Từ ngày 11 đến 19 tháng 2 năm 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng họp tại Chiêm Hóa-Tuyên Quang. Đại hội đã thông qua “ báo cáo chính trị” do đồng chí Hồ Chí Minh trình bày và báo cáo “bàn về cách mạng Việt Nam” do đồng chí Trường Chinh trình bày. Hai bản báo cáo tiếp tục khẳng định ý nghĩa to lớn của cuộc kháng chiến chống Pháp và đề ra đường lối, phương hướng cụ thể nhằm đưa cuộc kháng chiến tới thắng lợi hoàn toàn. Đại hội cũng quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên mới là Đảng Lao Động Việt Nam. Quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai thể hiện sự nhạy bén về chính trị của Đảng, đồng thời góp phần củng cố và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và với cuộc kháng chiến.
21 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 17959 | Lượt tải: 6
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Nội dung đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lĩnh xây dựng đất nước, các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, những định hướng về chính sách... Phương thức lãnh đạo này tập trung trong các nghị quyết của Đảng. Lênin nói: “Trong nước cộng hòa chúng ta, không có một vấn đề chính trị hay tổ chức quan trọng nào do một cơ quan Nhà nước giải quyết mà lại không có chỉ thị của Ban chấp hành trung ương Đảng”.
Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Theo Lênin: “Đảng phải đem những đảng viên có phẩm chất và năng lực vào bộ máy Nhà nước. Việc bố trí và quản lý cán bộ trong các cơ quan Nhà nước và các đoàn thể thông qua Đảng đoàn, ban cán sự Đảng. đối với những chức danh chủ chốt trong các cơ quan Nhà nước và tổ chức chính trị thì Đảng phải giới thiệu những cán bộ đảng viên có đủ tiêu chuẩn để ứng cử vào các cơ quan, tổ chức đó. Đảng tôn trọng chế độ bầu cử, bổ nhiệm và bãi miễn chức danh cán bộ của cơ quan Nhà nước và các tổ chức chính trị – xã hội”.
Lênin nói đến yếu tố xây dựng bộ máy Nhà nước thì yếu tố cán bộ là trước tiên, người chỉ rõ: “chúng ta chỉ hiện có... chỉ có hai mà thôi. Một là: những công nhân hăng hái đấu tranh cho chủ nghĩa xã hội nhưng họ không biết làm thế nào. Cho đến nay họ chưa được học tập mấy, họ không có trình độ văn hóa cần thiết để làm việc đó. Hai là: những yếu tố kiến thức, học thức, giáo dục...”. Còn nói về con người: “muốn thế, những phần tử ưu tú trong chế độ xã hội của chúng ta tức là trước hết, những công nhân tiên tiến và sau nữa là phần tử thật sự có học thức mà người ta có thể tin chắc rằng họ sẽ không tin một lời nào, không nói một lời nào trái với lương tâm họ - những phần tử ưu tú ấy phải không sợ thừa nhận bất cứ một khó khăn nào và không lùi bước trước bất cứ một cuộc đáu tranh nào để đạt được mục đích mà họ tự đặt cho mình một cách nghiêm chỉnh … phải có những điều kiện qua được một kỳ sát hạch chứng nhận rằng họ hiểu bộ máy nhà nước chúng ta, họ hiểu lý luận thường thức về bộ máy Nhà nước của chúng ta, những nguyên tắc của khoa học quản lý, những giấy tờ sổ sách”. Muốn vậy, theo Lênin: “Phải làm sao cho học thức ở nước ta không nằm trên giấy tờ hoặc một lời nói theo mốt nữa, phải làm sao cho học thức ăn sâu vào trí não, hoàn toàn và thực tế trở thành một bộ phận khăng khít của cuộc sống của chúng ta. Lênin đòi hỏi bộ máy ấy phải có kiến thức quản lý như bộ máy Nhà nước Tây Âu nhưng điều quan trọng hơn là bộ máy khác hẳn cái Tây âu tư sản đòi hỏi, tức là cái gì xứng đáng và thích hợp với một nước đang đặt ra cho mình nhiệm vụ trở thành một nước xã hội chủ nghĩa”. Bên cạnh đó Lênin còn đòi hỏi phải củng cố Ban chấp hành trung ương Đảng, ở rộng bổ sung ban chấp hành từ những người tiên tiến trong giai cấp công nhân, chấn chỉnh và và đổi mới quy chế làm việc của Bộ chính Trị và Ban chấp hành trung ương nhằm làm cho Bộ chính trị và Ban chấp hành trung ương khỏi phải giải quyết công việc vun vặt.
Về nhiệm vụ của cán bộ đảng viên của Đảng trong bộ máy Nhà nước Lênin nói: “Các đồng chí là những người cộng sản, các đồng chí là công nhân, là bộ phận giác ngộ của giai cấp vô sản, các đồng chí là người đảm nhiệm việc lãnh đạo Nhà nước, các đồng chí hãy làm thế nào cho Nhà nước mà các đồng chí nắm trong tay phải hoạt động như các đồng chí mong muốn”(Đại hội Đảng XI, 3-1922).
Đảng lãnh đạo thông qua công tác vận động quần chúng tham gia quản lý Nhà nước. Theo Lênin, đây là hình thức hết sức quan trọng, không thể thiếu trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Bởi vì số phận của cách mạng xã hội chủ nghĩa phụ thuộc vào lòng tin và khả năng vận động, tập hợp, giáo dục, thuyết phục quần chúng tin vào Đảng, đi theo Đảng và tiến hành các hoạt động cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng. Ông nói: “Chỉ có những người tin vào nhân dân, dấn mình vào nguồn sáng tạo sinh động của nhân dân mới là người chiến thắng và giữ được chính quyền”, “Nhiệm vụ thứ nhất của bất cứ một chính Đảng nào có trọng trách đối với thời đại là thuyết phục cho đa số nhân dân thấy được sự đúng đắn của cương lĩnh và sách lược của mình...”
Từ vị trí và vai trò của quần chúng, Lênin chỉ ra rằng, Đảng phải giáo dục, thuyết phục và tổ chức cho quần chúng nhân dân tham gia quản lý Nhà nước. Nếu không có sự tham gia giám sát và quản lý của quần chúng nhân dân thì Đảng không thể lãnh đạo được Nhà nước, mà bản thân bộ máy của Đảng và Nhà nước cũng bị tiêu tan. Người nói: “Trong quần chúng nhân dân, chúng ta chỉ tựa như giọt nước trong đại dương và chỉ khi nào biểu hiện được đúng ý nguyện của nhân dân thì chúng ta mới quản lý Nhà nước được. Nếu không Đảng cộng sản sẽ không lãnh đạo được giai cấp vô sản, giai cấp vô sản sẽ không lôi cuốn được quần chúng theo mình, và tất cả bộ máy sẽ tan rã”.
Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra: Theo Lênin, nội dung kiểm tra của Đảng đối với Nhà nước là việc quán triệt và tổ chức thực hiện chủ trương, quan điểm đường lối chỉ đạo của Đảng, hiến pháp và pháp luật của Nhà nước có đúng không.
Đảng trực tiếp kiểm tra, đồng thời phối hợp kiểm tra Đảng với thanh tra nhà nước, thanh tra nhân dân và kiểm tra đoàn thể. Đảng thực hiện chức năng kiểm tra không phải bằng những quyền lực hành chính mà bằng đường lối, chủ trương chính sách đúng, bằng giáo dục, thuyết phục, bằng công tác tư tưởng, công tác vận động quần chúng, bằng hành động gương mẫu của cán bộ, đảng viên.
Trong phương thức lãnh đạo cũa Đảng đối với Nhà nước, Lênin nhấn mạnh: “Cần phân định rõ ràng hơn những nhiệm vụ của Đảng với nhiệm vụ của chính quyền Xô viết”, “chừng nào mà ban chấp hành trung ương Đảng và toàn Đảng còn tiếp tục làm thay công tác quản lý hành chính, nghĩa là quản lý Nhà nước, thì Đảng không thể gọi là người lãnh đạo được”, “Đảng không bao biện, làm thay công việc Nhà nước”.
Tóm lại, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước theo Lênin có mấy vấn đề sau:
+ Đảng không bao biện, làm thay công việc Nhà nước.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng định hướng chính trị.
+ Đảng lãnh đạo Nhà nước thông qua cán bộ và công tác cán bộ của Đảng.
+ Đảng lãnh đạo bằng công tác kiểm tra giám sát.
+ Đảng lãnh đạo bằng hình thức vận động quần chúng.
1.4.Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Là người sáng lập và lãnh đạo Đảng ta, chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến sự lãnh đạo của Đảng và phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền.
1.4.1.Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cầm quyền.
Người nhấn mạnh: “Đảng ta là Đảng cầm quyền”, nghĩa là Người khẳng định bước ngoặt vĩ đại đánh dấu sự chuyển biến về chất trong vị thế của Đảng từ chưa coc chính quyền trở thành có chính quyền; đồng thời là bước ngoặt trong đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng.
Cũng như chủ nghĩa Mác – Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh nói đến vai trò của Đảng cầm quyền: “Lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, Đảng trở thành Đảng cầm quyền, Đảng nắm quyền lãnh đạo đất nước về mọi mặt. Trong điều kiện có chính quyền, bản chất chính trị của Đảng không thay đổi, nhưng nội dung, phương thức hoạt động, phương thức lãnh đạo của Đảng có sự thay đổi cho thích hợp với yêu cầu và nhiệm vụ thời kỳ mới”. Người nhấn mạnh: “Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Đây là sự khác biệt của Đảng ta so với các Đảng khác.
“Đảng phải xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đó là Nhà nước kiểu mới, tồn tại và hoạt động vì lợi ích nhân dân, là bộ máy thể hiện quyềm lực của nhân dân, do nhân dân xây dựng. Đảng cầm quyền phải biết tìm ra và tuân theo một quy trình nghiêm nhặt để hoạt động và xây dựng trưởng thành”
Nhiệm vụ của Đảng cầm quyền là tổ chức quản lí đất nước, bảo vệ lợi ích cho nhân dân, cụ thể: “Tất cả mọi việc liên quan đến nhân dân, dù là tương cà mắm muối, cái kim sợi chỉ hàng ngày của dân, Đảng đều phải có trách nhiệm”...
Trong điều kiện Đảng cầm quyền: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt đêt phát triển kinh tế, văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống nhân dân”, “Đảng phải tuân thủ những nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt nhất định, mà nếu vi phạm thì đảng sẽ bị suy yếu và tan rã”, “Đảng phải có tư cách chân chính cách mạng”.
Đảng cầm quyền phải thường xuyên chăm lo công tác cán bộ, phải nắm cán bộ. Theo người, thành hay bại của cách mạng đều liên quan đến vấn đề cán bộ, đều do cán bộ tốt hay kém. Luôn luôn quan tâm giáo dục, nhắc nhở cán bộ, đảng viên phải giữ gìn phẩm chất đạo đức, chống những thói hư tạt xấu, sự thoái hóa biến chất trong điều kiện Đảng cầm quyền, phải “cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”.
Nói đến nguy cơ Đảng cầm quyền, Người nói đó là nguy cơ tha hóa, biến chất của Đảng dẫn đến sai lầm về đường lối, đó là chủ nghĩa cá nhân làm suy yếu Đảng, “Chủ nghĩa cá nhân là căn bệnh nguy hiểm làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, đảng viên”, “chủ nghĩa cá nhân là vi trùng”. Người nói thêm, “đề phòng âm mưu của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế”.
1.4.2.Hồ Chí Minh nói về phương thức lãnh đạo.
Theo Người, muốn có cách lãnh đạo đúng, trước hết phải hiểu lãnh đạo đúng nghĩa là thế nào, lãnh đạo đúng nghĩa là: “1.Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm quần chúng, vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo”, “2.Phải tổ chức thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong”, “3.Phải tổ chức sự kiểm soát cho đúng, mà muốn kiểm soát đúng thì phải có quần chúng giúp mới được”(Trích sửa đổi lối làm việc). Qua sự giải thích của chủ tịch Hồ Chí Minh về cách lãnh đạo đúng, có thể thấy rõ Đảng lãnh đạo mọi công việc của Đảng, của Nhà nước, của toàn xã hội trước hết bằng nghị quyết, chỉ thị hay chính sách của Đảng. Đòi hỏi trước hết của Đảng cầm quyền là phải đề ra được đường lối, chủ trương đúng đắn. Đường lối phải được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật, chính sách của Nhà nước
Trong việc ra quyết định, chính sách trong lãnh đạo, Người nói: “Đảng và chính phủ điều tra, nghiên cứu cân nhắc cẩn thận nhằm vào lợi ích chung của nhân dân đặt ra chính sách”. “Người lãnh đạo cách mạng phải khéo sửa đổi khi có những sai lầm trong tư tưởng, lý luận, kế hoạch và nghị quyết của mình. Đồng thời khi giai đoạn này phát triển lên giai đoạn khác thì sự hiểu biết cũa người lãnh đạo và chiến sỹ cách mạng cũng phải tiến theo. Nghĩa là đề ra nhiệm vụ mới và phương pháp mới hợp với tình hình mới của cách mạng”.
Trong tổ chức thi hành quyết định,Hồ Chí Minh dạy: “Khi đã định kế hoạch hẳn hoi rồi thì quả quyết thực hiện cho kỳ được”. “Để thực hiện chính sách, làm tròn nhiệm vụ, cán bộ chẳng những phải chịu khó giải thích, tuyên truyền, cổ động mà còn phải bàn bạc với quần chúng, hỏi han ý kiến, gom góp ý kiến của quần chúng. Lãnh đạo quần chúng và hoan nghênh quần chúng phê bình...”
Việc tổ chức kiểm soát, kiểm tra. Theo Bác: “Khi đã có chính sách đúng thì sự thành công hay thất bại của chính sách đó là nơi cách tổ chức công việc, nơi chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”. Hai điều để kiểm soát tốt là: một là, việc kiểm soát phải có hệ thống, phải thường làm. Hai là, người kiểm soát phải là người rất có uy tín. Có hai cách kiểm tra, kiểm soát là: “một cách từ trên xuống, tức là người lãnh đạo kiểm soát kết quả công việc của cán bộ mình. Một cách nũa là từ dưới lên. Tức là cán bộ và quần chúng kiểm soát sự sai lầm của người lãnh đạo và bày tổ cái cách sửa chữa sự sai lầm đó cách này là cách tốt nhất để kiểm soát các nhân viên”.
Cách lãnh đạo cụ thể một công việc: Người dạy rằng: “Bất kỳ công việc gì cũng phải dùng hai cách lãnh đạo sau: một là liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng, hai là liên hợp người lãnh đạo với quần chúng.
2.Vấn đề đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng ở Việt Nam từ khi Đảng trở thành đảng cầm quyền .
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định phương hướng tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đảm bảo tính chuyên chính vô sản của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Là người sang lập nên ĐCSVN, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến sự lãnh đạo của Đảng và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước trong điều kiện ĐCSVN nắm quyền lãnh đạo nhà nước. Người khẳng định: “Đảng ta là đảng cầm quyền”, nghĩa là bên cạnh sự chuyển biến về chất trong vị thế lãnh đạo của Đảng, yêu cầu Đảng cần có những đổi mới to lớn về nội dung và phương thức lãnh đạo của mình.
Nội dung cơ bản về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước bao gồm những vấn đề cơ bản sau đây:
+ Đảng định hướng chính trị - tức là đề ra cương lĩnh, đường lối, chính sách lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
+ Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy Nhà nước trong sạch, vững mạnh, đủ năng lực và hoạt động có hiệu quả. Đây là Nhà nước kiểu mới, Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
+ Đảng đề ra các quan điểm, chủ trương về xây dựng đội ngũ cán bộ của Đảng.
+Đảng kiểm tra các hoạt động của Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Theo nội dung trên thì phương thức lãnh đạo của Đảng bao gồm cả việc xây dựng đường lối nghị quyết. Trong thưc tiễn quá trình lãnh đạo của Đảng ta thấy ngay từ khi mới thành lập Đảng đã xây dựng cho mình phương thức lãnh đạo đúng đắn. Điều này thể hiện cụ thể qua cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng tháng 2-1930. Cương lĩnh xác định con đường cua cách mạng Việt Nam đó là: “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Cương lĩnh chỉ rõ: “Đảng không khi nào nhượng một chút lợi ích của công nông đê đi vào con đường thỏa hiệp”, Đảng là đội tiên phong cuả giai cấp công nhân, người tổ chức , lãnh đạo cách mạng, đấu tranh giải phóng công nhân, nông dân, toàn thể đồng bào ta ra khỏi bị đế quốc và phong kiến áp bức bóc lột, giành lại quyền độc lập tự do. Như vậy, Đảng đã xác định được những vấn đề căn bản trong phương thức lãnh đạo của Đảng đối với phong trào cách mạng Việt Nam, đưa phong trào cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này tới thắng lợi khác.
Từ khi gánh vác sứ mệnh lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo nhân dân, vai trò, vị trí của Đảng đã có sự thay đổi to lớn. Đảng không chỉ là đại biểu cho quyền lợi của giai cấp công nhân mà còn là người lãnh đạo nhà nước, lãnh đạo toàn thể dân tộc thực hiện thắng lợi các mục tiêu đề ra. Vì vậy, yêu cầu cơ bản đối với Đảng trong tình hình mới là Đảng cần thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của mình: Đổi mới để làm tròn sứ mệnh lịch sử, để phù hợp với điều kiện khách quan, vì mục tiêu nâng cao hơn nữa vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng. Đổi mới trong phương thức lãnh đạo của Đảng từ khi Đang trở thành đảng cầm quyền phải nhằm hoàn thành những mục tiêu chính trị - kinh tế - xã hội trước mắt và lâu dài; cụ thể và toàn diện. Để tiện trong quá trình theo dõi chúng ta có thể phân chia thành một số giai đoạn cụ thể sau đây:
+ Giai đoan từ 1945 – 1954.
+ Giai đoạn từ 1954 – 1975.
+ Giai đoạn từ 1975 – 1986.
+ Giai đoạn từ 1986 – nay.
2.1. Giai đoạn từ 1945 -1954.
Cách mạng tháng Tám 1945 giành thắng lợi, Đảng trở thành lực lượng chính trị nắm giữ chính quyền, lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ tổ quốc.Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói về vai trò của Đảng Cộng Sản Việt Nam trong tình hình mới như sau: “Lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền, Đảng trở thành Đảng cầm quyền, Đảng nắm quyền lãnh đạo đất nước về mọi mặt. Trong điều kiện có chính quyền, bản chất chính trị của Đảng không thay đổi, nhưng nội dung, phương thức hoạt động, phương thức lãnh đạo của Đảng có sự thay đổi cho thích hợp với yêu cầu và nhiệm vụ thời kỳ mới”. Người nhấn mạnh: “Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Đây là sự khác biệt của Đảng ta so với các đảng của giai cấp tư sản.
Nhiệm vụ của Đảng cầm quyền là tổ chức quản lí đất nước, bảo vệ lợi ích cho nhân dân, cụ thể: “Tất cả mọi việc liên quan đến nhân dân, dù là tương cà mắm muối, cái kim sợi chỉ hàng ngày của dân, Đảng đều phải có trách nhiệm”...
Sau thắng lợi của cách mạng, đát nước đứng trước những khó khăn và thử thách to lớn: Đó là “giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”, chính quyền cách mạng thì còn non trẻ.Trên cương vị lãnh đạo đất nước, lãnh đạo nhân dân, đòi hỏi cấp thiết đối với Đảng là phải đề ra được phương thức lãnh đạo phù hợp sớm đưa đất nước vượt qua những khó khăn của lịch sử. Nhận thức rõ vấn đề này Đảng đã đề ra nhiều biện pháp tích cực như: Tăng gia sản xuất, quỹ độc lập, thành lập nha bình dân học vụ, tăng cường củng cố quốc phòng… nhờ vậy chỉ trong một thời giann ngắn những khó khăn trước mắt về cơ bản đã được khắc phục.
Nhằm tăng cường hơn nữa sức mạnh của chính quyền cách mạng, xây dựng một chính quyền thực sự” của dân, do dân và vì dân” Đảng đề ra nhiệm vụ cần kíp của chính quyền cách mạng lúc nay là phải tiến hành tổng tuyển cử nhằm xây dựng một chính quyền hợp pháp có đủ năng lực lãnh đạo đất nước. Trên tinh thần đó, ngày 6-1-1946, cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội đã được tiến hành. Tiếp sau đó các địa phương cũng tiến hành bầu cử hội đồng nhân dân các cấp. Đây là những sự kiện chính trị có ý nghĩa rất lớn đối với cách mạng Việt Nam.
Trong điều kiện đất nước đang gặp những khó khăn to lớn về kinh tế-xã hội, lại nằm trong vòng vây của các thế lực xâm lược bên ngoài, vấn đề tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng trong quần chúng nhân dân cũng có một ý nghĩa rất quan trọng. Trước yêu cầu mới của cách mạng, tháng 5-1946 Đảng đứng lên thành lập Hội liên hiệp quốc dân Việt Nam(mặt trận Liên Việt).Cùng với mặt trận Việt Minh, mặt trận Liên Việt góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi các mục tiêu do cách mạng đặt ra.
Giữa lúc toàn Đảng, toàn dân đang chung tay góp sức xây dựng nền kinh tế-xã hội mới thì thực dân Pháp chính thức quay trở lại xâm lược nước ta. Trước những hành động xâm lược ngang nhiên của kẻ thù, Đảng đã kịp thời phát động toàn quóc kháng chiến và lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc kháng chiến để bảo vệ đất nước, bảo vệ những thành quả của cách mạng đã đạt được.
Từ ngày 11 đến 19 tháng 2 năm 1951, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai của Đảng họp tại Chiêm Hóa-Tuyên Quang. Đại hội đã thông qua “ báo cáo chính trị” do đồng chí Hồ Chí Minh trình bày và báo cáo “bàn về cách mạng Việt Nam” do đồng chí Trường Chinh trình bày. Hai bản báo cáo tiếp tục khẳng định ý nghĩa to lớn của cuộc kháng chiến chống Pháp và đề ra đường lối, phương hướng cụ thể nhằm đưa cuộc kháng chiến tới thắng lợi hoàn toàn. Đại hội cũng quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên mới là Đảng Lao Động Việt Nam. Quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai thể hiện sự nhạy bén về chính trị của Đảng, đồng thời góp phần củng cố và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước và với cuộc kháng chiến.
Để đáp ứng yêu cầu mới trong công tác xây dựng Đảng, đòi hỏi phải hoàn thiện bộ máy lãnh đạo của Đảng từ Trung ương xuống địa phương. Xuất phát từ yêu câu đó, tháng 3-1951 Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết trung ương lần thứ nhất quy định về lề lối làm viêc và bộ máy của Trung ương, đề bạt các chức vụ quan trọng trong bộ máy lãnh đạo của Trung ương Đảng. Việc tăng cường đổi mới trong công tác cán bộ góp phần quan trọng trong việc chỉ đạo kịp thời, sát sao, khoa học của Đảng đối với cách mạng.
Nhằm thực hiện triệt để nhiệm vụ của cuộc “ cách mạng thổ địa” được đề ra ngay trong cương lĩnh 1930 của Đảng, Đảng đã tiến hành hội nghị toàn quốc lần thứ nhất của Đảng LĐVN(từ 14 đến 23-11-1953): “Bàn về nhiệm vụ cải cách ruộng đất”. Theo tinh thần hội nghị, tại những vùng tự do, vùng giải phóng ở Miền Bắc chình quyền đã tiến hành cải cách ruộng đất. Công cuộc cải cách ruộng đất đã mang lại bộ mặt mới cho nông thôn Miền Bắc, góp phần quan trọng trong việc cung cấp sức người, sức của và là chỗ dựa tinh thần cho cuộc kháng chiến.
Sự chỉ đạo sát sao kịp thời của Đảng đã góp phần làm nên thắng lợi lịch sử Điện Biên Phủ, bảo vệ những thành quả mà cách mạng tháng Tám 1945 đã giành được.
2.2. Giai đoạn 1954-1975.
Sau năm 1954, Miền Bắc nước ta được hoàn toàn giải phóng, Miền Nam còn nằm dưới ách thống trị tạm thời của đế quốc Mỹ và tay sai. Trong điều kiện mới yêu cầu Đảng phải tiếp tục giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo cùng một lúc hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: Tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam.
2.2.1. Đối với cách mạng Miền Bắc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội; vừa củng cố, xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội, ổn định đời sống nhân dân, vừa chi viện cho chiến trường Miền Nam và cả hai nước bạn Lào và Campuchia. Cho đến năm 1954, nền kinh tế Miền Bắc vẫn là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, năng suất thấp, làm ăn nhỏ lẻ, manh mún. Đảng đã chỉ đạo việc khôi phục nền kinh tế bằng các kế hoạch 5 năm 1954-1957 , mà trọng tâm là thực hiện mạnh mẽ công cuộc cải cách ruộng đất. Năm 1960 tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa, hợp tác hóa, xây dựng kế hoạch 5 năm 1961-1965. Đảng đã vận động nhân dân thưc hiện thắng lợi các mục tiêu nhiệm vụ mà Đảng đề ra nhằm nhanh chóng khôi phục kinh tế hàn gắn vết thương chiến tranh. Các phong trào thi đua yêu nước do Đảng phát động đã cuốn hút các tầng lớp nhân dân tham gia: “Thanh niên ba sẵn sàng”, “phụ nữ ba đảm đang”, “công nhân tay búa, tay súng”, “nông dân tay cày, tay súng”. Nhờ đó kinh tế Miền Bắc nhanh chóng phục hồi đảm bảo là hậu phương vững chắc cho cách mạng Miền Nam.
Năm 1964, đế quốc Mỹ ném bom bắn phá Miền Bắc. Miền Bắc vừa sản xuất, vừa chiến đấu, vừa chi viện cho tiền tuyến Miền Nam. Mặc dầu công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc bị đứt quãng, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng cách mạng XHCN ở Miền Bắc vẫn thu được những thành tựu quan trọng, cụ thể là:
+ Miền Bắc đã xác lập một cách phổ biến chế độ sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể, xóa bỏ chế độ người bóc lột người.
+ Thủ tiêu các giai cấp bóc lột. Giai cấp công nhân lớn lên về số lượng và chất lượng. Giai cấp công nhân đã được tổ chức lại thành một tập thể. Tầng lớp tri thức XHCN đã phát triển mạnh mẽ, xã hội Miền Bắc trở thành xã hội của những người lao động làm chủ.
+ Miền Bắc bước đầu đã xây dựng được một số cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội.
2.2.2 Đối với cách mạng Miền Nam.
Sau khi Pháp rút, đế quốc Mỹ đã tìm mọi cách dựng nên chính quyền tay sai ở Miền Nam, từng bước thực hiện âm mưu biến Miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới của chúng. Tại hội nghị lần thứ 15 (1959), Ban chấp hành Trung ương Đảng đã ra quyết định về đường lối cơ bản cho cách mạng Miền Nam:
+ “ Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở Miền Nam là khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền về tay nhân dân”.
+ Thành lập mặt trận dân chủ thật rộng rãi ở Miền Nam phù hợp với chiến lược của cách mạng Miền Nam nằm dưới sự lãnh đạo của Đảng.
+ Củng cố và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng ở Miền Nam, đặc biệt là ở địa phương.
Nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, đảm bảo sự sát sao, kịp thời, chính xác trong việc lãnh đạo cách mạng Miền Nam,Trung ương Đảng đã quyết định thành lập Trung ương cục Miền Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Ban chấp hành Trung ương Đảng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Miền Nam đẵ từng bước đánh bại mọi kế hoạch leo thang chiến tranh của đế quốc Mỹ, buộc đế quốc Mỹ phải tuyên bố rút quân khỏi Miền Nam Việt Nam (1972) và giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước(1975).
2.3. Giai đoạn 1975-1986.
Sau thắng lợi mùa xuân 1975, đất nước thống nhất, cả nước bước vào giai đoạn xây dựng CNXH, Đảng ta đã đặt ra yêu cầu đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo. Đại hội IV, Đại hội V của Đảng nêu rõ yêu cầu phải xác định chức năng, nhiệm vụ và giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các đoàn thể; chỉ ra tình trạng lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ giữa cơ quan đảng và cơ quan nhà nước; tổ chức đảng bao biện, làm thay công việc chính quyền, xem nhẹ vai trò, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước và tổ chức kinh tế; xác định cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Trong hai nhiệm kì khóa IV và V, chủ trương cụ thể của Đảng đó là:
+ Nhanh chóng thống nhất đất nước về mặt nhà nước, thiết lập hệ thống chuyên chính vô sản trong cả nước và thực hiện nhiều chính sách nhằm thúc đẩy quá trình thống nhất về mọi mặt chính trị-kinh tế-xã hội.
+Đập tan âm mưu lật đổ chống phá chính quyền và chế độ XHCN của các thế lực thù địch trong và ngoài nước.
+Tăng cường quyền làm chủ của nhân dân lao động. Phát triển và cải tạo kinh tế, văn hóa, khoa học kĩ thuật.
+ Tăng cường đoàn kết quốc tế, đặc biệt đối với các nước trong khối XHCN.
2.4. Giai đoạn 1986 đến nay.
Sau mười năm tiến hành khôi phục nền kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng những điều kiện ban đầu cho CNXH, mặc dù chúng ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể song cũng còn tồn tại nhiều khó khăn, thiếu sót cần giải quyết. Vấn đề này đòi hỏi Đảng phải tiếp tục đổi mới tư duy và phương thức lãnh đạo cho phù hợp.
Đại hội VI của Đảng (12-1986) đánh dấu việc thực hiện đường lối đổi mới về kinh tế-xã hội, xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đại hội cũng nhấn mạnh đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH do Đại hội VII của Đảng thông qua; Nghị quyết Hội ng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- i_8776.doc