch được nhập Quốc tịch Việt Nam, Luật Quốc tịch Việt Nam 2008, vẫn giữ nguyên như năm 1998 ở một số điểm sau:
Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật Việt Nam (1)
Tuân thủ hiến pháp và pháp luật Việt Nam, tôn trọng truyền thống, tập quán của dân tộc Việt Nam (2)
Biết tiếng việt để được hòa nhập vào cộng đồng Việt Nam (3)
Đã thường trú ở Việt Nam từ 5 năm trở lên tính đến thời điểm xin nhập Quốc tịch Việt Nam (4)
Có khả năng đảm bảo cuộc sống tại Việt Nam (5)
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định và làm rõ nếu người không Quốc tịch hoặc người nước ngoài thì sẽ được miễn điều kiện (3), (4), (5) với điều kiện “là vợ chồng, cha đẻ, mẹ đẻ hoặc con đẻ của công dân Việt Nam” hoặc “là người có công lao đóng góp đặc biệt cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam” hoặc “việc gia nhập Quốc tịch của người đó có lợi cho nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” thì được nhập Quốc tịch Việt Nam.
Bên cạnh đó, Khoản 5, Điều 19 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 tiếp tục quy định “Người xin nhập Quốc tịch Việt Nam không được nhập Quôc tịch Việt Nam nếu việc đó làm hại đến lợi ích quốc gia Việt Nam”.
Thêm vào đó, Khoản 3, Điều 19, Luật Quốc tịch 2008 đã quy định “chỉ những đối tượng cụ thể trong trường hợp đặc biệt nếu được Chủ tịch nước cho phép mới được giữ quốc tịch nước ngoài khi gia nhập Quốc tịch Việt Nam”. Quy định này nhằm đảm bảo nguyên tắc một Quốc tịch.
Nếu như Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1998 chưa có quy định giải quyết cho cư dân không Quốc tịch không có đầy đủ các giấy tờ về nhân thân nhưng đã cư trú ổn định tại Việt Nam thì Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã giải quyết vấn đề này bằng quy định tại điều 22: “Người không Quốc tịch mà không có đầy đủ giấy tờ về nhân thân nhưng đã cư trú ổn định trên lãnh thổ Việt Nam từ 20 năm trở lên tính đến ngày Luật này có hiệu lực và tuân thủ Hiến pháp, pháp luật Việt Nam thì được nhập Quốc tịch Việt Nam theo trình tự, thủ tục và hồ sơ do Chính phủ quy định”. Quy định trên cũng nhằm hạn chế tình trạng người không có Quốc tịch đồng thời đảm bảo các quyền dân sự, chính trị cơ bản của con người, trong đó có quyền Quốc tịch cá nhân.
Về thủ tục giải quyết trong vấn đề gia nhập Quốc tịch thì Luật Quốc tịch năm 2008 đã luật hóa quy định về hồ sơ xin nhập Quốc tịch, hạn chế phần nào việc phải chờ văn bản hướng dẫn như trước đây. Bên cạnh đó luật còn quy định rõ những đối tượng, điều kiện và thủ tục được miễn giấy chứng nhận trình độ Tiếng Việt, nếu yêu cầu phải có thì giấy chứng minh trình độ Tiếng Việt với người xin nhập Quốc tịch không yêu cầu hiểu biết văn hóa lịch sử và pháp luật theo quy định của Bộ Giáo Dục và đào tạo, Bộ Tư Pháp như quy định tại nghị định 104/1998/NĐ-CP. Trình tự thủ tục giải quyết hồ sơ nhập Quốc tịch, Luật Quốc tịch 2008 quy định cụ thể hơn thời gian giải quyết ở từng công đoạn trong quy trình tạo điều kiện cho người xin nhập Quốc tịch có cơ sở pháp lý yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết kịp thời đúng pháp luật.
Trở lại Quốc tịch Việt Nam.
Nhằm khắc phục các vướng mắc trong các quy định của Luật Quốc tịch năm 1998 về trở lại Quốc tịch, Luật Quốc tịch năm 2008 đã có những sửa đổi, bổ sung kịp thời, hợp lý trong việc giải quyết các trường hợp xin trở lại Quốc tịch Việt Nam. Khác với các quy định đơn giản và dàn trải trong Luật Quốc tịch 1998 (tập trung trong điều 21 và rải rác trong một số điều liên quan đến trình tự, thủ tục giải quyết), Luật Quốc tịch 2008 đã dành hẳn một mục lớn (mục 3, bắt đầu từ Điều 23 đến Điều 26) quy định cụ thể và rõ ràng hơn về các vấn đề liên quan đến trở lại Quốc tịch.
Ngoài những trường hợp được trở lại Quốc tịch Việt Nam quy định tại điều 21 Luật Quốc tịch 1998, phù hợp với sự mong mỏi và nhu cầu thực tế của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài, Điều 23 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã ghi nhận thêm hai trường hợp có thể được cho phép trở lại Quốc tịch Việt Nam, đó là “thực hiện đầu tư tại Việt Nam” hoặc “đã thôi Quốc tịch Việt Nam để nhập Quốc tịch nước ngoài, nhưng không được nhập Quốc tịch nước ngoài”. Luật Quốc tịch năm 2008 cho phép trở lại Quốc tịch Việt Nam đối với những người thôi Quốc tịch Việt Nam để nhập Quốc tịch nước ngoài, nhưng không được nhập Quốc tịch nước ngoài nhằm đảm bảo quyền có Quốc tịch của công dân đồng thời thể hiện tính nhân đạo của pháp luật Việt Nam, nhằm tránh tình trạng không Quốc tịch. Chính vì vậy mà khoản 1, Điều 2 Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có quyền có Quốc tịch”.
Hơn nữa, khoản 2 Điều 23 Luật Quốc tịch năm 2008 còn ghi nhận, đối với các trường hợp xin trở lại Quốc tịch Việt Nam, nếu xét thấy sự trở lại Quốc tịch của người đó có thể “làm phương hại đến lợi ích quốc gia Việt Nam” thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét và từ chối giải quyết.
Bên cạnh đó, luật còn “luật hóa” các quy định về trình tự, thủ tục giải quyết hồ sơ xin trở lại Quốc tịch thay vì được quy định trong nghị định của Chính Phủ. Điều này đã phần nào khắc phục được tình trạng luật chờ nghị định, thong tư so với trước đây, đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước ở hiện tại cũng như định hướng phát triển chung của đất nước trong những năm sắp tới. Theo quy định tại Điều 24 của Luật Quốc tịch năm 2008, người xin trở lại Quốc tịch Việt Nam phải lập hồ sơ xin trở lại Quốc tịch, đồng thời theo quy định tại điều 25 thì thời gian giải quyết xin trở lại Quốc tịch Việt Nam đã được rút ngắn chỉ còn một nửa (tổng thời gian giải quyết chỉ còn 3 tháng).
Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 còn quy định thời gian cụ thể cho từng khâu, từng giai đoạn khác nhau như: Trong thời hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận hồ sơ hợp lệ, Sở Tư pháp gửi văn bản đề nghị Cơ quan Công an xác minh về nhân thân người xin trở lại Quốc tịch Việt Nam. Điều này tạo ra sự phân công trách nhiệm rõ ràng cho các cơ quan chức năng trong giải quyết vấn đề liên quan, tránh sự chồng chéo lẫn nhau. Đây có thể coi là bước đột phá trong việc giải quyết hồ sơ về Quốc tịch, góp phần thực hiện công khai minh bạch các thủ tục hành chính theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ.
Mất Quốc tịch Việt Nam.
Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã quy định những căn cứ xác định mất Quốc tịch Việt Nam như sau:
Được thôi Quốc tịch Việt Nam.
Bị tước Quốc tịch Việt Nam.
Bị hủy bỏ quyết định cho nhập Quốc tịch Việt Nam.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài (chưa mất Quốc tịch Việt Nam) không tiến hành thủ tục đăng ký Quốc hội Việt Nam theo quy định của pháp luật.
Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam, nay tìm thấy cả cha mẹ mà cha mẹ chỉ có Quốc tịch nước ngoài hoặc chỉ tìm thấy cha hoặc mẹ mà người đó có Quốc tịch nước ngoài.
Con chưa thành niên sống cùng cha mẹ sẽ thay đổi Quốc tịch theo Quốc tịch của cha mẹ.
Theo điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.
Về căn cứ thôi Quốc tịch, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 cơ bản không thay đổi nhiều so với Luật Quốc tịch năm 1998. Đó là căn cứ tương đối chặt chẽ, phù hợp với pháp luật và đặc thù của Việt Nam hiện nay. Trước hết, việc thôi Quốc tịch phải xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của công dân, không phụ thuộc vào việc công dân đó đang ở trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam. Nếu cư trú trong nước họ phải nộp hồ sơ cho Sở Tư pháp nơi họ cư trú, nếu cư trú ở nước ngoài phải nộp hồ sơ cho cơ quan đại diện Việt Nam ở nước sở tại.
Trường hợp xin thôi Quốc tịch Việt Nam nhằm mục đích gia nhập Quốc tịch nước ngoài thì người xin thôi Quốc tịch phải có nghĩa vụ chứng minh điều đó khi nhận hồ sơ. Trong thời hạn 3 tháng, hồ sơ xin thôi Quốc tịch Việt Nam của đương sự sẽ được trình lên Chủ tịch nước để xem xét và đưa ra những quyết định cuối cùng.
Căn cứ đương nhiên mất Quốc tịch áp được áp dụng đối với hai đối tượng: người Việt Nam định cư ở nước ngoài và người chưa thành niên:
- Với người Việt Nam định cư ở nước ngoài (là công dân Việt Nam) và người gốc Việt Nam cư trú, sinh sống lâu dài ở nước ngoài, theo quy định của Luật Quốc tịch năm 1998, công dân Việt Nam kết hôn, ly hôn với người nước ngoài không làm thay đổi Quốc tịch của họ. Do vậy, có rất nhiều người mang hai Quốc tịch khi mà nước họ sinh sống không bắt buộc phải thôi Quốc tịch Việt Nam.
- Với người chưa thành niên, Khoản 1 Điều 35 Luật Quốc tịch 2008 quy định “Khi có sự thay đổi về Quốc tịch do nhập trở lại hoặc thôi Quốc tịch của con chưa thành niên sinh sống cùng với cha mẹ cũng được thay đổi theo Quốc tịch của họ”. Luật Quốc tịch năm 2008 đã kế thừa Luật Quốc tịch 1998 khi ghi nhận nguyên tắc Quốc tịch của người chưa thành niên được thay đổi theo Quốc tịch của cha mẹ. Quy định nêu trên là quá cứng nhắc và chưa tôn trọng quyền quyết định của cha mẹ cũng như quyền cá nhân về Quốc tịch của trẻ chưa thành niên. Việc áp dụng Điều 35 có thể dẫn tới hệ quả là đứa trẻ sẽ rơi vào tình trạng không Quốc tịch khi cha mẹ đã thôi Quốc tịch Việt Nam nhưng chưa ra nhập được Quốc tịch nước ngoài. Hi vọng, Luật Quốc tịch nên có những quy định mềm dẻo và linh hoạt hơn về thay đổi Quốc tịch của trẻ chưa thành niên.
Về vấn đề đương nhiên mất Quốc tịch, Luật Quốc tịch 2008 có nhiều sửa đổi quan trọng khi dựa vào quy định giữ hai Quốc tịch với người có Quốc tịch Việt Nam đang định cư ở nướn ngoài: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất Quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam, trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn còn Quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn 5 năm kể từ ngày Luật Quốc tịch Việt Nam có hiệu lực phải đăng ký với cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài để giữ Quốc tịch Việt Nam”. Nếu không tiến hành thủ tục trên thì họ sẽ đương nhiên mất Quốc tich Việt Nam.
Về vấn đề tước Quốc tịch Việt Nam, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 20088 quy định, công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài có thể bị tước Quốc tịch Việt Nam nếu có hành vi gâp phương hại đến nền độc lập dân tộc, đến sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hoặc uy tín của Việt Nam. Bên cạnh đó, những người đã nhập Quốc tịch Việt Nam theo đúng quy định của pháp luật dù cư trú ở trong hay ngoài lãnh thổ Việt Nam cũng có thể bị tước Quốc tịch Việt Nam khi thực hiện hành vi nêu trên.
Vấn đề thôi Quốc tịch Việt Nam, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã đưa ra những quy định đối với đối tượng thôi Quốc tịch tương đối mở nhưng cũng rất chặt chẽ. Thời gian giải quyết việc xin thôi Quốc tịch được rút ngắn lại trong vòng 3 tháng kể từ khi nộp đơn xin thôi Quốc tịch. Luật quy định là mọi công dân Việt Nam đều có quyền thôi Quốc tịch Việt Nam ra nhập Quốc tịch nước ngoài. Nhưng phải hoàn thành các yêu cầu với nhà nước, cộng đồng và các công dân khác, hoặc nếu đang phục vụ cho các cơ quan nhà nước thì chỉ được phép thôi Quốc tịch Việt Nam khi đã hết thời hạn phục vụ cho các cơ quan nhà nước đó.
Pháp luật Quốc tịch về trẻ em.
Cũng như Luật Quốc tịch Việt Nam năm 1988 và năm 1998, Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 đã kết hợp nhuần nhuyễn hai nguyên tắc huyết thống và lãnh thổ trong việc xác định quốc tịch trẻ em, cụ thể là:
Theo nguyên tắc truyền thống, trẻ em sinh ra có Quốc tịch Việt Nam:
- Cha mẹ đều là công dân Việt Nam;
- Cha mẹ là công dân Việt Nam còn người kia không có Quốc tịch.
- Mẹ là công dân Việt Nam còn người kia không rõ là ai.
- Cha mẹ thỏa thuận bằng văn bản vào thời điểm khai sinh cho trẻ em khi cha hoặc mẹ là công dân Việt Nam còn người kia là người nước ngoài. Nếu cha mẹ không thỏa thuận được việc lựa chọn Quốc tịch thì trẻ em có Quốc tịch Việt Nam. Quy định này nhằm mục đích bảo đảm cho trẻ em không bị rơi vào tình trạng không Quốc tịch.
Theo nguyên tắc nơi sinh, trẻ em có Quốc tịch Việt Nam trong những trường hợp:
- Cha mẹ không có Quốc tịch nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam.
- Mẹ không có Quốc tịch nhưng có nơi thường trú tại Việt Nam còn cha không rõ là ai.
- Trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em được tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam mà hca mẹ không rõ là ai.
Trong trường hợp cha mẹ thay đổi Quốc tịch do nhập Quốc tịch, trở lại hoặc thôi Quốc tịch Việt Nam, Luật Quốc tịch Việt Nam 2008 quy định:
- Quốc tịch của con chưa thành niên sinh sống cùng cha mẹ cũng thay đổi theo Quốc tịch của cha mẹ.
- Quốc tịch của con chưa thành niên sinh sống cùng cha hoặc mẹ cũng thay đổi theo Quốc tịch của cha hoặc mẹ nếu có sự thỏa thuận bằng văn bản của cha mẹ
- Trường hợp cha, mẹ được nhập, trở lại Quốc tịch Việt Nam thì con chưa thành niên sinh sống cùng người đó có Quốc tịch Việt Nam nếu cha, mẹ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nội dung của Luật Quốc tịch Việt Nam năm 2008 – Sự kế thừa và phát triển.doc