Ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí 1
A. Ô nhiễm môi trường đất: 1
I, Hiện trạng ô nhiễm môi trường đất: 1
II, Nguyên nhân và hậu quả: 4
B, Ô nhiễm môi trường nước: 7
1, Hiện trạng môi trường nước: 7
Hồ trong phố: Kè rồi vẫn. bẩn! (Lao động, ngày 31/03/2008 ) 9
Hồ bẩn: Chuyện dài nhiều tập 9
Ô nhiễm do ý thức con người 10
II, Nguyên nhân và hậu quả: 13
C, Ô nhiễm môi trường không khí: 15
I, Hiện trạng ô nhiễm môi trường không khí: 15
Thực trạng ô nhiễm 18
2, Nguyên nhân và hậu quả: 20
D, Giải pháp: 22
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5186 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Ô nhiễm môi trường đất, nước và không khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác dạng phân bón, chất thải rắn đô thị chưa được thu gom vận chuyển và xử lý kịp thời.
Việt Nam hiện vẫn còn sử dụng một số loại thuốc mà thế giới hạn chế hoặc cấm dùng như Methyl Parathin (thuộc nhóm lân hữu cơ) – loại độc nhất hiện nay. Nhiều nơi hãy còn dùng phân tươi tưới trực tiếp cho rau, hoa quả, đã gây ô nhiễm sinh học nghiêm trọng đến đất trồng, và ảnh hưởng lập tức đén sức khỏe con người. Tổng lượng rác thải đô thị Việt Nam đạt khoảng 15- 18 nghìn m3/ngày đêm và ngày càng tăng lên, trong khi các bãi đổ rác đã trở nên nhỏ hẹp, không đúng quy cách kỹ thuật vệ sinh môi trường, xử lý rác bằng phương pháp công nghiệp còn rất hạn chế.
B, Ô nhiễm môi trường nước:
1, Hiện trạng môi trường nước:
Dưới dạng nước mưa và dòng chảy, nước là một chất hòa tan duy nhất giải quyết việc vânk chuyển các chất dinh dưỡng chủ yếu cho sự sống trong thiên nhiên. Đối với nền kinh tế – xã hội, nước là một trong những yếu tố quan trọng nhất. Nó được sử dụng cho các mục đích công nghệ: sản xuất các dung dịch, làm nguội và làm nóng mày móc thiết bị, vận chuyển nguyên liệu và tống đẩy các phế liệu; sức nước tạo thủy điện, và cho các mục đích vệ sinh, phòng bệnh… Trong nhiều ngành sản xuất, nước là nguyên liệu gốc, là nửa thành phẩm và trong một số trường hợp, là một trong những thành phần chủ yếu của thành phẩm. Con người mỗi ngày cần 2,5l nước uống.
Tổng lượng nước ngọt trên toàn thế giới là 40,9 nghìn km3, phân bố nhiều nhất ở Châu Mỹ La Tinh và Caribê(26%), Đông Á và Thái Bình Dương (22,7%). Nếu xét trữ luợng nước bình quân đầu người, đứng đầu vẫn là Châu Mỹ La Tinh và Caribê (23,9 nghìn m3/người). Trung Đông và Bắc Phi là nơi ít nhất, cả về trữ lượng (0,73%) lẫn nước bình quân đầu người (1ngàn m3/người)
Trong sử dụng, nên phân biệt 2 dạng nước:
- Nước thu hồi được: là lượng nước sau khi rút ra khỏi nguồn được chuyển đến nơi sử dụng.
- Nước tiêu thụ: là lượng nước sau khi rút ra khỏi nguồn nó không có giá trị lâu dài hơn cho tái sử dụng trong địa phương do sự bốc hơi dự trữ lâu dài trong các cơ thể sống của động thực vật, hoặc thấm qua tạo độ ẩm trong đất.
Mức sử dụng nước của con người gia tăng nhanh chóng, trong 3 thế kỷ qua, mức sử dụng tăng hơn 35 lần, và theo dự kiến, mức sử dụng nước sẽ tăng từ 30 -35% trong năm 2000. Hầu hết ở các quốc gia, tưới tiêu trong nông nghiệp là nguồn tiêu thụ nước chính, chiếm khoảng 70% lượng nước cung cấp.
Tuy nhiên chỉ có 40% nước tưới được dùng để phát triển mùa màng, phần còn lại là lãng phí đi và gây ra tình trạng ngập úng, nhiễm phèn, mặn.
Mức sử dụng nước ở các nước đang phát triển hàng đầu cao gấp 3 lần các nước đang phát triển. Cơ cấu dùng cũng có khác nhau, các nước phát triển dùng nhiều nước trong sản xuất công nghiệp hơn.
Lượng nước ngọt nói chung phong phú, nhưng phân bố không đều theo khu vực và trong năm nên nảy sinh những vấn đề khá nghiêm trọng về thiếu và thừa nước. Ở các vùng Trung cận đông và bắc Châu Phi, có 22 quốc gia mức bình quân nước đầu người <1000 m3. Khan hiếm nước ở đây là một sự thực khắc nghiệt mang tầm cỡ quốc gia. Người dân phải đi từ 16 -25 km/ngày để lấy nước. Cũng ở khu vực trên có 18 quốc gai mức bình quân dưới 2000m3/ người, chỉ giảm căng thẳng trong mùa mưa. Ở Trung Quốc, Tây và Nam Ấn Độ, Mêhicô, Inđônêsia, khan hiếm nước xảy ra trên qui mô vùng cũng khá nghiêm trọng. Nhiều nhà máy ở Inđônêsia việc ngưng hoạt động trở thành thông lệ vào mùa khô.
Để giải quyết tình trạng khan hiếm nước bề mặt, các nước này đã tăng cường sử dụng nước ngầm. Và do nước ngầm bị khia thác với tốc độ nhanh hơn tốc độ khôi phục của nước tự nhiên, nên mực nước ngầm giảm mạnh. Thí dụ: 10 tỉnh, thành phố phía bắc Trung Quốc (Bắc Kinh, Tây An, Thiên Tân…) chủ yếu dùng nước ngầm để cấp nước, mỗi năm mực nước ngầm giảm xuống 1m, tại bang Tamil Nadu ở miền nam Ấn Độ, sau 1 thập niên bơm nước với cường độ lớn đã làm mực nước giảm xuống hơn 25m.
Tình trạng này khiến cho lượng nước ngầm nhiễm mặn tăng lên, sụt lún đất giảm khả năng tích tụ nước của lớp vở.
Ngược lại, nhiều nước ở Châu Mỹ la tin, Đông Á và Thái Bình Dương, vào mùa mưa lượng nước ào ạt đã gây nên lũ lụt, ngập úng. Tai họa do lũ lụt đã giết hại hàng nghìn người và làm tổn thất hàng tỉ đô la mỗi năm.
Nước sinh hoạt ô nhiễm nặng (Tuổi trẻ, ngày 02/04/2008)
Nguồn nước ở nhiều nơi nhiễm phèn, hóa chất, thậm chí còn bị nhiễm lưu huỳnh rất dễ ngộ độc và gây ra một số bệnh nguy hiểm nhưng người dân vẫn phải sử dụng. Theo số liệu của Chi cục Thủy lợi và phòng chống lụt bão TP Đà Nẵng, hiện nay chỉ có 54% số dân nông thôn toàn TP được sử dụng nước sạch. Nhiều vùng như thôn Phong Nam (xã Hòa Châu), khu tái định cư ở xã Hòa Phong, thôn Trung Sơn 1 (xã Hòa Liên)... phải sử dụng nước nhiễm phèn, nhiễm chì khá cao, gây ra một số bệnh làm người dân rất lo lắng.
Sợ bị bệnh nhưng vẫn phải sử dụng
Thôn Phong Nam, xã Hòa Châu có 483 hộ với 2.000 nhân khẩu, chỉ cách Nhà máy nước Cầu Đỏ chừng 3km. Vậy mà các hộ dân ở đây bao năm nay vẫn phải sử dụng nguồn nước nhiễm phèn và nhiễm chì khá cao. Bà Ngô Thị Nghiên cho biết: "Nước múc từ giếng lên để một vài phút là thấy vàng khè, mùi tanh và cặn bẩn, dù có bể lọc nhưng cũng không hết". Mỗi ngày bà Nghiên phải đến Nhà máy nước Cầu Đỏ mua hai thùng nước với giá 2.000 đồng để dùng. Bà Dư Thị Lực bức xúc: "Nước như thế này uống vào rất lo. Ở đây nhiều người chết vì bệnh ung thư nên người dân rất lo lắng. Cả làng này mong có nước sạch để không đi mua nước mỗi ngày nữa".
Theo ông Nguyễn Ngọc Ba - trưởng Trạm y tế xã Hòa Châu, thống kê trong hai năm 2006 và 2007 cả thôn có 16 người chết, trong đó có năm người chết vì ung thư, người dân rất sợ vì cho rằng nguyên nhân từ nguồn nước. "Nguồn nước ở thôn Phong Nam nhiễm quá nhiều phèn và hóa chất. Thậm chí có nhiều vùng còn bị nhiễm lưu huỳnh rất dễ ngộ độc và gây ra một số bệnh nguy hiểm" - ông Ba nhận xét. Trong khi đó, người dân thôn Trung Sơn, xã Hòa Liên, huyện Hòa Vang hằng ngày phải sống chung với nguồn nước thải từ các nhà máy ở Khu công nghiệp Hòa Khánh đổ ra khiến nước sinh hoạt bị ô nhiễm nặng. Nhiều người bị bệnh da liễu, phụ nữ bị bệnh phụ khoa.
Nước sạch chỉ đạt 3-4%
Theo số liệu của đội y tế dự phòng huyện Hòa Vang, hiện nay toàn huyện chưa tới 5% số hộ dùng nước máy, 4.000 hộ dùng nước giếng khoan, 358 hộ dùng nước tự chảy (dùng hệ thống máng dẫn nước từ sông, suối về), còn lại là dùng nước từ giếng đào. Trong khi đó bác sĩ Nguyễn Ngọc Tửu, đội trưởng đội y tế dự phòng huyện, cho biết phần lớn các giếng nước đều không đạt yêu cầu.
Năm 2007, trong số 60 mẫu nước xét nghiệm chỉ 5% có thể sử dụng được. Phần lớn đều bị nhiễm vi sinh, coliform hoặc bị nhiễm hữu cơ do nguồn rác, phân, nước thải... ngấm vào. Điều này chắc chắn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân. Đặc biệt trong những năm gần đây, tỉ lệ ung thư ở một số làng như Cẩm Nê (Hòa Tiến), Phong Nam (Hòa Châu)... tăng cao làm người dân rất lo lắng.
Theo ông Lê Duy Vọng - chi cục trưởng Chi cục Thủy lợi và phòng chống lụt bão Đà Nẵng, dự định năm 2010 sẽ có ít nhất 80% người dân vùng nông thôn toàn TP được sử dụng nước sạch, nguồn kinh phí cần khoảng 100 tỉ đồng. Tuy nhiên, ông Vọng nói: "Mỗi năm chi cục chỉ được cấp 4-5 tỉ đồng từ nguồn vốn của TP và nguồn vốn của dự án cung cấp nước sạch vùng nông thôn. Do vậy, mỗi năm chúng tôi chỉ cung cấp thêm được 3-4% lượng nước sạch cho người dân". Ông Vọng cho biết thêm: "Trước mắt, chúng tôi ưu tiên nguồn kinh phí để cung cấp nước sạch cho những vùng bị ô nhiễm nặng về nguồn nước như ở Phong Nam và khu tái định cư trụ sở UBND huyện Hòa Vang. Người dân các vùng đồng bằng phải sử dụng nguồn nước khoan chưa bị ô nhiễm; vùng trung du, miền núi sử dụng nguồn nước sông suối với hệ thống bể lọc vừa rẻ lại thuận tiện".
Hồ trong phố: Kè rồi vẫn... bẩn! (Lao động, ngày 31/03/2008 )
Hà Nội đang tập trung xây kè, nạo vét và chỉnh trang lại khuôn viên của nhiều "lá phổi xanh" trong TP nhằm giảm thiểu tình trạng ô nhiễm. Nhưng xem ra công việc này vẫn tỏ ra thiếu hiệu quả, khi mà cả hồ lớn, hồ bé trong thành phố vẫn... bẩn như thường!
Hồ bẩn: Chuyện dài nhiều tập
Vừa tìm chỗ gửi xe để tản mát quanh hồ Xã Đàn (phường Nam Đồng - Đống Đa) thì một cơn gió thoảng nhẹ qua mũi chúng tôi, mang theo mùi khai nồng của bùn và cá chết. Nước ở hồ cạn, trơ ra một mảng đáy hồ đầy rác rưởi, rải rác có người đi dọc bờ nhặt đồng nát. Trên mấy bậc tam cấp dẫn xuống hồ, cơ man nào là vỏ lon, bát hương và cả xác cá nổi dập dềnh, bốc mùi hôi thối.
Hồ Linh Đàm - một hồ lớn và nằm trong khu đô thị mới của thành phố - cũng đồng "cảnh ngộ". Gần một tháng nay, dân cư sống ở khu vực đường đôi Linh Đàm và người đi đường phải chịu mùi hôi thối, tanh nồng bốc lên từ phần hồ đã rút hết nước. Ven hồ đầy túi nylon, vỏ kẹo bánh, đặc biệt cửa cống nước thải sinh hoạt từ khu dân cư, được đổ trực tiếp xuống hồ.
Hơn nữa hồ đang được tận dụng để nuôi cá, theo các chuyên gia, việc này có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao, nhưng có tác động bất lợi với người dân trong khu vực. Hồ nuôi cá nhưng vẫn tiếp nhận nước thải sinh hoạt từ khu dân cư đồng nghĩa với việc hoà lẫn chất thải hữu cơ và amoni hàm lượng cao. Điều này càng nguy hiểm hơn với những hộ dân sử dụng nước ngầm trực tiếp trong khu vực.
Nằm ở phía nam TP, một loạt các hồ lớn là Yên Sở, Linh Đàm và Định Công được xem là các hồ đầu mối đóng vai trò điều hoà nước mưa. Theo Bộ Xây dựng, trong quy hoạch tổng thể thoát nước HN, các hồ này sẽ tiếp nhận trực tiếp nước thải sau khi xử lý tại chỗ từ lưu vực thoát nước số 7. Chỉ riêng hồ đầu mối Yên Sở phải oằn mình mỗi khi điều hoà nước từ kênh Yên Sở, dòng kênh có màu đen kịt, đặc quánh và luôn bốc lên mùi thối đặc trưng của hàng nghìn mét khối nước thải từ thành phố đổ về.
Ngay tại nội thành, hồ Linh Quang (phường Văn Chương - Đống Đa) nằm lọt thỏm giữa khu dân cư, đông đúc chật hẹp. Hồ nhìn không khác gì một cái ao làng bị bỏ quên với cỏ bèo mọc um tùm, xung quanh là mấy dãy nhà dân lụp xụp với mấy cái lán dựng tạm bợ. Đặc biệt ngay sát hồ có một cái chợ cóc, rác rưởi ùn ùn chất thành đống và nghiễm nhiên trở thành bãi rác của chợ. Mấy bà hàng rau quả cuối ngày gom các loại quả thối, rác rưởi, dửng dưng quẳng xuống bờ hồ.
Hồ Linh Quang là hình ảnh cũ của hồ Kim Liên, hiện nay hồ đang được nạo vét, xây kè. Khi rút cạn nước, người ta được mục kích lớp bùn đặc quánh lẫn rác thải là nguyên nhân khiến hồ Kim Liên trước đây chỉ như "cái ao bùn". Đến những hồ được tiếng sạch đẹp như hồ Ngọc Khánh, người đi bộ vẫn bắt gặp tình trạng mặt nước nổi váng, rác không chìm xuống được và cá con chết nổi trắng bụng ở một góc hồ.
Ô nhiễm do ý thức con người
Trao đổi với PV Báo Lao Động, bà Trần Thu Thuỷ - Phó Chủ tịch UBND phường Nam Đồng - khẳng định: "Hồ Xã Đàn được kè bờ vào cuối năm 2007 do phường trực tiếp quản lý. Đến nay, tình trạng ô nhiễm đã giảm đáng kể so với mọi năm, song chưa hoàn toàn triệt để bởi ý thức của một số hộ dân sống quanh hồ vẫn chưa cao". Một người dân sống lâu năm tại đây cũng than thở: "Xây kè rồi vẫn rất ô nhiễm, cứ nắng lên là lượng rác thải lại tăng, hàng quán hai bên hồ thi nhau mọc lên, ngang nhiên đổ rác xuống hồ".
Ông Nguyễn Đình Huấn - Chủ tịch phường Văn Chương, địa bàn có hai hồ Huy Văn và Linh Quang - bày tỏ lo lắng: "Cái khó nhất hiện nay là làm thế nào để duy trì cảnh quan môi trường tại hồ sau khi được chắn kè và xây dựng. Không ít người dân vẫn chứng nào tật ấy, quen tay tấp rác quanh hồ và mặc nhiên xem đó là nhiệm vụ của người lao công". Hồ Huy Văn đã chắn kè tạo cảnh quan thông thoáng, nhưng chỉ cách hồ vài mét là mấy đống rác to tướng ngang nhiên tồn tại trên đường dẫn ra hồ. Còn với thực trạng hồ Linh Quang, ông Huấn cho biết hồ chỉ được bàn giao lại cho phường sau khi hoàn thành việc cải tạo.
Nhiều hồ được xây dựng, sửa sang đẹp đẽ rồi trở thành địa điểm kinh doanh thuận lợi cho một số người, kèm theo đó là các hoạt động khiến môi trường quanh hồ lại "tái bẩn". Cứ tầm 5 giờ chiều hàng ngày, không gian thoáng đãng, mát mẻ tại hồ Đống Đa bỗng chốc trở nên nhộn nhịp. Không kể những hàng càphê, bia hơi, rượu dân tộc của những gia đình có vị trí mặt tiền hướng ra hồ bung ra tiếp khách, hàng loạt quán cóc với chiếu cói cơ động sẵn sàng phục vụ rượu đế, mực nướng cho khách hóng gió ven hồ. Địa điểm tập trung nhiều khách du lịch như hồ Trúc Bạch cũng không thoát khỏi tình trạng lộn xộn, mất mỹ quan mỗi khi chiều về.
Khách bộ hành tập thể dục ngoài việc tránh hàng quán, còn phải... "né" những túi nylon rác sinh hoạt của các hộ dân xếp "ngay ngắn" trên con đường lát gạch quanh hồ. "Ý thức" hơn một chút, các hộ dân sống gần đó tập kết rác tại chân cột đèn ven hồ để người thu gom dễ nhận ra.
Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng tình trạng ô nhiễm nước là vấn đề rất đáng lo ngại.
Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá khá nhanh và sự gia tăng dân số gây áp lực ngày càng nặng nề dối với tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải rắn. ở các thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có công trình và thiết bị xử lý chất thải. Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng. Ví dụ: ở ngành công nghiệp dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ô xy sinh hoá (BOD), nhu cầu ô xy hoá học (COD) có thể lên đến 700mg/1 và 2.500mg/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng... cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép.
Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt 84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt trong vùng dân cư.
Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp tập trung là rất lớn.
Tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ Chí Minh, nguồn nước bị nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính 500.000 m3/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm, dệt. ở thành phố Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở sản xuất giấy, luyện gang thép, luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn tổng lượng nước thải khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng 15% lưu lượng sông Cầu; nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,4-9 và hàm lượng NH4 là 4mg/1, hàm lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi khó chịu…
Khảo sát một số làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt nhuộm ở Bắc Ninh cho thấy có lượng nước thải hàng ngàn m3/ ngày không qua xử lý, gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường trong khu vực.
Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không có hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương). Mặt khác, còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải; một lượng rác thải rắn lớn trong thành phố không thu gom hết được… là những nguồn quan trọng gây ra ô nhiễm nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ ở các thành phố lớn là rất nặng.
ở thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải của thành phố lên tới 300.000 - 400.000 m3/ngày; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ thống xử lý nước thải, chiếm 25% lượng nước thải bệnh viện; 36/400 cơ sở sản xuất có xử lý nước thải; lượng rác thải sinh hoại chưa được thu gom khoảng 1.200m3/ngày đang xả vào các khu đất ven các hồ, kênh, mương trong nội thành; chỉ số BOD, oxy hoà tan, các chất NH4, NO2, NO3 ở các sông, hồ, mương nội thành đều vượt quá quy định cho phép ở thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4.000 tấn/ngày; chỉ có 24/142 cơ sở y tế lớn là có xử lý nước thải; khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm thuộc diện phải di dời.
Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định, Hải Dương… nước thải sinh hoạt cũng không được xử lý độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt quá tiểu chuẩn cho phép (TCCP), các thông số chất lơ lửng (SS), BOD; COD; Ô xy hoà tan (DO) đều vượt từ 5-10 lần, thậm chí 20 lần TCCP.
Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp, hiện nay Việt Nam có gần 76% dân số đang sinh sống ở nông thôn là nơi cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc không được xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số vi khuẩn Feca coliform trung bình biến đổi từ 1.500-3.500MNP/100ml ở các vùng ven sông Tiền và sông Hậu, tăng lên tới 3800-12.500MNP/100ML ở các kênh tưới tiêu.
II, Nguyên nhân và hậu quả:
Ô nhiễm nước ngọt:
Các dòng chảy mặt và ngầm khi đi qua các vùng nông nghiệp, khai thác mỏ và dô thị đã bị nhiễm bẩn với những mức độ khác nhau. Ô nhiễm nước hiện nay đã trở thành ện nạn phổ biến ở hầu hết các nước.
Trước hết, ô nhiễm do các chất hữu cơ trong nước thải sinh hoạt và phân bón đã gây tình trạng phú dưỡng hóa nhiều dòng chảy, làm tác hại lớn đến sức khỏe người dân và năng suất thủy sản. Theo cơ quan ý tế thế giới, hàng năm có 25 triệu dân chết do dịch tả, thương hàn và những bệnh lây lan qua nước uống khác (trung bình 65.000 người/ngày).
Sự suy giảm oxy tự do (O2) trong nước do phân hủy chất hữu cơ đã có ảnh hưởng đến năng suất thủy sản. Theo mẫu kiểm tra của GEMS vào những năm 80 cho thấy: Lượng O2 hòa tan trong nước sông ở các nước có thu nhập cao luôn trên mức cho phép (nghĩa là mức tối thiểu đảm bảo được sự sống sinh vật dưới nước: trên dưới 6mg/l), và có xu thế cải thiện. Các nước thu nhập trung bình có lượng O2 hòa tan tring bình (của sông bẩn nhất và sạch nhất) gần 7mg/l và không đổi trong suốt thập niên 80.
Riêng các nước thu nhập thấp O2 tự do ở thời kỳ đầu những năm 80 giữ được mức 7mg/l, vào cuối thập niên, tình trạng bị xấu đi chỉ còn khoảng 6,5mg/l (đây là mức O2 tự do trung bình ở các sông, riêng O2 tự do trung bình trong các sông bẩn nhất rất thấp chỉ có 4mg/l).
- Ở những vùng công nghiệp, khai thác mỏ và dùng lượng nông hóa cao, các dòng sông đều bị nhiễm bẩn bởi các chất độc và kim loại nặng như chì, thủy ngân. Trong các mẫu cá và tôm cua ở vịnh Giacacta (Inđônêsia) lượng chì vượt mức 76%. Ở Nhật, Úc, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ,.. có nồng độc acid, thủy ngân, chì trong nước vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Ở Malaysia, nước thải từ các nhà máy dầu cọ và cao su, của các nhà mày khác và các khu dân cư đã làm 42 con sông coi như chết.
- Ô nhiễm nước ngầm cũng là vẫn đề đáng lo ngại ở nhiều nước. Ví dụ tại Châu Mỹ La tinh, lượng các chất độc hại từ các bãi thải thâm nhập vào nước ngầm cứ 15 năm tăng gấp đôi. Tại thành phố của các nước đã phát triển nước ngầm bị bẩn do thiếu hệ thống xử lý và quản lý kém các hố rác tự hoại.
Số dân được cấp nước sạch và phương tiện vệ sinh được tăng lên, nhờ thế giới thực hiện thập niên nước uống và vệ sinh quốc tế (1981 – 1990). Đến nay có 45% dân nông thôn và gần 80% dân thành phố được cấp nước sạch, nhưng chỉ có 20% dân nông thôn và gần 50% dân thành phố có các phương tiện vệ sinh. Tình trạng này ở các nước đang phát triển ít được cải thiện hơn (chỉ có 30% dân nông thôn và 75% dân thành thị được cấp nước sạch).
Ô nhiễm môi trường biển:
Nhiễm bẩn môi trường biển, đặc biệt tại cá vùng ven bờ tiếp tục gây lo ngại cho nhiều nước và là một trong những vấn đề khó giải quyết do có tính toàn cầu. Mỗi năm có khoảng 6,5 triệu tấn rác tuôn ra biển. Ô nhiễm chất hữu cơ khiến cho các loại tảo đỏ phát triển mạnh ở vùng cửa sông, dọc vờ biển Bắc Carolina và ở các biển phía nam bán đảo Scandinave. Trong số rác rưởi, plastic là loại khó phân hủy nhất, nó có thể tồn tại hơn 50 năm trong môi trường biển, hiện nay lại đang tăng lên. Dọc bờ biển Địa trung Hải có hơn 70% rác thải là plastic, ở Thái bình Dương có đến hơn 80%. Ô nhiễm hữu cơ đã khiến khoảng 4000km2 vùng vịnh Mêxicô, gần cửa sông Mississipi bị xem như vùng chết do thiếu O2. Hoa của tảo thường tiết ra những độc tố ảnh hưởng đến thực phẩm biển. 1987 ngộ độc do thực phẩm có độc tố tảo đỏ đã giết 26 người ở Guatamala. “Con nước đỏ” là thuật ngữ thường được dùng để ám chỉ nước biển bị nhiễm hoa tảo đỏ. Ở các biển nội địa Nhật Bản, mỗi năm xuất hiện 200 “con nước đỏ”. Xung quanh phía nam bán đảo Scandinave, dọc bờ biển Nauy “Con nước đỏ” đã làm thiệt hại một số ngư trường và đời sống biển khơi khác. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm cho thấy những người bơi lội ở vùng biển bị ô nhiễm hữu cơ bệnh rối loại tiêu hóa, viêm tai, viêm đường hô hấp và da tăng hơn bình thường. Sử dụng thức ăn biển ô nhiễm dẫn đến tăng bệnh viêm gan siêu vi và dịch tả.
- Hàng năm có hơn 2,3 triệu tấn dầu từ các nguồn khác nhau xâm nhập vào biển. Trong đó, chủ yếu là từ chất thải đô thị và các hoạt động vận tải biển. Các tai nạn đắm hoặc vỡ tàu chiếm 20% nguồn thải dầu vào biển.
Hàm lượng dầu trong biển nói chung hãy còn rất thấp chưa đe dọa đến các hệ sinh thái biển. Tuy nhiên, những sự cố tràn dầu, đặc biệt những sự cố có tầm cỡ lớn có thể gây nguy hiểm ở các vùng ven bờ.
Việc thải bỏ các hóa chất độc hại và những cuộc thử nghiệm hạt nhân cũng được thực hiện ở các đại dương, đặc biệt vào trước năm 1987 do Mỹ, Tây Âu, Nhật và một số nước công nghiệp khác. Từ 1981 – 1984 các nước châu âu đã thiêu hủy gần 624 ngàn tấn hóa chất ngoài biển. Năm 1986 có gần 578 ngàn tấn thải được đổ ra biển khơi, với ½ là độc hại. Mặc dù năm 1982 luật biển đã được ra đời với 160 nước ký vào, sau đó còn nhiều công ước khác được ký kết giữa các nước thuọc Đại Tây Dương và Địa Trung Hải, nhưng những năm 80 tình trạng này vẫn chưa được cải thiện. Pháp, Anh và một số tiểu bang của Mỹ vẫn chịu những ảnh hưởng có quy mô lớn của các hợp chất hóa học chứa clo và phenol ở ven bờ.
Từ dầu những năm 90, các nước phát triển đã giảm mức độ thải các chất ô nhiễm ra biển, những ở các nước đang phát triển tình trạng gây ô nhiễm biển lại có xu hướng tăng lên.
Ở Việt Nam, nhờ tổng lượng nước ngọt bề mặt phong phú (881,97 tỷ m3, bình quân: 11.760m3/người) và tốc độ đô thị hóa chưa cao nên mức độ ô nhiễm nguồn nước trung bình năm hãy còn thấp, dưới mức cho phép. Tuy nhiên, nếu xét mức độ ô nhiễm tức thời và ở một số sông ngòi cụ thể, tình trạng lại ở mức báo động. Hầu hết nguồn nước ngọt ở các thành phố và trung tâm công nghiệp đèu bị nhiễm bẩn do nước thải sinh hoạt,nước thải công nghiệp, thậm chí còn do rác thải sinh hoạt và công nghiệp thải bỏ trực tiếp và các dòng chảy. Theo báo cáo hiện trạng môi trường Việt Nam năm 1994, các chỉ số BOD, SS, pH ở các nguồn tiếp nhập nước thải đều vượt từ 5 – 10 lần TCCP, những nguồn ô nhiễm nặng vượt đến 20 lần. Ngoài ra, các nguồn tiếp nhận còn chưa cả kim loại nặng như asen, kẽm, crôm, thủy ngân, chì,… là những nguyên tố rất độc hại.
- Ô nhiễm môi trường nước nông thôn và môi trường nước biển nhìn chung còn ở mức thấp nhưng đã bắt đầu tăng lên, nhất là các nơi gần khu công nghiệp, bến cảng, cửa sông, bãi tắm.
C, Ô nhiễm môi trường không khí:
I, Hiện trạng ô nhiễm môi trường không khí:
Từ đầu những năm 70, khi ô nhiễm không khí có ảnh hưởng đến qui mô toàn cầu, thế giới đã liên tục theo dõi mức độ ô nhiễm không khí tại các thành phố thông qua GEMS. Các thông tin từ GEMS cho biết: Nhiều chất ô nhiễm thường xuyên vượt quá mức an toàn đối với sức khỏe. Nguy hiểm nhất là các chất bụi lơ lửng, ô nhiễm khô
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12113.doc