Tiểu luận Nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự, thực trạng và kiến nghị

MỤC LỤC

MỤC LỤC 1

NỘI DUNG 2

I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 2

1. Khái niệm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. 2

2. Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. 2

II. NỘI DUNG NGUYÊN TẮC QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ 3

1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự 3

2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu và thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự. 5

3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và kháng cáo bản án, quyết định của toà án 6

4. Một số quyền khác thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự 7

5. Trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự 8

III. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 8

1 Thực tiễn thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự 8

2. Một số kiến nghị nhằm bảo đảm thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự 10

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 11

 

 

doc11 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2573 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nội dung nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự, thực trạng và kiến nghị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
N SỰ. 1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự Theo quy định tại Điều 5 BLTTDS năm 2004 ĐS có quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự. Theo Điều 60 BLTTDS bị đơn có quyền định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố. Và theo Điều 61 BLTTDS người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu đối với nguyên đơn, bị đơn. 1.1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự Thứ nhất, về QTĐĐCĐS trong việc khởi kiện vụ án DS. Tại Điều 161 BLTTDS quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án dân sự (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Và theo Điều 162 BLTTDS quy định cụ thể về quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước. Với các quy định đó, Nhà nước chính thức ghi nhận quyền khởi kiện vụ án DS của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu TA bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và của các chủ thể khác như cơ quan dân số, gia đình và trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ, công đoàn… trong việc khởi kiện yêu cầu TA bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng quan trọng của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng, khi họ cho rằng quyền lợi của họ bị xâm phạm. Việc ghi nhận quyền khởi kiện vụ án dân sự, trước hết cho phép cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm hại hoặc có tranh chấp yêu cầu TA bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thực hiện quyền khởi kiện chính là một trong những biểu hiện của nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS. Theo đó, ĐS được quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện vụ án dân sự, nộp đơn yêu cầu TA bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác. Thứ hai, về quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu giải quyết việc dân sự. Trong các việc dân sự, không có tranh chấp trực tiếp giữa các bên. Thông thường trong các việc DS một bên công nhận hay bác bỏ một quyền lợi hay thực hiện một trách nhiệm DS nào đó nên không xuất hiện khái niệm bị đơn và nguyên đơn DS mà được thay thế bằng thuật ngữ người yêu cầu và người bị yêu cầu. Người yêu cầu trong việc DS là người tham gia tố tụng đưa ra yêu cầu về giải quyết việc dân sự. Việc tham gia tố tụng của người yêu cầu việc DS cũng chủ động như nguyên đơn trong vụ án DS. Người yêu cầu trong vụ việc DS có lợi ích pháp lý độc lập nên được đưa ra yêu cầu cho TA giải quyết như nguyên đơn trong VADS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu TA công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của họ hoặc công nhận quyền, nghĩa vụ của họ. Quyền yêu cầu giải quyết việc DS là một trong những quyền cơ bản của ĐS trong TTDS. Việc BLTTDS ghi nhận quyền này của ĐS đã góp phần thể hiện việc thực thi nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS thực tế. Từ các phân tích trên cho thấy quyền khởi kiện vụ án DS và quyền yêu cầu giải quyết việc DS là quyền tố tụng quan trọng của các chủ thể, là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật TTDS, không có hành vi khởi kiện, hành vi yêu cầu giải quyết vụ việc DS thì cũng không có quá trình TTDS cho các giai đoạn tiếp theo. Quy định này xuất phát từ trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với việc bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp trong xã hội, thể hiện sự quan tâm của xã hội đối với cá nhân con người. Tuy nhiên, để việc thực hiện trách nhiệm của xã hội không làm xâm phạm đến những vấn đề riêng tư mang tính chất cá nhân, chỉ một số những vụ án nhất định thì pháp luật mới quy định những người không phải là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm hoặc người đại diện hợp pháp của các chủ thể này mới có quyền khởi kiện. Đây là phương thức đặc trưng trong việc thực hiện quyền tự định đoạt trong TTDS được thể hiện bằng việc ĐS có thể hành động ngay tức khắc để tự bảo vệ các quyền DS của mình tránh nguy cơ xâm phạm xảy ra như khởi kiện đòi lại tài sản hoặc khởi kiện yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật… 1.2. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn. Về quyền yêu cầu phản tố, nếu như nguyên đơn có quyền quyết định việc khởi kiện và nội dung khởi kiện thì bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. Trong TTDS, phản tố được hiểu là việc bị đơn khởi kiện ngược lại nguyên đơn về một quan hệ pháp luật khác với quan hệ pháp luật nguyên đơn đã khởi kiện bị đơn, nhưng có liên quan đến quan hệ pháp luật mà nguyên đơn đã khởi kiện. BLTTDS năm 2004 đã dành một số điều luật quy định cụ thể về quyền phản tố của bị đơn trong TTDS, cụ thể tại điểm c khoản 1 Điều 60 BLTTDS quy định bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn. Ngoài ra BLTTDS cũng quy định cho bị đơn có quyền bác bỏ yêu cầu theo luật nội dung và bác bỏ yêu cầu về mặt tố tụng. Sự bác bỏ yêu cầu theo luật nội dung là sự giải thích và lập luận của bị đơn về tính không có căn cứ của yêu cầu khởi kiện về mặt pháp lý cũng như về mặt thực tế. Sự bác bỏ yêu cầu về mặt tố tụng là sự lý giải và chứng minh của bị đơn về tính không hợp pháp của việc giải quyết vụ án hoặc là về sự vi phạm thủ tục tố tụng trong việc thụ lý và giải quyết vụ án. Với việc quy định quyền phản tố, quyền bác bỏ của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn là thể hiện sự ghi nhận của pháp luật đối với QTĐĐCĐS. 1.3 Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trong TTDS, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng vào vụ án DS đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên cũng có quyền đưa ra yêu cầu của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác. Việc tham gia tố tụng của họ trong vụ án DS là do họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến VADS. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bao gồm hai loại là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quant ham gia tố tụng độc lập và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn. Theo quy định tại Điều 177 BLTTDS thì trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đây: Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ liên của họ; yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết và yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Như vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập với nguyên đơn, bị đơn hay nói cách khác người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người tham gia vào vụ kiện đã phát sinh giữa những người kahcs để bảo vệ quyền, lợi ích độc lập của mình đối với đối tượng tranh chấp mà TA đang xem xét và giải quyết. Trong vụ án DS lợi ích pháp lý của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập luôn độc lập với lợi ích pháp lý của nguyên đơn, bị đơn nên yêu cầu của họ có thể chống cả nguyên đơn, bị đơn. Có thể thấy rằng việc quyết định có tham gia vào vụ kiện đã phát sinh giữa nguyên đơn, bị đơn hay không phải tuỳ thuộc vào sự lựa chọn và tự định đoạt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập. Còn người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng phụ thuộc vào nguyên đơn hoặc bị đơn, lợi ích pháp lý của họ bị phụ thuộc vào nguyên đơn, bị đơn nên việc tham gia tố tụng của họ bị phụ thuộc vào nguyên đơn và họ không có các quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn, bị đơn được. Tuy vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập cũng có quyền cùng nguyên đơn hoặc bị đơn thoả thuận với bên đương sự kia được, không có quyền thừa nhận một phần hay chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bên đương sự kia. Đối với người có liên quan trong việc dân sự là người tham gia tố tụng vào việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc trả lời về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Việc tham gia tố tụng của họ cũng giống như việc tham gia tố tụng của người có liên quan trong vụ án dân sự có thể do họ chủ động hoặc theo yêu cầu của đương sự khác hoặc theo yêu cầu của TA. 2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu và thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự. 2.1 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu Bằng phương thức khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, người yêu cầu đã thực hiện việc yêu cầu TA có thẩm quyền giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Khi ĐS thực hiện hành vi khởi kiện, yêu cầu thì họ hoàn toàn có quyền quyết định các hành vi tố tụng tiếp theo của mình. ĐS có quyền chấm dứt, thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu của mình. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà việc thay đổi, bổ sung yêu cầu có thể được TA chấp nhận hay không chấp nhận. Trước khi mở phiên toà thì quyền này là quyền tuyệt đối của ĐS, theo đó ĐS có thể thay đổi, bổ sung yêu cầu tuỳ ý. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 218 BLTTDS thì tại phiên toà việc thay đổi yêu cầu chỉ được chấp nhận nếu không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu. Trước khi mở phiên toà xét xử sơ thẩm, BLTTDS không có quy định giới hạn phạm vi thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Như vậy, nguyên đơn có thể thay đổi, bổ sung đối tượng khởi kiện, thay đổi, bổ sung những yêu cầu mới đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Theo quy định tại Mục 6 Phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại toà án cấp sơ thẩm” của BLTTDS thì tại phiên toà xét xử sơ thẩm, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bị giới hạn là không được vượt quá so với phạm vi yêu cầu ban đầu. Đối với việc rút đơn khởi kiện, rút đơn yêu cầu trong mọi giai đoạn tố tụng đều có thể được TA chấp nhận. Theo nguyên tắc chung việc rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu là hành vi định đoạt của nguyên đơn, người yêu cầu được biểu hiện ở hai khía cạnh đó là sự từ bỏ yêu cầu (dựa trên luật nội dung) và là sự từ bỏ phương tiện bảo vệ yêu cầu bằng con đường tố tụng (thông qua TA). Nguyên đơn có thể rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện (điểm b khoản 1 Điều 59 BLTTDS). Người yêu cầu trong việc dân sự cũng có thể rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình. Theo quy định tại khoản 1 Điều 193, khoản 2 Điều 269 của BLTTDS thì việc TA ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện không làm mất quyền của nguyên đơn được khởi kiện yêu cầu TA giải quyết lại vụ án DS đó nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của ĐS là những quyền tố tụng rất quan trọng của ĐS. Tuy nhiên việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu phải dựa vào ý chí tự nguyện của ĐS và TA sẽ không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu do ĐS bị ép buộc. 2.2 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thoả thuận giải quyết vụ việc dân sự Trong quá trình TA giải quyết vụ việc dân sự các bên vẫn có quyền thương lượng, hoà giải với nhau việc giải quyết vụ việc. Xuất phát từ bản chất của quan hệ dân sự được giải quyết trong vụ việc, theo đó các bên bình đẳng với nhau, được tự do cam kết, xác lập thoả thuận các quyền, nghĩa vụ dân sự không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Điểm a Khoản 2 Điều 180 BLTTDS quy định việc hoà giải được tiến hành theo nguyên tắc sau: “Tôn trọng sự tự nguyện thoả thuận của các ĐS, không được dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực, bắt buộc các ĐS phải thoả thuận không phù hợp với ý chí của mình”. Mọi sự tác động từ bên ngoài trái với ý muốn của ĐS đều bị coi là trái pháp luật và không được công nhận. Cơ sở hoà giải là QTĐĐCĐS. Điều 10 BLTTDS quy định: “Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Nguyên tắc QTĐĐCĐS trong việc hoà giải thể hiện ở quyền tự thoả thuận của ĐS. Theo đó các ĐS có quyền tự thoả thuận, dàn xếp, thương lượng với nhau về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án mà không thông qua TA, trong trường hợp này TA không phải là người chủ động đưa vụ án ra hoà giải mà các ĐS tự thoả thuận với nhau. Với ý nghĩa là một nội dung cơ bản của QTĐĐCĐS, quyền thoả thuận giải quyết vụ việc DS của ĐS là một quyền tố tụng rất quan trọng của ĐS được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm trừ những trường hợp BLTTDS quy định không được tiến hành hoà giải. 3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và kháng cáo bản án, quyết định của toà án 3.1 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình Xét trên phương diện tố tụng, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì quyền cử người đại diện, quyền nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình cũng thuộc nội dung QTĐĐCĐS. Khoản 3 Điều 73 BLTTDS quy định: “Người …tố tụng”. Việc cử người đại diện theo uỷ quyền hoàn toàn dựa trên sự tự định đoạt của ĐS. Theo điều 63 BLTTDS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ĐS có quyền nhờ Luật sư hoặc người khác được TA chấp nhận tham gia tố tụng. Người tham gia tố tụng này được gọi là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ĐS. Quyền nhờ người khác bảo vệ lợi ích hợp pháp cho mình là biểu hiện của nguyên tắc QTĐĐCĐS được pháp luật tôn trọng. Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ĐS khi tham gia tố tụng phải bảo đảm được các điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 63 BLTTDS. Việc tham gia tố tụng vào vụ việc dân sự của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ĐS có ý nghĩa lớn trong việc thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc QTĐĐCĐS trong quá trình tố tụng. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ĐS tham gia tố tụng theo yêu cầu của ĐS nên việc thay đổi, chấm dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ĐS của họ do hai bên quyết định. Đây cũng là một quy định thể hiện rất rõ việc thực thi nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS. 3.2 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo bản án, quyết định của toà án Quyền kháng cáo là một quyền tố tụng cơ bản của ĐS được quy định tại Điểm o khoản 2 Điều 58 BLTTDS. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì ĐS được tự quyết định việc thực hiện quyền này nên theo nghĩa rộng quyền kháng cáo cũng thuộc nội dung QTĐĐCĐS. Ngoài việc quy định ĐS có quyền kháng cáo thì pháp luật cũng quy định ĐS có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo. Theo quy định tại khoản 1 Điều 256 BLTTDS thì ĐS có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo đã hết và TA cấp phúc thẩm sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần rút kháng cáo. Có thể thấy rằng, quyền kháng cáo là một phương tiện pháp lý để ĐS bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Thông qua việc kháng cáo hay không kháng cáo ĐS thể hiện ý chí của mình đối với bản án, quyết định của TA một cách công khai, độc lập. Trong kháng cáo bản án, quyết định của TA ĐS được quyền tự định đoạt nội dung kháng cáo. Như vậy, kháng cáo cũng là một trong những nội dung của QTĐĐCĐS khi tham gia vào quá trình tố tụng. 4. Một số quyền khác thể hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự 4.1 Quyền yêu cầu Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời Về nguyên tắc TA chỉ được áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT) khi có đơn yêu cầu của ĐS và người đại diện của ĐS, cơ quan, tổ chức khởi kiện. Quy định này thể hiện việc tôn trọng nguyên tắc QTĐĐCĐS. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ĐS, TA cũng có quyền tự mình áp dụng một số BPKCTT theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4, 5 Điều 102 BLTTDS 2004. ĐS có thể yêu cầu TA áp dụng BPKCTT ngay trong quá trình TA giải quyết vụ việc dân sự, đồng thời trong trường hợp cấp bách thì ĐS có thể yêu cầu TA áp dụng BPKCTT ngay tại thời điểm nộp đơn khởi kiện đến TA (khoản 2 Điều 99 BLTTDS 2004) 4.2 Quyền tham gia phiên toà, tham gia phiên họp của đương sự Việc tham gia phiên toà, tham gia phiên họp giải quyết các vụ việc dân sự có ý nghĩa rất quan trọng để các ĐS có thể thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình tại phiên toà, phiên họp. Vì vậy, theo quy định tại các Điều 199, 200, 201, 202, 221, 222, 232, 264, 271, 272, 292, 295, 313, 314 BLTTDS 2004, ĐS có quyền tham gia các phiên toà, phiên họp sơ thẩm, phúc thẩm vụ việc dân sự, một số trường hợp tham gia phiên toà giám đốc thẩm, tái thẩm (nếu TA xét thấy cần thiết cho việc xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm). Quyền tham gia phiên toà, tham gia phiên họp giải quyết vụ việc dân sự nhằm bảo đảm cho ĐS có cơ hội và điều kiện thuận lợi để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Quy định này thể hiện rõ và tạo điều kiện cho ĐS thực hiện quyền tự định đoạt của mình. 4.3 Quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi tố tụng trái pháp luật Pháp luật TTDS hiện hành quy định ĐS có quyền khiếu nại đối với các quyết định, hành vi tố tụng trái pháp luật. Theo đó, ĐS có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp thực hiện việc khiếu nại các quyết định, hành vi tố tụng khi có căn cứ cho rằng quyết định, hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Trên cơ sở khiếu nại của ĐS, các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết chính xác, kịp thời các khiếu nại của ĐS, xử lý nghiêm minh người vi phạm, thực hiện các biện pháp cần thiết nhằm ngăn chặn thiệt hại có thể xảy ra và chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định giải quyết khiếu nại của mình. Như vậy, các quy định từ Điều 291 đến Điều 397, Điều 402, Điều 403 BLTTDS năm 2004 là cơ sở pháp lý để ĐS có thể thực hiện được quyền khiếu nại trong tố tụng nhằm giúp ĐS có thể bảo vệ được tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời hạn chế, khắc phục những vi phạm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong TTDS. Tuy nhiên, BLTTDS 2004 lại không quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, thời hạn giải quyết và trả lời khiếu nại của ĐS đối với các bản án, quyết định của TA đã có hiệu lực pháp luật đã dẫn đến trong thực tiễn việc giải quyết khiếu nại không kịp thời hoặc không được giải quyết, không có trả lời đã dẫn đến khiếu nại tràn lan, vượt cấp. Vì vậy, cần quy định trong BLTTDS một trình tự, thủ tục để giải quyết khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm là rất cần thiết để bảo đảm quyền cho đương sự. 5. Trách nhiệm của Toà án trong việc bảo đảm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Bên cạnh quy định quyền tự định đoạt của đương sự trong việc tham gia tố tụng, quyết định quyền và lợi ích của mình trong TTDS thì BLTTDS cũng quy định rõ về trách nhiệm của TA trong việc bảo đảm cho đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của đương sự trong TTDS. Điều 5 BLTTDS quy định “Toà án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, yêu cầu đó”. Quyền khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự là một quyền tố tụng quan trọng, đương sự là người tự định đoạt về việc khởi kiện, yêu cầu của mình. Toà án chỉ được quyền thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và giải quyết vụ việc dân sự dựa trên khởi kiện, yêu cầu của đương sự. Nếu như không có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự thì TA không được phép thụ lý, giải quyết bất kỳ vụ việc nào. Quy định trên đã chứng tỏ pháp luật tố tụng luôn tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, việc thụ lý giải quyết vụ việc dân sự hoàn toàn dựa trên sự định đoạt của đương sự. TA chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, yêu cầu đó. Đây là quy định xác định cụ thể về trách nhiệm của TA trong việc đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự. TA chỉ giải quyết vụ việc trong phạm vi yêu cầu của đương sự, không được giải quyết thiếu hay vượt quá phạm vi yêu cầu của đương sự. Trách nhiệm của TA là đảm bảo việc giải quyết đúng và đầy đủ yêu cầu của đương sự. III. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM BẢO ĐẢM THỰC HIỆN QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ. 1 Thực tiễn thực hiện nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Việc thực hiện các quy định của pháp luật TTDS về nguyên tắc QTĐĐCĐS trong thời gian qua vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định cả trong hoạt động TTDS của các ĐS và TA. Về phía ĐS do không hiểu biết đầy đủ các quy định của pháp luật nên không thực hiện đúng được các quyền, nghĩa vụ TTDS của mình. Trên thực tế, đã có không ít trường hợp ĐS khởi kiện yêu cầu TA giải quyết vụ việc dân sự khi đã hết thời hiệu khởi kiện nên đã bị trả lại đơn khởi kiện. Chẳng hạn, vụ án tranh chấp thừa kế tài sản giữa nguyên đơn là bà Đoàn Thị Bé Mười, trú tại số 209 Đào Duy Từ, Phường 6, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh với ông Đoàn Ngọc Sanh, trú tại 23 Nguyễn Trung Trực, Phường 2, thị xã Tân An, tỉnh Long An. Theo nội dung vụ án này thể hiện cha mẹ của bà Mười là cụ Đoàn Văn Vinh (chết năm 1963) và cụ Huỳnh Thị Phường (chết năm 1984) đều không để lại di chúc, tài sản của hai cụ là căn nhà số 23 Nguyễn Trung Trực, phường 2 thị xã Tân An, tỉnh Long An trên diện tích 208m2 đất. Tuy ngày 24/10/1990 các người thừa kế của hai cụ lập giấy cam kết khước từ nhận tài sản thừa kế với nội dung đồng ý để cho ông Đoàn Ngọc Sanh được quyền sở hữu căn nhà với điều kiện nhà dùng để làm nhà thờ, không được bán có. Văn bản này có công chứng chứng thực (phần điều kiện này ghi bằng chữ viết tay và có đóng dấu của Phòng Công chứng), nhưng ông Sang không thực hiện đúng cam kết, đã làm thủ tục sang tên cho hai người con gái của ông Sanh nên ngày 6/6/2007 bà Mười có đơn khởi kiện yêu cầu chia thừa kế. Do vụ kiện đã hết thời hiệu khởi kiện yêu cầu chi thừa kế nên ngày 13/6/2007 TAND thị xã Tân An đã có thông báo số 16/TB-TA thông báo trả lại đơn khởi kiện cho bà Mười. Ngoài ra, ĐS còn thực hiện quyền kháng cáo, đối với bản án, quyết định của TA trong nhiều trường hợp cũng không đúng, vượt quá thời hạn do pháp luật quy định nhưng ĐS vẫn kháng cáo. Mặt khác, hiện nay, đội ngũ Thẩm phán nói riêng và cán bộ TA nói chung còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn cũng như phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp làm cho việc thực hiện QTĐĐCĐS trong TTDS không được đảm bảo. Chẳng hạn như, khi viết bản án Thẩm phán đã không đảm bảo QTĐĐCĐS trong TTDS, nhiều trường hợp quyết định của bản án vượt khỏi phạm vi yêu cầu của đương sự. Ví dụ, trong vụ án tranh chấp lao động cá nhân về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, người lao động bị người sử dụng lao động đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, họ chỉ yêu cầu Tòa án buộc người sử dụng lao động nhận họ trở lại làm việc, bồi thường những ngày không được làm việc, không yêu cầu người sử dụng lao động bồi thường tiền lương những ngày không báo trước, tiền vi phạm do việc chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Những yêu cầu này đã được xác định cụ thể trong đơn khởi kiện và các bản tự khai của đương sự nhưng nhiều quyết định của bản án vẫn buộc người sử dụng lao động bồi thường tiền lương những ngày không báo trước theo khoản 3 Điều 38 BLLĐ, tiền phạt vi phạm do việc chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật. Cá biệt có trường hợp khi đọc bản án thấy đương sự chỉ yêu cầu đòi nhà ở do cho mượn nhưng bản án lại tuyên phải trả luôn cả nhà ở và phần diện tích phụ tách rời nhà ở không nằm trong đối tượng mà đương sự yêu cầu. Việc vi phạm Điều 5 BLTTDS còn thể hiện ở một số bản án có những quyết định mà đương sự không yêu cầu và quyết định đó không làm phát sinh một nghĩa vụ pháp lý nào đối với các đương sự. Ví dụ: A đem chiếc xe máy đến hiệu cầm đồ B đặt và vay một số tiền, hai bên thỏa thuận đến hẹn A không trả nợ, B có quyền bán xe may đó. Quá hạn A không trả tiền, B bán xe máy cho C. C đi đăng ký xe thì phát hiện chiếc xe đó không phải của A mà xe đó là tang vật của vụ án trộm cắp. B đồng ý để C giao chiếc xe máy đó cho công an. C kiện B đòi lại tiền. Bản án ngoài quyết định buộc B trả tiền cho C còn có quyết định: Số tiền B cho A vay khi A đặt xe máy được giải quyết bằng vụ án dân sự khác khi B có yêu cầu. Quyết định trên của bản án rõ ràng vượt quá yêu cầu của B, hơn nữa quyết định đó không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý nào đối với các đương sự, nên quyết định đó là thừa. Cách thể hiện các tình tiết của vụ án trong bản án chưa thể hiện được sự định đoạt của đương sự. Rất nhiều bản án là sao chụp nguyên si lời khai của đương sự, trong đó

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài tập học kỳ dân sự- Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự.doc
Tài liệu liên quan