MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT 3
1. Lực lượng sản xuất : 3
2. Quan hệ sản xuất : 5
3. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất : 7
PHẦN 2: NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT CỦA ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 12
1. Đổi mới cơ chế : 15
2. Xây dựng nề kinh tế nhiều thành phần : 17
3. Ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật : 18
KẾT LUẬN 20
20 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2152 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nhận thức và vận dụng của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ngày càng trí tuệ hoá, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chính yếu trong lực lượng lao động; hàm lượng chất xám trong sản phẩm ngày càng tăng. Quá trình tìm kiếm những cách thức, giải pháp nhằm sử dụng và phát triển nguồn nhân lực quan trọng này đang diễn ra ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Do đặc điểm kinh tế - xã hội khác nhau nên mỗi nước đều có giải pháp và bước đi khác nhau trong từng thời điểm lịch sự cụ thể.
Trong tư liệu sản xuất thì công cụ sản xuất đóng vai trò quyết định. Trình độ phát triển của công cụ lao động quyết định trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử. Trong quá trình lao động sản xuất, công cụ lao động không ngừng được đổi mới và phát triển. Đó là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất.
Trong thời đại ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp . Nó vừa là nghành sản xuất riêng, vừa thâm nhập vào yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất, đem lại sự thay đổi về chất của lực lượng sản xuất. Các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất tác động nhau một cách khác quan, làm cho lực lượng sản xuất trở thành yếu tố động nhất.
Lực lượng sản xuất không phải là phép cộng của các yếu tố mà là một hệ thống, trong đó chúng quan hệ chặt chẽ, thống nhất với nhau. Các yếu tố của lực lượng sản xuất tồn tại trong một kiểu tổ chức, phân công lao động nhất định. Khi nói đến lực lượng sản xuất không thể không nói đến tổ chức, phân công lao động xã hội .
2. Quan hệ sản xuất :
Gắn liền với lực lượng, đó là quan hệ sản xuất. Quan hệ sản xuất xã hội là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội: san xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng. Quan hệ sản xuất bao gồm quan hệ kinh tế - xã hội và quan hệ kinh tế tổ chức.
Quan hệ kinh tế - xã hội biểu hiện hình thức xã hội của sản xuất, nó biểu hiện mối quan hệ giữa người với người trên ba mặt chủ yếu:
Quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất và quan hệ phân phối sản phẩm, trong đó quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định.Trong lịch sử nhân loại đã có hai loại hình sơ hữu cơ bản là sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu mà tư liệu sản xuất tập trung vào tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên trong mỗi cộng đồng.
Quan hệ kinh tế tổ chức xuất hiện trong quá trình tổ chức sản xuất. Nó vừa biểu hiện quan hệ giữa người với người, vừa biểu hiện trạng thái tự nhiên kỹ thuật của nền sản xuất. Quan hệ kinh tế - tổ chức phản ánh trình độ phân công lao động xã hội, chuyên môn hoá và hiệp tác sản xuất. Nó do tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất quy định.
Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất trực tiếp tác động đến lợi ích con người. Quan hệ này do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ quản lý sản xuất chi phối, song nó cũng có tác động tích cực trở lại hai mặt đó.
Sự thống nhất và tác động qua lại giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội hợp thành phương thức sản xuất. Trong sự thong nhất bọên chứng này, sự phát triển của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định đối với quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất phải phụ thuộc với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất thường xuyên vận động, phát triển, nên quan hệ sản xuất cũng luôn luôn thay đổi nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất.
Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất làm hình thành quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Đây là quy luật kinh tế chung của mọi phương thức sản xuất xã hội.
Quy luật kinh tế đó chi phối lịch sử phát triển của các phương thức sản xuất xã hội, đồng thời cũng trực tiếp tác động tới sự vận động của mỗi phương thức sản xuất.
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội là lịch sử phát triển của những phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao: phương thức sản xuất cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
3. Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất :
Trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất thì lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất. Lực lượng sản xuất thường xuyên biến đổi, còn quan hệ sản xuất tương đối ổn định; lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất, quan hệ sản xuất phải phù hợp với lực lượng sản xuất và tác động tích cực trở lại lực lượng sản xuất.
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất: Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển, sự biến đổi bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi của lực lượng sản xuất.
Trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc và đạt hiệu quả hơn con người luôn luôn tìm cách cải tiến công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động tinh xảo hơn. Cùng với sự biến đổi và phát triển của công cụ lao động thì kinh nghiệm sản xuất, thói quen lao động kỹ năng sản xuất kiến thức khoa học của con người cũng tiến bộ. Lực lượng sản xuất trở thành yếu tố động nhất, cách mạng nhất. Còn quan hệ sản xuất là yếu tố ổn định, có khuynh hướng lạc hậu hơn sự phát triển của lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là nội dung là phương thức còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Trong mối quan hệ giữa nội dung và hình thức thì nội dung quyết định hình thức, hình thức phụ thuộc vào nội dung, nội dung thay đổi trước sau đó là hình thức thay đổi theo, tất nhiên trong quan hệ với nội dung và hình thức không phải là mặt thụ động, nó cũng tác động trở lại đối với sự phát triển của nội dung.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất cũng hình thành và biến đổi cho phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, sự phù hợp đó là động lực làm cho lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Nhưng lực lượng sản xuất thường phát triển nhanh còn quan hệ sản xuất có xu hướng ổn định khi lực lượng sản xuất đã phát triển lên một trình độ mới, quan hệ sản xuất không còn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất , mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
- Quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất: Sự hình thành, biến đổi phát triển của quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển, nó tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trinh độ phát triển của lực lượng sản xuất nó thúc đẩy sản xuất phát triển nhanh. Nếu nó không phù hợp nó kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, song tác dụng kìm hãm đó chỉ tạm thời theo tính tất yếu khách quan, cuối cùng nó sẽ bị thay thế bằng kiểu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ lực lượng sản xuất.
Sở dĩ quan hệ sản xuất có thể tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất ( thúc đẩy hoặc kìm hãm ), vì nó quy định mục đích của sản xuất. quy định hệ thống tổ chức quản lý sản xuất và quản lí xã hội, quy định phương thức phân phối và phần của cải ít hay nhiều mà người lao động mà người lao động được hưởng. Do đó nó ảnh hưởng đến thái độ quảng đại quần chúng lao động - lực lượng sản xuất chủ yếu của xã hội, nó tạo ra những điều kiện kích thích hoặc hạn chế việc cải tiến công cụ lao động áp dụng những thành tựu khoa học và kỹ thuậ vào sản xuất, hợp tác và phân phối vào lao động.
Tuy nhiên, không được hiểu một cách đơn giản tính tích cực của mối quan hệ sản xuất chỉ là vai trò của những hình thức sở hữu, mỗi kiểu quan hệ sản xuất là một hệ thống một chỉnh thể hữu cơ bao gồm ba mặt: quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Chỉ trong chỉnh thể đó, quan hệ sản xuất mới trở thành động lực thúc đẩy con người hành động nhằm phát triển sản xuất.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật chung nhất của sự phát triển xã hội. Sự tác động của quy luật này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa, xã hội chủ nghĩa.
Thời kì đầu trong lịch sử xã hội cộng sản nguyên thuỷ với lực lượng sản xuất thấp kém, quan hệ sản xuất cộng đồng nguyên thuỷ đời sống của họ chủ yếu thuộc vào săn bắn hái lượm.
Trong quá trình sinh sống họ đã không ngừng cải tiến và thay đổi công cụ ( lực lượng sản xuất ) đến sau thời kỳ lực lượng sản xuất phát triển quan hệ cộng đồng bị phá vỡ dần dần xuất hiện tư nhân nhường chỗ cho nó là một xã hội chiếm hữu nô lệ. Với quan hệ sản xuất chạy theo sản phẩm thặng dư, chủ nô muốn có nhiều sản phẩm dẫn đến bóc lột, đưa ra công cụ lao động tốt, tinh xảo vào sản xuất, những người lao động trong thời kì này bị đối xử hết sức man rợ. Họ là những món hàng trao đổi lại, họ lầm tưởng do những công cụ lao động dẫn đến cuộc sông khổ cực của mình nên họ đã phá hoại lực lượng sản xuất, những cuộc khởi nghĩa nô lệ diễn ra khắp nơi.
Chấm dứt chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội phong kiến ra đời, xã hội mới ra đời giai cấp thời kì này là địa chủ, thời kì đầu giai cấp địa chủ nới lỏng hơn chế độ trước, người nông dân có ruộng đất, tự do thân thể.
Cuối thời kì phong kiến xuất hiện công trường thủ công thủ công ra đời và dẫn tới lực lượng sản xuất mâu thuẫn với quan hệ sản xuất, cuộc cách mạng tư sản ra đời chế độ tư bản thời kì này chạy theo giá trị thăng dư và lợi nhuận họ đưa ra những kĩ thuật mới những công cụ sản xuất hiện đại áp dụng vào sản xuất thời kì này lực lượng sản xuất mang tính chất cực kì hoá cao và quan hệ sản xuất là quan hệ sản xuất tư nhân về tư liệu sản xuất nên dẫn tới cuộc đấu tranh gay gắt giữa tư bản và vô sản nổ ra xuất hiện một số nước chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội ra đời quan tâm đến xã hội hoá công hữu nhưng trên thực tế chủ nghĩa xã hội ra đời ở các nước chưa qua thời kì tư bản chỉ có Liên Xô là qua thời kì tư bản chủ nghĩa nhưng chỉ là chủ nghĩa tư bản trung bình.
Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất là quy luật vận dụng phát triển của xã hội sự tác động qua sự thay thế kế tiếp nhau từ thấp đến cao của phương thức sản xuất.
- Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất: Khi trình độ lực lượng sản xuất còn thủ công thì tính chất của nó là tính chất cá nhân. Nó thể hiện ở chỗ chỉ một người có thể sử dụng được nhiều công cụ khác nhau trong quá trình sản xuất để tạo ra sản phẩm. Như vậy, tất yếu dẫn đến quan hệ sản xuất sở hữu tư nhân ( nhiều hình thức ) về tư liệu sản xuất.
Khi sản xuất bằng máy ra đời, trình độ lực lượng sản xuất công nghiệp một người không thể sử được nhiều mà chỉ một công cụ, hoặc một bộ phận, chức năng. Như vậy, quá trình sản xuất phải nhiều người tham gia, sản phẩm lao động là thành quả của nhiều người, ở đây lực lượng sản xuất đã mang tính xã hội hoá. Và tất yếu một quan hệ sản xuất thích hợp phải là quan hệ sản xuất sở hữu về tư liệu sản xuất. Ănghen viết: “ Giai cấp tư sản không thể biến tư liệu sản xuất có tính chất hạn chế ấy thành lực lượng sản xuất mạnh mẽ được nếu không biến nhưngc tư liệu sản xuất của cá nhân thành những tư liệu sản xuất có tính chất xã hội mà chỉ một số người cùng làm mới có thể sử dụng được.
Quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất biểu hiện ở chỗ:
Xu hướng của sản xuất vật chất là không ngừng không biến đổi phát triển. Sự biến đổi đó bao giờ cũng bắt đầu bằng sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất mà trước hết là công cụ sản xuất. Công cụ sản xuất phát triển đến khi mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản xuất có và xuất hiện đòi hỏi khách quan phải xóa bỏ quan hệ sản xuất cũ thay bằng quan hệ sản xuất mới. Như vậy, quan hệ sản xuất vốn là hình thức phát triển của lực lượng sản xuất (ổn định tương đối ), quan hệ sản xuất trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất ( không phù hợp ). Phù hợp và không phù hợp là biểu hiện của mâu thuẫn biện chứng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tức là phù hợp trong mâu thuẫn và bao hàm mâu thuẫn.
Khi phù hợp cũng như lúc không phù hợp với lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất luôn có tính độc lập tương đối với lực lượng sản xuất, thể hiện trong sử dụng sự tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất, quy định mục đích xã hội của sản xuất, xu hướng phát triển của quan hệ lợi ích, từ đó hình thành những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc sự kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Sự tác động trở lại nói trên của quan hệ sản xuất bao giờ cũng thong qua các quy luật kinh tế cơ bản phù hợp và không phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất khách quan phổ biến của mọi phương thức sản xuất. Sẽ không đúng nếu quan niệm trong chủ nghĩa tư bản luôn diễn ra “không phù hợp”, còn dưới chủ nghĩa xã hội “phù hợp“ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất.
PHẦN 2NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT CỦA ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Trong thực tế đẩy mạnh việc phát triển sản xuất nhất thiết phải gắn liền với nhận thức và vận dụng quy luật quna hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển, của lực lượng sản xuất. Đó là quy luật phổ biến hằn sâu vào tri thức của các nhà lãnh đạo. Tuy vậy không phải lúc nào người ta cũng nhận thức và vận dụng đúng quy luật đó. Theo phương châm: chỉ có sự tinh tế nếu mình nhìn nhận được những việc đúng sai của mình. Sau đó ta hãy đi vào nghiên cứu quá trình vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất ở Việt Nam, phát hiện ra xem có những hành động đúng đắn hay sai lầm nào.
Ở thời kì đầu khi mà Miền Bắc nước ta bắt đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng đã nhìn nhận trong thực tiễn sản xuất ở nước ta lực lượng sản xuất còn bị quan hệ sản xuất kìm hãm làm cho lực lượng sản xuất kém phát triển. Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy Đảng ta đã tiến hành cuộc cải cách ruộng đất nhằm thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng”. Mặc dầu trong phương pháp thực hiện có nhiều sai lầm song về cơ bản đã xoá bỏ được chế độ sở hữu ruộng đất phong kiến, thực hiện sở hữu ruộng đất cho nhân dân, cởi trói sức sản xuất ở nông thôn, người nông dân đã thực sự trở thành chủ ruộng đất.
Ở các bước sau chúng ta lại tiếp tục mắc phải một số sai lầm nghiêm trọng. Do chưa nhận thức đúng quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất. Trong cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng quan hệ sản xuất mới chúng ta đã ra sức vận động, một số nơi gần như là cưỡng bức, nông dân đi vào hợp tác hoá khi mà họ chưa có thời gian để suy nghĩ trên mảnh đất được chia. Có thể chúng ta chưa tuân thủ lời giáo huấn của Lênin: Muốn dụng một phương pháp mau lẹ nào đó, một sắc lệnh, một tác động ngoài vào để cải tạo hệ cá thể ấy thì thật là một tư tưởng hoàn toàn phi lý. Đồng thời cùng với việc xây dựng hợp tác xã quy mô từ thấp tới cao chúng ta đã mở rộng và phát triển cả quy mô nông trường quốc doanh, các nhà máy, xí nghiệp lớn mà không tính đến trình độ của lực lượng sản xuất đang còn thấp kém. Mặt khác chúng ta tạo ra những quy mô lớn là ngộ nhận đã có quan hệ sản xuất cũ, xây dựng một quan hệ sản xuất mới đều thúc đẩy sự ra đời và lớn mạnh của lực lượng sản xuất mới chúng ta đã nhầm lẫn trong khi nhấn mạnh quá sức để sở hữu tư liệu sản xuất theo khuynh hướng tập thể hoá, cho đó là nhân tố hàng đầu của quan hệ sản xuất mới, bởi vậy đưa đến tình trạng tách rời, biệt lập người lao động với đối tượng lao động chủ yếu của họ. Thực tế nhiều năm qua đã chứng minh quan diểm đó sai lầm. Sai lầm ở chỗ không phải chúng ta duy trì, quan hệ sản xuất lạc hậu so với sự phát triển của lực lượng sản xuất như người ta thường nói, mà chủ yếu là có những mặt của quan hệ sản xuất bị đẩy lên quá cao, quá xa một cách giả tạo làm cho nó tách rời trình độ còn thấp kém của lực lượng sản xuất. Do vậy việc xác lập quan hệ mới để mở được cho lực lượng sản xuất phát triển là chưa xác đáng. Phải chăng “hợp tác hoá là cái quá rộng và quá sớm với tính chất và trình độ phát triển lúc bấy giờ”. Bởi vậy nhận định trong văn kiện đại hội VI của Đảng có căn cứ vào đã làm phong phú thêm lý luận về bản chất giữa lực lượng sản xuất quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất bị kìm hãm không chỉ trong trường đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là điều thường xảy ra, ở đó chứng tỏ quan hệ sản xuất bị phá vỡ. Còn nếu có trường hợp “quan hệ sản xuất đi trước lực lượng sản xuất” tuyệt nhiên không thể coi là hình thức biểu hiện dặc thù của quy luật mà đó là dấu hiệu cho thấy sự đi lệch khỏi quy luật. Để hiện chứng cho quan niệm “quan hệ sản xuất đi trước” hoặc nói cách khác để giải phóng mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất tiến lên với lực lượng sản xuất lạc hậu. Chúng ta đã ra sức xây dựng lực lượng sản xuất một cách khẩn trương bằng cách đưa khá nhiều máy móc vào các xí nhiệp nông nghiệp mới hình thành còn non yếu, nhằm xây dựng mô hình lâu dài công nông nghiệp trên địa bàn cấp huyện mà không tính đén khả năng quản lý tổ chức sử dụng của nông dân cũng như khả năng lãnh đạo của ban quản lý hợp tác xã.
Trong lực lượng sản xuất chúng ta chỉ chú ý tư liệu sản xuất một cách thuần tuý mà thiếu sự cần thiết ở nhân tố con người cả về trình độ lẫn thái độ lao động. Bản thân con người yếu tố quyết định là chủ thể quan trọng nhất trong lực lượng sản xuất. Song sản xuất bị đặt trong vòng cương toả của cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp nên con người lao động đã trở thành thực thể thụ động, năng lực sáng tạo bị ức chế và mất di một cách tự nhiên. Tất cả những sai lầm đó đã dẫn đến sự “ngã gục” trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất và do đó phá vỡ luôn cả nhịp độ phát triển kinh tế xã hội.
Một sai lầm cơ bản của chúng ta đã vấp phải là xoá bỏ quá sớm quan hệ sản xuất tư bản khi kinh tế XHCN của ta chưa đủ sức thay thế. Điều đó ảnh hưởng không tốt đến lực lượng sản xuất và mất một khả năng tạo ra sản phẩm dồi dào cho xã hội. Cũng vậy, nếu ta xoá sạch tiểu thương khi hệ thống thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mau bán của ta chưa làm nổi vai trò “người nội trợ cho xã hội” thì sẽ gây ra nhiều khó khăn và ách tắc hàng hoá và không thể đáp ứng được nhu cầu cần thiết cho nhân dân. Rõ ràng ta không thể xoá bỏ một hình thức quan hệ sản xuất nào khi lực lượng sản xuất nào khi lực lượng sản xuất tương ứng với nó đang tồn tại và thúc đẩy sức sống.
Nhìn nhận sai lầm nói trên chúng ta không chỉ đổ lỗi cho nguyên nhân khách quan. Một đất nước thoát khỏi chế độ phong kiến, nửa thuộc địa lại đè nặng bởi ba mươi năm chiến tranh không tránh khỏi những khó khăn, thiệt thòi nhất định. Tuy nhiên không phải vì thế mà không thừa nhận sai lầm về mặt chủ quan. Cội nguồn của những sai lầm chủ quan đó là do sự nhận thức không đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, do đó vận dụng không đúng đắn bản chất của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Trong thời gian dài, chúng ta cứ có quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa là có chủ nghĩa xã hội mà quên đi rằng quan hệ sản xuất đó phải dựa trên cơ sở lực lượng sản xuất sẵn có. Tập trung sức xây dựng quan hệ sản xuất song nội dung ý chí trong việc xây dựng trật tự bước đi cũng như việc lựa chọn các hình thức tổ chức kinh tế.
1. Đổi mới cơ chế :
Rút kinh nghiệm với những vấp váp, những thất bại, Đảng ta đã nhìn nhận đúng đắn cũng như các biện pháp kịp thời để khắc phục và phát triển nền kinh tế. Qua quá trình lãnh đạo sản xuất lâu dài Đảng ta rút ra kinh nghiệm bổ ích và đã khẳng định rằng; một trong những nguyên nhân làm cho xã hội chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn là: Không nắm vững quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất trình độ của lực lượng sản xuất, từ đó Đảng đã rút ra cốt lõi để đẩy mạnh việc vận dụng quy luật bằng cách nêu vấn đề gắn liền với cách mạng quan hệ sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật lên hàng đầu. Đồng thời tổ chức lại nền sản xuất xã hội để xác định đúng những hình thức và bước đi thích hợp. Đảng đã nhận thức rằng sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất không bao giờ là sự phù hợp tuyệt đối, không có mâu thuẫn, không trao đổi. Sự phù hợp này không bao giờ là sự phù hợp chung mà là sự tồn tại dưới nhiều hình thức cụ thể, thích ứng với đặc điểm nhất định với trình độ nào đó của lực lượng sản xuất là cần xác lập quan hệ sản xuất như thế nào để thực sự là hình thức thích hợp nhất với yêu cầu của sự phát triển từng vùng. Bởi vậy vấn đề cải tạo quan hệ sản xuất là hoàn toàn đúng, cải tạo quan hệ sản xuất ngày càng phát triển. Trong cải tạo quan hệ sản xuất cũ và gây dựng quan hệ sản xuất mới đại hội Đảng lần thứ VI đã nhấn mạnh là phải giải phóng đồng bộ cả ba mặt xây dựng chế độ sở hữu, quản lý và chế độ sở hữu mà bỏ qua việc xây dựng hai chế độ bia. Chế độ sở hữu có tầm lý luận, chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất là mặt cơ bản nhất làm nền tảng cho quan hệ sản xuất khác trong lịch sử xã hội. Về mặt thực tiễn, tính chất sở hữu tư liệu sản xuất mới cũng quy định cả tính chất quản lý và phân phối.
Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi “phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế xã hội có tính chất quá độ và trong thời kỳ quá độ ấy có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, nhiều thành phần kinh tế”. Trong đường lối kinh tế, Đảng ta đề ra: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đông thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa hay quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề rất mới mẻ về lý luận và thực tiễn. Phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa là chúng ta chưa thể có ngay chủ nghĩa xã hội theo đúng nghĩa của nó, mà đó là một quá trình, là mục tiêu mà chúng ta phải đạt tới. Trong quá trình đó, phải từng bước xác lập chủ nghĩa xã hội, phải tạo ra những điều kiện, những tiền đề để phát triển theo đúng quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội, tránh nguy cơ chệch hướng. Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phải kết hợp mục tiêu tăng trưởng kinh tế với mục tiêu xã hội và mục tiêu bảo vệ môi trường nhằm thực hiện “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, Đảng ta chủ trương đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Và “từ các hình thức sở hữu cơ bản: sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở hữu tư nhân hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp”. Để đạt được điều đó, đòi hỏi chúng ta phải thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thnàh quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”.
Theo đó, có thể nói, quan hệ sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ giữa hai mặt: một mặt, phải đa dạng hoá các hình thức sở hữu và coi đó là một trong những điều kiện tất yếu của kinh tế thị trường, mặt khác, phải không ngừng củng cố và hoàn thiện sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. Đó là yếu tố quyết định đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề có tính chiến lược nhằm phát huy sức mạnh của toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nước ta.
2. Xây dựng nề kinh tế nhiều thành phần :
Xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất luôn là yêu đặt ra đối với mọi chế độ xã hội. Đối với nước ta đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười đã khẳng định: “Nếu công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo nên lực lượng sản xuất cần thiết cho chế độ mới thì việc phát triển nền kinh tế nhiều thành phần chính là để xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất phù hợp”.
Đảng đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần là đúng. Bởi vì, nó biểu hiện sự lựa chọn những hình thức, bước đi, giải pháp thích hợp với trạng thái kinh tế hiện nay.
Đường lối đó xuất phát từ trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất nước ta hiện nay vừa thấp vừa không đồng đều nên không thể nóng vội nhất loạt xây dựng quan hệ sản xuất một thành phần dựa trên cơ sở chế độ công hữu XHCN về tư liệu sản xuất như trước đại hội VI. Làm như vậy là đẩy quan hệ sản xuất đi quá xa so với trình độ lực lượng sản xuất. Mở ra nền kinh tế nhiều thành phần đã khơi dậy tiềm năng, của sản xuất, xây dựng năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất kinh doanh thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thực tiễn mấy năm qua cho thấy, chính sách kinh tế nhiều thành phần đã góp phần giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất, đưa đến những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12100.doc