Mục lục
Lời mở đầu 1
Nội dung diện và hàng thừa kế theo pháp luật 2
I. Diện thừa kế theo pháp luật 2
1. ở thời kỳ phong kiến 2
2. Thời kỳ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà 2
3. Bộ luật dân sự 5
II. Hàng thừa kế theo pháp luật 9
1. Thời thực dân phong kiến 9
2. Đầu thời kỳ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà 10
3. Bộ luật dân sự 17
Kết luận 22
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2282 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nội dung diện và hàng thừa kế theo pháp luật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ời để lại di sản bao gồm những người có quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản bao gồm: cha mẹ nuôi, anh, chị em nuôi.
Thông tư số 81 là văn bản của TANDTC hướng dẫn đường lối giải quyết tranh chấp về thừa kế phát sinh trong bối cảnh xã hội chưa có luật về thừa kế. Diện thừa kế theo pháp luật được quy định cũng như một số giải pháp giúp cho việc chia di sản thừa kế là tài sản sinh hoạt, tiêu dùng mà thôi. Việc xác định các quy định về thừa kế nói chung và diện những người thừa kế theo pháp luật nói riêng chưa xem xét đến tính khách quan của quan hệ kinh tế.
* Pháp lệnh thừa kế ngày 30/8/1990 quy định về diện những người thừa kế rộng hơn, bao gồm tất cả những người mà thông tư số 81 hướng dẫn xác định mà còn bao gồm thêm những người thuộc quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ khác đó là cụ nội, cụ ngoại, chú ruột, bác ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột của người để lại di sản và những người mà người để lại di sản gọi là chú ruột, bác ruột, cô ruột, dì ruột, cậu ruột. Phạm vi những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật được qui định trong pháp lệnh thừa kế dựa trên quan điểm mang tính chất truyền thống về quan hệ gia đình Việt Nam. Những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người đó. Lợi ích của mỗi thành viên trong gia đình, dòng tộc luôn được pháp luật của nhà nước ta coi trọng và đảm bảo thực hiện trong mối quan hệ với lợi ích của toàn xã hội khi mà tài sản thuộc sở hữu tư nhân ngày càng phong phú về chủng loại và tăng cao về giá trị.
3. Bộ luật dân sự.
Bộ luật dân sự của nước ta được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01/07/1996 diện những người thừa kế theo pháp luật lần đầu tiên được quy định trong văn bản có hiệu lực cao nhất là Bộ luật dân sự. Diện những người thừa kế theo pháp luật quy định trong Bộ luật dân sự vẫn dựa trên các mối quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng. Theo quy định tại Điều 679 BLDS thì người thừa kế theo pháp luật gồm:
Hàng thứ nhất:
- Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người đã chết.
Hàng thứ hai:
- Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, chị ruột, anh ruột, em ruột của người đã chết.
Hàng thứ ba:
- Cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cô ruột, dì ruột của người đã chết, cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột,dì ruột.
Qua việc áp dụng pháp luật tại ngành Toà án nhân dân đã giúp các nhà lập pháp nâng cao trình độ và kỹ thuật lập pháp để điều chỉnh toàn diện quan hệ kinh tế trong xã hội. Phạm vi diện những người được thừa kế trong pháp luật được BLDS quy định đã đánh dấu sự phát triển của pháp luật thừa kế ở nước ta và được thể hiện ở những phương diện sau:
- Thứ nhất: Quan hệ thừa kế theo pháp luật là loại quan hệ pháp luật về tài sản. Quyền thừa kế của công dân được pháp luật thừa kế điều chỉnh đã tạo điều kiện cho sự hình thành các quan hệ tài sản của các chủ thể tham gia vào quan hệ để lại di sản và nhận di sản.
- Thứ hai, diện những người thừa kế được mở rộng theo số lượng hàng thừa kế theo pháp luật đã đảm bảo cho việc chia di sản thừa kế của công dân được thực hiện một cách triệt để nhất. Di sản thừa kế không thể không chia cho những người có quan hệ huyết thống trực hệ và bàng hệ với người để lại di sản.
Người thuộc diện thừa kế theo pháp luật là người có một hoặc đồng thời hai mối quan hệ với người để lại di sản trong phạm vi 3 mối quan hệ đã đề cập ở trên và được thể hiện cụ thể như sau:
- Người thuộc diện thừa kế theo pháp luật có mối quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản.
- Người có mối quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản.
- Người có mối quan hệ huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản.
Ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng giữa ngưòi để lại di sản và người thừa kế chỉ là những căn cứ xác định diện những người thừa kế theo pháp luật. Phạm vi những người có quan hệ huyết thống gần, huyết thống xa với người để lại di sản có thuộc diện hay không thuộc diện thừa kế còn tuỳ thuộc vào những quy định của pháp luật trong từng giai đoạn lịch sử khác nhau.
* Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ hôn nhân.
Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã ly hôn. Như vậy quan hệ hôn nhân hợp pháp là quan hệ giữa vợ và chồng khi kết hôn đã tuân thủ các điều kiện thủ tục pháp luật quy định. Vợ và chồng thuộc diện thừa kế của nhau theo pháp luật, khi quan hệ hôn nhân của họ tính đến thời điểm mở thừa kế của người vợ hoặc người chồng được xác định là hôn nhân hợp pháp. Căn cứ vào quan hệ hôn nhân hợp pháp, quyền thừa kế của vợ chồng trong việc nhận di sản của nhau được bảo vệ bằng páp luật. Quan hệ hôn nhân hợp pháp là quan hệ hôn nhân được xác lập thông qua việc đăng ký kết hôn.
* Diện thừa kế theo pháp luật dựa trên quan hệ huyết thống.
Pháp luật luôn bảo vệ lợi ích chính đáng của những người con xét về quan hệ huyết thống với cha, mẹ và nghĩa vụ của người làm cha mẹ đối với con. Quyền thừa kế theo pháp luật của con không phụ thuộc vào hình thức kết hôn của cha mẹ đẻ. Các con đẻ của người để lại di sản không phân biệt trai hay gái trong giá thú hay ngoài giá thú có năng lực hay không có năng lực theo qui định của pháp luật, họ đều thuộc diện thừa kế theo pháp luật của nhau vì giữa họ với cha, mẹ đẻ có quan hệ huyết thống. Cha đẻ, mẹ đẻ của con dù là con trong hay ngoài giá thú đều có quan hệ huyết thống do vậy cha đẻ, mẹ đẻ với các con đẻ thuộc diện thừa kế của nhau. Quan hệ huyết thống được xác định giữa cha và con thì lợi ích của người con được đảm bảo trong việc thừa kế tài sản của bố đẻ khi người bố chết.
*Diện thừa kế theo pháp luật được xác định theo quan hệ nuôi dưỡng.
Khi chưa có Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thì nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau giữa cha mẹ với con, ông bà với cháu chỉ được coi là chuẩn mực đạo đức trong quan hệ gia đình. Nhưng khi có Luật hôn nhân từ năm 1959 thì đã có quy định nghĩa vụ của những người có quan hệ huyết thống trong việc chăm sóc giáo dục con cái chưa thành niên theo những nguyên tắc pháp luật và con đã thành niên mà không có khả năng lao động. Con thì phải có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Ngưòi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng, người để lại di sản đã bị Toà án kết án bằng bản án có giá trị pháp lý thì người đó bị tước quyền thừa kế theo pháp luật (điều 646 BLDS).
Quan hệ nuôi dưỡng còn được thể hiện giữa mối quan hệ anh, chị với em khi cha mẹ không còn. Ông bà với cháu khi bố mẹ cháu mất và ngược lại. Giữa con riêng với cha kế, mẹ kế nếu họ có mối quan hệ chăm sóc yêu thương nhau như cha con, mẹ con. Họ được hưởng tài sản của nhau theo Điều 679, 680 BLDS. Quan hệ con nuôi với cha mẹ nuôi họ có quyền như con đẻ và cha mẹ đẻ, họ đều thuộc diện thừa kế của nhau. Con nuôi phải được Toà án thừa nhận. Cô ruột, dì ruột, chú ruột, bác ruột, cậu ruột của cháu và cháu gọi cô ruột, dì ruột, chú ruột, bác ruột, cậu ruột không quy định họ có nghĩa vụ chăm sóc nhau nhưng họ vẫn thuộc diện thừa kế (hàng thứ ba). Quy định này dựa trên quan hệ huyết thống.
Tóm lại, diện thừa kế theo pháp luật bao gồm những cá nhân còn sống có quan hệ huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng, với người để lại di sản tính đến thời điểm mở thừa kế của người đó và những cá nhân sinh ra mà còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Phạm vi những cá nhân thuộc diện thừa kế theo quan hệ huyết thống được xác định theo số lượng người được pháp luật chỉ định trong các hàng thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản.Diện thừa kế không bao gồm người không được quyền hưởng di sản theo quy định của pháp luật.
II. Hàng thừa kế theo pháp luật.
Những quy định về hàng thừa kế theo pháp luật theo pháp luật dựa trên bản chất thừa kế và được hiểu là nhóm người có quan hệ cùng tính chất gần gũi với người để lại di sản thừa kế. Tính chất gần gũi đó được thể hiện trong quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng giữa người thừa kế và người để lại di sản, theo đó người thừa kế được hưởng di sản theo trình tự hàng thừa kế.
1. Thời thực dân phong kiến.
Hàng thừa kế theo pháp luật thời thực dân phong kiến quy định theo pháp luật ưu tiên hưởng di sản như sau:
Thứ nhất: các con (con đẻ, con nuôi, con vợ cả hay con vợ lẽ) của người để lại di sản. Trong trường hợp con của người để lại di sản không còn thì cháu được hưởng di sản của ông bà.
Thứ hai: Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi của người để lại di sản.
Thứ ba: Ông nội, bà nội, các cụ nội của người để lại di sản. Các cụ nội của người để lại di sản chỉ được hưởng di sản trong trường hợp ông nội, bà nội của người để lại di sản không còn.
Thứ tư: Anh, chị, em ruột (con, cháu của anh, chị, em ruột) trong trường hợp anh, chị, em ruột của người để lại di sản chết trước người để lại di sản thì con của người đó được hưởng di sản hoặc con của anh, chị, em ruột cũng đã chết thì cháu của anh, chị, em ruột đã chết đó được hưởng di sản.
Thứ năm: Những người bên họ ngoại của ngưòi để lại di sản được hưởng di sản. Những người bên họ ngoại của người để lại di sản chỉ được hưởng di sản sau khi đã xác định bên họ nội của người để lại di sản không còn ai là người thừa kế hoặc còn nhưng đều là người bị coi là bất xứng hưởng di sản.
Pháp luật chế độ thực dân đã quy định thứ tự thừa kế theo pháp luật ưu tiên cho những người thuộc nội tộc của người để lại di sản. Nếu không có người thừa kế thì di sản thuộc về quốc gia. Người vợ goá, chồng goá không thuộc hàng thừa kế nào của nhau khi một trong hai bên chết trước.
2. Đầu thời kỳ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
* Sắc lệnh 97 – LS đã quy định người vợ goá, chồng goá và các con đẻ, con nuôi của người để lại di sản được ưu tiên hưởng di sản trước những người thân thuộc khác của người để lại di sản. Theo quy định tại Điều 10, 11 của sắc lệnh nói trên thì thứ tự ưu tiên hưởng di sản của người chết để lại trước hết là: vợ goá, chồng goá, các con của người để lại di sản, các cháu của người để lại di sản được hưởng di sản khi cha mẹ cháu không còn. Căn cứ vào sắc lệnh này thì chỉ có một hàng thừa kế theo pháp luật và thừa kế thế vị. Những người thuộc hàng thừa kế chỉ gồm vợ goá hoặc chồng goá, các con của người để lại di sản. Các cháu của người để lại di sản là những người thừa kế thế vị trong trường hợp cha hoặc mẹ của cháu chết trước ông, bà nội, ngoại. Vợ goá hoặc chồng goá của người chết để lại di sản đã là người thừa kế trong hàng thừa kế ưu tiên hưởng di sản của người chồng hoặc người vợ chết trước đó cũng là điều mà pháp luật thực dân phong kiến chưa hề có. Tuy nhiên sắc lệnh này cũng chỉ bảo vệ quyền thừa kế của người chồng goá hoặc người vợ goá cùng các con của người để lại di sản, qui định đó được xem như một nguyên tắc trong việc xác định người thừa kế theo hàng mà các văn bản pháp luật thừa kế sau đó được hoàn thiện hơn.
* Thông tư số 1742 quy định một số vấn đề về thừa kế đã bắt đầu xác định về thứ tự và hàng thừa kế tuy chưa thật cụ thể và rõ ràng:
Thứ nhất: Vợ hoặc chồng và các con của người chết.
Thứ hai: cha, mẹ của người để lại di sản, sau cha mẹ đến các hàng thừa kế khác.
Thông tư 1742 đã có những quy định cụ thể hơn: số lượng hàng thừa kế đã có hai hàng và qui định cháu nội, ngoại của người để lại di sản được hưởng thừa kế thế vị khi cha hoặc mẹ cháu đã chết. Thông tư qui định về hàng thừa kế chưa rõ ràng nên vẫn còn gây mâu thuẫn trong việc giải quyết những tranh chấp về thừa kế.
Hạn chế của thông tư này là: không qui định cho người vợ goá hoặc người chồng goá được thừa kế trong một hàng cố định nào. Ngược lại quyền thừa kế của người vợ goá hoậc người chồng goá lại phụ thuộc vào điều kiện nếu người chết không có con, cháu thì người vợ goá, chồng goá chỉ được hưởng 1/2 di sản thừa kế của người chồng hoặc người vợ đã chết trước. Xét về nguyên tắc hưởng thừa kế thì không thể có hai hàng cùng hưởng thừa kế, qui định trên của thông tư 1742 đã gây khó khăn cho việc áp dụng để giải quyết tranh chấp về thừa kế.
*Thông tư 594: để nhằm khắc phục thực trạng thiếu sự thống nhất trong việc quy định về quyền của người vợ goá, chồng goá trong việc hưởng di sản thừa kế theo pháp luật do thông tư số 1742 nói trên quy định, và nhân dân tối cao đã ban hành thông tư số 594, hướng dẫn đường lối xét xử các tranh chấp về thừa kế. Theo thông tư này thì hàng thừa kế theo pháp luật được xác định dựa trên các mối quan hệ hôn nhân, huyết thống và quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản. Việc hưởng di sản theo pháp luật được tiến hành theo trật tự nhất định: những người thừa kế được quy định theo thứ tự hàng thừa kế và những người thừa kế ở hàng đầu được hưởng toàn bộ di sản, nếu không có những người thừa kế ở hàng này hoặc có nhưng họ đều từ chối quyền hưởng thì người ở hàng tiếp theo được hưởng di sản. Thông tư nói trên đã hướng dẫn xác định hai hàng thừa kế như sau:
- Hàng thứ nhất: Vợ goá, chồng goá, các con đẻ, các con nuôi, bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi.
- Hàng thứ hai: Anh chị em ruột và anh chị em nuôi ông bà nội, bà ngoại.
Theo thông tư số 594 thì những người đã được thừa kế trong hai hàng đã được chỉ rõ, cụ thể ở hàng thứ nhất có các con đẻ, các con nuôi, bố đẻ, mẹ đẻ, bố nuôi, mẹ nuôi. Điểm mới của thông tư năm 594 so với các văn bản trước đó là bố, mẹ của người chết được thừa kế ở hàng thứ nhất cùng với vợ, con của người để lại di sản. Lần đầu tiên những người có quan hệ huyết thống trực hệ bề trên là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại và những người có quan hệ huyết thống bàng hệ cùng bậc như anh ruột, chị ruột, em ruột của người để lại di sản được quy định là những người thừa kế ở hàng thứ hai. Ngoài ra trong hai hàng thừa kế còn bao gồm những người chỉ có quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản như bố nuôi, mẹ nuôi và những người chỉ có quan hệ nuôi dưỡng với cha mẹ của người để lại di sản như anh nuôi, em nuôi, chị nuôi. Quy định trên của thông tư số 594 đã tuyệt đối hoá quan hệ nhân thân này nhưng lại làm triệt tiêu quan hệ nhân thân khác và quy định đó đã bộc lộ những hạn chế và không phù hợp với thực tế ở những điểm sau:
- Quan hệ giữa cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ là quan hệ huyết thống không phụ thuộc vào hình thức hôn nhân của cha, mẹ. Quan hệ giữa người cha, người mẹ với con đẻ thì ngoài quan hệ huyết thống còn là quan hệ nhân thân không thể chuyển dịch cho chủ thể khác.
- Quan hệ giữa cha nuôi, mẹ nuôi với con nuôi cũng là quan hệ nhân thân nhưng không có mối liên quan trực tiếp tới quan hệ huyết thống và quan hệ đó có thể bị triệt tiêu theo một sự kiện pháp lý nhất định. Quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi chỉ ràng buộc với quan hệ nuôi dưỡng, trong khi đó quan hệ giữa cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ ngoài quan hệ nuôi dưỡng còn có mối ràng buộc bởi quan hệ huyết thống.
Quy định trên của thông tư số 594 không phù hợp với thực tế và không phù hợp với truyền thống của nhân dân ta. Quy định này không khuyến khích việc nhận nuôi con nuôi mà còn ngăn chặn sự gắn bó máu thịt giữa con đẻ đang là con nuôi của người khác trong các mối quan hệ với những người thân thuộc khác trong gia đình.
Tuy còn những điểm hạn chế nhưng thông tư số 594 đã có những quy định về các hàng thừa kế có những điểm mới và cụ thể hơn những thông tư trước đó ở những điểm sau:
- Trong hàng thừa kế thứ nhất: những người thừa kế được xác định theo cơ cấu có quan hệ huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng với người để lại di sản. Bề trên gồm có bố mẹ đẻ, bố mẹ nuôi của người chết. Bề dưới có các con đẻ, các con nuôi của người chết. Cùng bậc gồm có vợ goá hoặc chồng goá của người chết. Hàng thừa kế thứ hai gồm những người có quan hệ huyết thống với người để lại di sản: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại của người chết, anh ruột, chị ruột, em ruột và những người có quan hệ nuôi dưỡng là anh nuôi, chị nuôi, em nuôi của người chết.
- Thông tư số 1742 chỉ ưu tiên và bảo vệ quyền hưởng di sản của người vợ goá hoặc người chồng goá và các con của người để lại di sản thì thông tư số 594 quy định thêm những người có quyền ưu tiên hưởng di sản thuộc hàng thừa kế thứ nhất như cha đẻ, mẹ đẻ hoặc cha nuôi, mẹ nuôi của người để lại di sản.
Nội dung thông tư 594 đã khắc phục được những hạn chế của thông tư số 1742 trước đó về những người thừa kế theo hàng. Thông tư này đã loại bỏ những quy định không rõ ràng và đã quy định về những người thừa kế trong hai hàng rất cụ thể, dễ áp dụng trong việc chia thừa kế theo hàng. Từ năm 1945 đến năm 1968 thì thông tư số 594 là thông tư đầu tiên quy định về các hàng thừa kế theo pháp luật ở nước ta có nội dung tương đối đầy đủ và rõ ràng hơn cả. Tuy nhiên thông tư này vẫn có một số hạn chế như sau:
Nội dung thông tư quy định về các hàng thừa kế cũng mới chỉ dừng lại ở việc xác định những người thừa kế theo hàng mà chưa bao quát được hết những sự kiện liên quan đến quyền hưởng di sản của người thừa kế trong hàng. Những hạn chế đó có thể là:
+ Người thừa kế có hành vi trái pháp luật là nguyên nhân người đó bị tước quyền hưởng di sản theo pháp luật đã không được đề cập.
+ Trong trường hợp người con nuôi chết mà không còn bất kỳ ai là người thừa kế ở hàng thứ nhất hoặc có nhưng họ đều từ chối quyền hưởng di sản thì ai sẽ là người thừa kế ở hàng thứ hai.
Tuy còn những hạn chế nhưng thông tư số 594 được ban hành trong hoàn cảnh ở nước ta chưa có văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao quy định về thừa kế nên nó đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn giải quyết được các tranh chấp về thừa kế vào thời điểm lịch sử lúc bấy giờ. Thông tư này thể hiện bản chất pháp luật của thừa kế của chế độ XHCN ở nước ta theo 5 nguyên tắc cơ bản sau:
+ Nhà nước chiếu theo pháp luật bảo hộ quyền thừa kế tài sản tư hữu của công dân.
+ Nam nữ đều bình đẳng về quyền thừa kế.
+ Củng cố và phát triển tình đoàn kết, thương yêu trong nội bộ gia đình, tăng cường tinh thần phấn khởi sản xuất của mọi người.
+ Tôn trọng quyền định đoạt bằng di chúc của người có di sản, bảo vệ quyền lợi của người thừa kế theo pháp luật.
+ Người nhận thừa kế được hưởng tất cả quyền lợi về tài sản do người chết để lại nhưng phải chịu trách nhiệm thi hành các nghĩa vụ do người chết để lại trong phạm vi di sản đã nhận được.
Những nguyên tắc trên được vận dụng khi giải quyết các tranh chấp về thừa kế và đã phần nào xoá bỏ được những tàn tích của tư tưởng trọng nam khinh nữ. Đồng thời xác định địa vị của người phụ nữ trong mọi trường hợp đều có quyền thừa kế theo pháp luật như nam giới.
* Nhằm để củng cố hơn nữa quyền thừa kế của công dân nói chung và thừa kế theo pháp luật của công dân nói riêng, thông tư số 81 được ban hành. Thông tư này hướng dẫn hai hàng thừa kế theo pháp luật:
- Hàng thứ nhất: Vợ goá, chồng goá các con đẻ và con nuôi, bố đẻ,mẹ đẻ, mẹ nuôi, bố nuôi hoặc mẹ nuôi.
- Hàng thứ hai: Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh, chị em ruột, anh chị em cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha và anh chị, em nuôi.
Thông tư số 81 không những phù hợp với hiện tượng một người có nhiều vợ mà còn nhằm làm rõ quyền thừa kế của các con trong một gia đình có những người con không cùng bố, cùng mẹ sinh ra. Những người là anh, chị, em được sinh ra do cùng một người cha, thuộc hàng thừa kế thứ hai của nhau. Tương tự vậy, những anh, chị, em được sinh ra do cùng một người mẹ thì họ thuộc hàng thừa kế thứ hai của nhau. Những người có cùng một mẹ hoặc một cha sinh ra đều có quan hệ huyết thống do vậy đều là anh chị em ruột nên được thừa kế theo pháp luật của nhau.
Bên cạnh những quy định về hàng thừa kế theo pháp luật, thông tư số 81 đã quy định những trường hợp một người tuy được hưởng thừa kế theo hàng nhưng lại không có quyền hưởng di sản do có hành vi trái pháp luật xâm hại đến quyền hưởng di sản và quyền để lại di sản của người khác như:
- Người đã giết người để thừa kế hoặc đối xử quá tàn tệ của người để lại di sản.
- Người đã giết người thừa kế cùng hàng để nhằm chiếm đoạt toàn bộ hoặc một phần di sản mà người đó có quyền hưởng thì không được thừa kế của người để lại di sản và của người bị chết.
Đặc biệt lần đầu tiên quyền thừa kế của bố, mẹ, vợ, chồng, các con vị thành niên và các con của người để lại di sản tuy đã trưởng thành nhưng không có khả năng lao động và túng thiếu được thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Những người nói trên đều là những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản.
Phần di sản mỗi người được hưởng ít nhất bằng 2/3 suất của một người thừa kế chia theo pháp luật, đó là trường hợp người có di sản lập di chúc truất quyền thừa kế của họ hoặc cho mỗi người trong số họ hưởng ít hơn 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.
Thông tư số 81 tuy vẫn còn những hạn chế nhất định nhưng trong thông tư đã có những điểm tiến bộ, đánh dấu sự phát triển của pháp luật thừa kế ở nước ta trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
3. Bộ luật dân sự
Vào những năm cuối thập kỷ 80, thế kỷ thứ XX Nhà nước phát triển theo nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng XHCN. Quyền sở hữu và quyền thừa kế của công dân được tôn trọng và được đảm bảo bằng pháp luật. Nhằm khấc phục những nội dung còn thiếu và chưa phù hợp với đời sống thực tế trong các thông tư hướng dẫn giải quyết các tranh chấp thừa kế trước đó, pháp lệnh thừa kế ngày 30/08/1990 được ban hành. Tính hiệu lực pháp lý cao của pháp lệnh thừa kế đã căn bản đáp ứng một cách tương đối toàn diện và có hệ thống vấn đề thừa kế ở nước ta trong nhiều thập kỷ. Pháp lệnh thừa kế xét về trình độ và nội dung lập pháp của nó là một văn bản có ý nghĩa quan trọng trong quá trình pháp điển hoá chế định về thừa kế của BLDS sau này. Pháp lệnh quy định ba hàng thừa kế tại Điều 25 như sau:
- Hàng thứ nhất: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết.
- Hàng thứ hai: ông nội, bà nội , ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết.
- Hàng thứ ba: cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột ,cậu ruột, cô ruột, dì ruột, cháu ruột của người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
Pháp lệnh thừa kế này có những điểm mới khác biệt so với quy định so với quy định về hàng thừa kế trong thông tư số 81 như sau:
- Pháp lệnh thừa kế này không có sự phân biệt một người đang là con nuôi của người khác với những người con khác của người để lại di sản.
- Trong hàng thừa kế thứ hai: đã loại bỏ người thừa kế là anh nuôi, chị nuôi, em nuôi của người chết.
- Pháp lệnh thừa kế bao gồm những người thừa kế thuộc hàng thứ ba được sắp xếp theo quan hệ huyết thống bao gồm:
+ Bề trên của người để lại di sản gồm có cụ nội, cụ ngoại, bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột.
+ Bề dưới của người để lại di sản gồm có cháu ruột của người chết là bác ruột, chú ruột, cô ruột, cậu ruột, dì ruột.
Quy định ba hàng thừa kế nhằm bảo vệ ở mức độ cao nhất quyền thừa kế của những người cùng huyết thống với những người bảo vệ di sản. Pháp lệnh thừa kế còn quy định về việc người thừa kế nhường quyền hưởng di sản cho người thừa kế khác nhưng pháp lệnh thừa kế không qui định rõ về điều kiện, thủ tục và thời hạn nhường quyền hưởng di sản.
Nhường quyền hưởng di sản phải được tiến hành từ thời điểm mở thừa kế của người để lại di sản và trước khi hoặc trong khi chia di sản. Nếu người được thừa kế đã nhận di sản mà sau đó nhường phần di sản đó cho người khác thì đó là hợp đồng tặng – cho mà không phải là nhường quyền hưởng di sản. Vì người được nhường quyền hưởng di sản hợp pháp có toàn bộ quyền và nghĩa vụ của người được thừa kế. Người được tặng cho tài sản không có quyền và nghĩa vụ về di sản như người thừa kế.
Qua đó, quy định tại Điều 31 pháp lệnh thừa kế về người thừa kế có thể nhường quyền hưởng di sản cho người thừa kế khác đã làm phức tạp hoá quan hệ thừa kế và có thể dẫn tới việc áp dụng quy phạm pháp luật không thoả đáng.
Pháp lệnh đã bổ sung trong trường hợp con riêng và cha kế, mẹ kế đã thể hiện được nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì họ được thừa kế của nhau khi một bên chết trước. Cơ sở để xác lập quan hệ thừa kế theo pháp luật giữa họ với nhau là quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con. Khi con riêng và cha kế, mẹ kế có đủ điều kiện thừa kế theo pháp luật của nhau ở hàng thừa kế thứ nhất thì con đẻ của người đó cũng được thừa kế thế vị trong trường hợp người đó chết trước hoặc chết trong cùng một thời điểm với cha kế, mẹ kế.
Để bảo vệ quyền thừa kế của bố, mẹ, vợ, chồng, các con chưa trưởng thành và các con tuy đã trưởng thành nhưng không có khả năng lao động, pháp lệnh thừa kế đã quy định về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Những người này thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản. Phần di sản họ được hưởng ít nhất phải bằng 2/3 suất thừ kế theo pháp luật. Trừ trường hợp họ từ chối hoặc bị pháp luật tước quyền di sản.
Tuy còn những hạn chế nhưng có thể khẳng định pháp lệnh thừa kế được ban hành đã phản ánh mức độ phát triển của công tác lập pháp ở nước ta phát triển phù hợp với giai đoạn phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Pháp lệnh thừa kế đóng vai trò lịch sử quan trọng trong hệ thống pháp luật của nước ta và là sự chuẩn bị trong quá trình pháp điển hoá chế định về thừa kế ở Việt Nam chuẩn bị cho công việc xây dựng BLDS sau này.
*Bộ luật dân sự của nước ta được ban hành vào ngày 01/07/1996 đã từng bước quy định thống
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Diện và hàng thừa kế theo pháp luật.doc