MỤC LỤC
Phần mở đầu
1 Tính cấp thiết của đề tài
2 Tình hình nghiên cứu.
3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5 Phương pháp nghiên cứu
6 Kết cấu
Phần nội dung
Chương 1: Vị trí của tư tưởng đạo đức HCM trong tư tưởng văn hoá HCM
• Quan điểm đạo đức của Hồ Chí Minh
• Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về đậo đức và tấm gương đạo đức của HCM
Chương 2: Những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt nam trong thời đại mới
4 Trung với nước, hiếu với dân sẵn sàng hoàn thành nhiệm vụ được giao.
5 Yêu thương con người, yêu thương đồng bào, đồng chí đồng đội, gắn bó với chiến sĩ, nhân dân.
6 Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
7 Tinh thần quốc tế trong sáng thuỷ chung.
Chương 3: Phẩm chất đạo đức của thế hệ trẻ hiện nay trong thời kì mới.
4. Những vấn đề đạo đức của thế hệ trẻ ngày nay
5. Giải pháp bồi dưỡng đạo đức, phẩm chất đạo đức cho thế hệ trẻ.
Phần kết luận .
23 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10713 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận Phẩm chất của con người Việt Nam trong thời kì mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiểu lý luận. Dũng là gan góc, gặp việc phải có gan làm, thấy khuyết điểm phải có gan sửa, nếu cần, có gan hy sinh cả tính mạng mình...
Ba là : cần, kiệm, liêm, chính. Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế họach, sáng tạo, có năng suất cao. Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thời gian, tiết kiệm tiền của nhân dân, của nước, của bản thân mình, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương hình thức... Liêm là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công của dân, phải trong sạch, không tham lam, không tham tiền tài... Chính là ngay thẳng, đứng đắn. Đối với mình không tự cao tự đại, luôn luôn chịu khó hoc tập để phát triển mình... Đối với người thì không nịnh hót cấp trên, không xem thường cấp dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn đoàn kết, không dối trá lừa lọc...Cần, kiệm, liêm, chính luôn đi liền với chí công, vô tư, tức hết lòng chăm lo việc chung, không tơ hào, tư lợi.
Trung, hiếu, nhân, nghĩa, trí, dũng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư đều là những khái niệm vốn có từ Nho học và đạo đức từ lâu đời của ông cha ta, song đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đổi mới và phát triển, thậm trí có những khái niệm đổi mới hẳn về nội dung, như xưa trung với vua, hiếu với cha mẹ, nay là với nước, hiếu với dân. Do đó, những phẩm chất đạo đức được Người nêu lên chính là những phẩm chất của đạo đức mới, của con người mới và đạo đức mới. Nó là sự kết hợp tinh thần cách mạng của giai cấp công nhân với truyền thống đạo đức của dân tộc và những tinh hoa đạo đưc của nhân loại.
Đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
còn có tầm sâu rộng hơn, vượt qua khuôn khổ quốc gia để tạo nên sự hòa hợp và nhuần nhuyễn giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghhĩa quốc tế vô sản “ bốn phương vô sản đều là anh em”.
1.Quan niệm về đạo đức của Hồ Chí Minh
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức của một người cộng sản mẫu mực, kiên định trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước của dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa quốc tế chân chính của giai cấp công nhân cách mạng.
Đó là đạo đức của người chiến sĩ suốt đời đấu tranh, dâng hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp và lý tưởng và mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng xã hội và con người. Do đó, đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, đạo đức hành động vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Đạo đức cách mạng, đạo đức hành động Hồ Chí Minh là cả một hệ thống tư tưởng phong phú và tinh tế, nổi bật các đức tính, chuẩn mực, các nguyên tắc ứng xử. Đó là “Cần, kiệm, liêm, chính” - bốn đức tính để làm người mà thiếu một đức tính thì không thành người, có đủ cả bốn đức tính mới làm người hoàn toàn.
Người không chỉ nhận rõ chân giá trị ấy mà Người mà người còn thực hiện một cách triệt để, nhất quán trong cuộc đời mình. Nội dung đạo đức trong “ Di chúc” nổi bât tư tưỏng lớn: tu dưỡng đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân.
Người không chỉ thực hành và nêu gương mà còn làm hết sức mình, công phu rèn luyện, giáo dục đạo đức cách mạng cho lớp cán bộ, đảng viên, cho quần chúng nhân dân ở mọi tầng lớp, nghề nghiệp, lứa tuổi, giới tính. Việc “trồng người” là lợi ích của trăm năm, của chiến lược xây dựng một xã hội văn hóa cao, phải dựa trên một nguyên tắc ứng xử thấm nhuần sâu sắc chất nhân văn, phải có tấm lòng nhân ái, khoan dung độ lượng. Có nâng niu giá trị con người, có tôn trọng nhân cách và lòng tin cậy chân thành đối với con người thì mới có sức mạnh cảm hóa, thuyết phục lòng người.
Làm cho cái hay, cái tốt ở mỗi người nảy nở như hoa mùa xuân, còn cái dở, cái xấu sẽ mất dần đi. Khoa học và nghệ thuật giáo dục con người của Hồ Chí Minh có nội dung bao trùm và chủ đạo là giáo dục và thực hành đạo đức cách mạng.
Trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng đạo đức gắn liền với tư tưởng về văn hóa chiếm một vị trí nổi bật, có những giá trị bền vững với những giá trị độc đáo được cảm thụ và theo gương sáng của Người. Người không là nhà đạo đức học hàn lâm, kinh viện mà là một nhà đạo đức thực hành, thực hành một cách biện chứng, sáng suốt, đầy trí tuệ và nhân văn. Đó là một nét riêng, tính đặc thù riêng,in đậm dấu ấn phong cách riêng của Hồ Chí Minh. Người vẫn thường căn dặn chúng ta, nói ít làm nhiều, chủ yếu là hành động. Chỉ nói và viết khi cần thiết, lại phải nói và viết ngắn gọn, giản dị cho quần chúng dễ hiểu. Hiểu để làm, để làm đúng và làm tốt. Hơn nữa, để quần chúng noi theo, làm theo thì mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu làm trước, đã nói phải làm, lời nói đi đôi với việc làm.
Như thế, đạo đức Hồ Chí Minh và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh hệ thống nhất nhưng không đồng nhất. Tư tưởng đạo đức là phần lý luận, là triết lý của Người. Ngoài bộ phận cốt yếu ấy, thuộc về nhận thức, đạo đức Hồ Chí Minh còn là phương pháp giáo dục và thực hành đạo đức mà Người đặc biệt chú trọng trong thực tiễn, trong lối sống, ứng xử, trong quan hệ con người, trong các công việc thực tế để rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng.
Đạo đức Hồ Chí Minh còn có một phương diện, một cấp độ nữa, đó là đạo đức của bản thân Người với tư cách một con người bình thường giữa muôn người khác, dù hết sức vĩ đại nhưng lúc nào và ở đâu, Người cũng coi mình như một người bình thường giữa muôn khác. Bỏ qua phương diện này trong nghiên cứu sẽ thiếu mọt thiếu hụt lớn, sẽ không thể hình dung được sự sâu sắc, phong phú, đa dạng trong tư tưởng của Người, trong thế giới tinh thần, lối sống và nhân cách của Người.
Đạo đức Hồ Chí Minh cho ta hiểu thêm một phương diện đặc sắc trong cuộc đời và sự nghiệp của một nhà Mác xít sáng tạo của cách mạng Việt Nam, một trí tuệ lớn và một nhân cách lớn, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa kiệt suất thế giới. Tư tưởng và sự nghiệp của Người mãi là di sản tinh thần vô giá đối với các thế hệ người Việt Nam và dân tộc Việt Nam, mãi mãi có trong hành trang của chúng ta trên con đường đi tới thắng lợi của đổi mới và CNXH.
2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về tấm gương về đạo đức và tấm gương đạo đức của Hồ Chí Minh.
2.1 .1 Tư tưởng đạo đức có thể nói đó là hợp điểm của tư tưởng về con người và văn hóa của Hồ Chí Minh.
2.2.1 Với con người, Hồ Chí Minh coi đạo đức là gốc, là cái quan trọng nhất quyết định tính cách, tức là nhân cách. Đức phải gắn với tài và tài phải có đức đảm bảo. Theo Người, có đức mà không tài thì làm gì cũng khó, có tài mà không có đức sẽ không làm gì có ích cho đời, thậm chí còn có hại, sinh ra những thói xấu, tự mãn, ích kỷ. Bởi thế, Người đòi hỏi có tài phải có đức và có đức phải có tài.
Người thường gọi đức và tài là hồng và chuyên, là chính trị và chuyên môn. Trước hết phải có chính trị rồi có chuyên môn, do đó bền bỉ rèn luyện, khiêm tốn học hỏi, nhất là tự học. Chính trị là hồn, chuyên môn là xác. Cán bộ, công chức phải thành thạo chính trị giỏi chuyên môn.
2.3.1 Chiếm vị trí trung tâm trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân bằng cách ra sức rèn luyện đạo đức cách mạng.
2.3.2 Theo Hồ Chí Minh, đạo đức cách mạng là đạo đức mới mang bản chất giai cấp công nhân và thấm nhuần những gì tốt đẹp và phát huy truyền thống dân tộc. Người đã kế thừa những giá trị tốt đẹp của truyền thống như : yêu nước, thương dân, đoàn kết cộng đồng, lòng nhân ái, tình yêu thương đồng loại, ngay thẳng, can đảm.
2.3.3 Là nhà cách tân, đổi mới, Người đã cách mạng hóa quan niệm đạo đức, đã đưa đạo đức mới, chủ nghĩa nhân đạo cách mạng và tinh thần nhân văn cách mạng và đạo đức và đời sống đạo đức.Người sử dụng hình thức cũ của những khái niệm, phạm trù đạo đức nhứng đưa vào đó những nội dung hiện đại, nội dung đạo đức cách mạng, đạo đức hành động vì dân, hướng tới dân.
2.3.4 Bên cạnh cần kiệm, liêm, chính, Người còn nói tới Nhân - Trí - Liêm - Trung, tinh thần hi sinh, lòng dũng cảm, khí tiết đạo đức cao quý của ông cha ta, sự đề cao trí tuệ, phẩm giá con người.
2.3.5 Điều quan trọng và thiết thực ở chỗ, Người chỉ rõ: phải thực hành đạo đức cách mạng trong công việc, trong tổ chức, trong phong trào thi đua yêu nước, trong lối sống và hành vi của cán bộ công chức nhà nước.
2.3.6 Đạo đức cách mạng ở trong Đảng đòi hỏi phải nêu cao tính tiên phong gương mẫu, đấu tranh phê bình và tự phê bình, có lý có tình, thấu tình đạt lý, ăn ở với nhau có tình có nghĩa.Công chức nhà nước phải tận tụy với công việc, chấp hành luật pháp, tôn trọng kỷ luật công vụ, thi hành đạo đức công chức.
2.3.7 Đạo đức cách mạng còn đòi hỏi tẩy trừ những thói xấu : tệ lãng phí, quan liêu, tham ô, tham nhũng, lãng phí là không thương dân. Thực hành đạo đức cách mạng thì phải ra sức đấu tranh chống quan liêu tham nhũng, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Đó là một đấu tranh lâu dài, gian khổ chống lại những thói hư tật xấu trong con người mình, cuộc đấu tranh âm thầm và quyết liệt, có không ít sự đau đớn ở trong lòng
2.3.8 Đạo đức cách mạng đối với tuổi trẻ, với thanh niên càng trở nen quan trọng để nuôi dưỡng hoài bão, chí khí lớn, nghị lực đấu tranh cho chân lý, đạo đức, tình thương, lẽ phải. Trung thực - Khiêm tốn - Đoàn kết - Vị tha - Khoan dung, đó là những đức tính và giá trị đạo đức mà Người ra sức thực hiện ở mỗi con người. Lại có một điều thấm thía khác. Người căn dặn thanh niên : tuổi trẻ phải có trí tiến thủ, hoài bão lo việc lớn, vì nước vì dân trẻ phải biết tránh xa danh vọng, quyền lực vì những cái đó dễ làm hư hỏng con người.
Người không nêu lên những nội dung phong phú của đạo đức cách mạng nà còn gợi mở bao điều quý giá khác về giáo dục, thực hiện đạo đức cách mạng.Người đã nâng phương pháp giáo dục và thực hành đạo đức cách mạng lên tầm phương pháp tư tưởng, lên trình độ khoa học và nghệ thuật, có sức lôi cuốn, thuyết phục mạnh mẽ lòng người ở mọi đối tượng, tầng lớp, thế hệ.
Người đã thực hiện nhất quán giữa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ ở trí tuệ, tư tưởng mà còn là ở sự khéo léo, tinh tế nhất ở tấm gương trong sáng, mẫu mực về đạo đức của Người trong đời sống đạo đức hàng ngày.
Suốt một đời tận tụy vì nước vì dân, Người là biểu tượng cao quý của đức hi sinh, lo cho dân, sống vì dân, thấu hiểu dân tình, dân sinh, dân ý, trở thành lãnh tụ của dân, thân dân và chính tâm.Tình yêu thương rộng lớn của người đối với nhân dân, đồng bào là không bao giờ thay đổi. Lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, đó là phương châm ứng xử và hành động của Người.
Người là lãnh tụ gần dân, sông trong lòng dân, đến vói dân chân tình cởi mở, không một chút nào xa lạ, quan cách. Người sống một cuộc sống đạm bạc, đồng cảm với dân, làm tất cả có thể làm được để chăm lo cuộc sống hàng ngày những lợi ích thường nhật của dân.
Người tiếp xúc với mọi tầng lớp nhân dân từ chính khách, trí thức cao cấp tới dân thường để mưu cầu hạnh phúc. Người trung thành đến cùng với mục tiêu lý tưởng đã theo đuổi mà thực chất là để cho mọi người dân có cuộc sộng ấm no hạnh phúc.Vì thế, Người đảm nhận chức vụ lãnh đạo trong sự tín nhiệm tuyệt đối của dân mà vẫn chỉ nghĩ đó là bổn phận, trách nhiệm công dân của mình, giống như một người lính vâng lệnh quốc dân đồng bào ra mặt trận mà thôi.
Cho đến những năm cuối đời, Người còn trực tiếp làm việc với Hội nghị ngành Than, tìm hiểu cặn kẽ vì sao ngành kinh tế - kỹ thuật này lại có chiều hướng giảm sút và phải vực dậy như thế nào. Người trực tiếp sửa chữa điều lệ Hợp tác xã nông nghiệp mà trong bản thảo di chúc còn ghi. Người chủ trương miễn thuế nông nghiệp cho bà con nông dân để bà con phấn khởi sản suất. Ước nguyện của Người đã thành hiện thực. Người học được bài học trị quốc an dân của ông cha ta, lo an sinh để an dân. Đến khi nằm trên giường bệnh Người vẫn còn lo cho những người dân vùng lũ lụt, mong tin chiến trường miền Nam thắng lợi. Muôn vàn tình thương của Người để lại cho đời, chỉ riêng Người “ quên nỗi mình đau để nhớ chung”... “ Nâng niu tất cả chỉ quên mình”... Một con người với đạo đức và Nhân cách như thế đã đi vào lịch sử, bất tử trong lòng dân.
CHƯƠNG 2:
NHỮNG PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC CƠ BẢN
CỦA CON NGƯỜI VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ MỚI
2.1 )Trung với nước, hiếu với dân, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Đây là phâm chất chuan mực cơ bản, bao trùm nhất của người cách mạng nói chung và của nhũng cán bộ quân đội nói riêng.
Theo truyền thống đạo đức của dân tộc ta, làm người phải lấy đạo đức trung hiếu làm đầu. Kế thừa phát triển truyền thống đó, HCM đã coi “trung, hiếu” là phẩm chất đạo đức bao trùm chi phối những phẩm chất khác. Quan niệm “trung, hiếu”của HCM có nội dung lớn và cách mạng so với chữ “trung, hiếu” trước đây. Nho giáo quan niệm “trung” là trung với vua chúa. “hiếu” là hiếu với cha mẹ mình. Còn theo HCM, Trung là trung thành với Đảng với Tổ Quốc, Hiếu là hiếu với ông bà cha mẹ, với toàn thể nhân dân, đồng bào mình.
Trung với Đảng, trung với nuớc, hiếu với dân là chuẩn mực cơ bản bao trùm nhất của người cách mạng,những cán bộ Đảng viên và tất cả nhưng lớp thế hệ trẻ ngày nay nói riêng.Theo chủ tịch HCM “ trung” đối với cán bộ Đảng viên trong quân đội là trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, lòng trung thành đó thể hiện ở tinh thần sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, vì sự nghiệp bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền và thành quả của cách mạng…Còn “Hiếu” theo Người đó là tinh thần tận tuỵ phục vụ nhân dân. Nếu là người cán bộ quân đội thì dù cấp bậc cao hay thấp dù ở cương vị nào cũng đều phải cố gắng để xứng đáng là người đầy tớ trung thành và tận tuỵ của nhân dân. Bởi lẽ, theo Người “Quân đội ta là quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì nhân dân mà chiến đấu”. Do đó Người dạy “Mình đánh giặc là vì nhân dân. Nhưng mình không phải là “cứu tinh” của dân , mà mình có trách nhiệm phụng sự nhân dân”. Với ý nghĩa đó, Người luôn nhắc nhở đội ngũ cán bộ quân đội phải giữ gìn truền thống trung với Đảng, trung với nước, hiếu với dân , chỉ có như vậy mới giúp cho người cán bộ quân đội xác định đúng mục tiêu chiến đấu phân biệt rõ bạn và thù, kiên định với lập trường giai cấp, đoàn kết tố, kỷ luật nghiêm… luôn sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
2.2 Yêu thương con người, yêu thương đồng chí đồng đội đồng bào
Tình yêu thương con người trong TTHCM xuất phát từ nguyên lý của CN Mac Lênin đặc biệt là thực tiễn đấu tranh cách mạng của mỗi dân tộc kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại, chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Yêu thương con người là phẩm chất đạo đức cao quý nhất. Người dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ, những nhười lao động bị áp bức bóc lột. Người viết: “Tôi chỉ có một ham muốn,ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành.
Hồ Chí Minh yêu thương con người với một tình yêu sâu sắc, vừa bao la vừa rộng lớn, vừa gần gũi vừa thân thương đối với số phận con người. Hồ Chí Minh luôn sống giữa cuộc đời và không có cái gì thuộc về con người đối với Hồ Chí Minh lại là xa lạ. Người quan tâm đến tư tưởng, công tác, đời sống của từng người, việc ăn, việc ở, học hành giải trí của mỗi người dân, không quên không sót một ai từ những người bạn thủa hàn vi đến những người quen mói gắn liền vói hành động cụ thể, phấn đấu vì độc lập của Tổ Quốc, tự do hạnh phúc cho con người.
2.3 Cần, kiệm, liêm, chính, chí, công vô tư.
Theo Người “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư’’ là những phẩm giá cơ bản tốt đẹp nhất để làm người làm cán bộ. Người viết:
Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ,Thu, Đông
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam,Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm,Liêm, Chính
Thiếu một mùa thì không thành trời
Thiếu một phương thì không thành đất
Thiếu một đức thì không thành người.
Đức tính cần kiệm thể hiện ngay trong các việc làm nhỏ nhất và thường nhật của Người. Trong hơn 300 bài báo, bài viết của chủ tịch Hồ Chí Minh mà bảo tàng cách mạng Việt Nam đang lưu giữ bản gốc thì có tới 90% bài viết Người sử dụng các mảnh giấy loại đã viết một mặt như bản tin, giấy tiêu đề của chủ tịch phủ in bằng tiếng Trung Quốc, thậm chí có những bản thảo bài báo ngắn khoảng gần 200 chữ, nhưng chủ tịch Hồ Chí Minh đã dùng hai mảnh giấy nhỏ chắp lại. Trong một tài liệu 5 trang đánh máy do chủ tịch Hồ Chí Minh viết vào năm 1949 dưới tiêu đề “ kiểm điểm công việc của Đảng’’.Người chỉ ra một số khuyết điểm cua Đảng viên như: Trong cuộc đấu tranh to lớn lâu dài, gay go, ít nhiều Đảng viên, ít nhiều nơi không tránh khỏi những khuyết điểm,chủ quan, hẹp hòi, mạo hiểm hư hoá, xa quần chúng, chủ nghĩa địa phương, không giữ kỷ luật làm việc luộm thuộm, tự kiêu, tự mãn… đó là chứng bệnh thanh niên nhưng từ nay Đảng đòi hỏi các Đảng viên tẩy cho kì sạch những bệnh ấy vì nếu không trị cho khỏi hết thì nó có thể lây ra và trở nên nguy hiểm cho Đảng.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư được Người giải thích khá sinh động:
Ø Cần, là lao động cần cù siêng năng, có kế hoạch, chuyên sâu, sáng tạo, thi đấu sản xuất cho mau cho tốt cho nhiều, có năng suất, chất lượng hiệu quả, tự lực cánh sinh không ỷ lại dựa dẫm, phải kiên trì, bền bỉ, dẻo dai, có thái độ đúng đối với lao động, coi đó là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của con người.
Ø Kiệm, tức là tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền bạc của nhân dân, của nhà nước và của bản thân mình, phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to “ không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương hình thức, không liên hoan chè chén lu bù’’. Hồ Chí Minh dạy cần với kiệm phải đi đôi với nhau như hai chân của con người. Cần mà không kiệm thì làm chừng nào ăn chừng ấy, kiệm mà không cần thì không tăng thêm không phát triển được.
Ø Liêm là trong sạch không tham lam, không tham ô, không tham địa vị , không tham tiền bạc. Ngày nay trong xã hội mới chữ liêm có nghĩa rộng hơn, là mọi người đều phải liêm trong đó cán bộ phải thực hành chữ liêm trước để làm kiểu mẫu cho dân.
Ø Chính là không tà, thẳng thắn, đúng đăn. Đối với mình không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, chí công vô tư, làm ích nước lợi dân không vì mục đích riêng. Đối với người không nịnh hót người trên không xem thường người khác, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn thật thà, đoàn kết, không dối trá. Đối với việc: để việc công lên trên, lên trước việc tư việc nhà.
Ø Chí công vô tư, Người nói: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người mới việc.” khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ tớ mình trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau, phải” lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.Hồ Chí Minh viết: “ Một dân tộc, một Đảng và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn không nhất định ngày hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng CNXH. Vì vậy thắng lợi của CNXH không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh từ bỏ chủ nghĩa cá nhân
Như vậy cần,kiệm, liêm, chính, chí công vô tư có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cần, kiêm, liêm, chính, chí công vô tư. Ngược lại đã chí công vô tư một lòng vì nước, vì dân, vì Đảng thì nhất định sẽ thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính. Đây là những phẩm chất đạo đức đòi hỏi không chỉ những cán bộ Đảng viên, quân đội mà cả những cán bộ khác cũng phải noi theo, phải thường xuyên bồi dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng hoàn thiện nhân cách để hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao cho.
2.3 Tinh thần quốc tế trong sáng thuỷ chung.
Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng mệnh đề “Bốn phương vô sản đều anh em” là tinh thần đoàn kết với các dân tộc bị áp bức, nhân dân lao động các nước. Đây là phẩm chất đạo đức không thể thiếu của người cán bộ Đảng viên. Theo tư tưởng của Bác tinh thần đoàn kết quốc tế trong sáng thể hiện ở tình đoàn kết với những người vô sản cùng chung mục tiêu lý tưởngđó là độc lập dân tộc và CNXH. Người yêu cầu đội ngũ cán bộ, chiến sỹ quân đội phải thấu suốt quan điểm “ giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”. Đoàn kết quốc tế phải kết hợp chặt chẽ chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế vô sản trong sáng.
Trên đây là tất cả những phẩm chất đạo đức cơ bản của con người Việt Nam trong thời kì mới đòi hỏi mỗi chúng ta đặc biệt là những cán bộ Đảng viên phải quán triệt và không ngừng học tập rèn luyện, tự hoàn thiện mình trước những yêu cầu và nhiệm vụ của đất nước trong tinh hình mới.
CHƯƠNG 3: PHẨM CHẤT ĐẠO ĐỨC CỦA
THẾ HỆ TRẺ TRONG THỜI ĐẠI MỚI
3.1. Những vấn đề đạo đức của thế hệ trẻ ngày nay
Thế hệ trẻ Việt Nam chiếm 60% dân số và cùng với sự phát triển của sự nghiệp giao dục, thanh thiếu niên Việt Nam ngày càng được đào tạo đầy đủ hơn, có trình độ học vấn cao hơn. Đó là lực lượng lao động chủ yếu đang và sẽ thực hiên quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mươi, mười lăm năm tới thế hệ sinh ra trong hoà bình sẽ dần dần thay thế đội ngũ cán bộ Đảng. Nhà nước và những người đã trải qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.Việc đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam để đáp ứng nhu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, kế tục sự nghiệp cách mạng của của cha anh là nhiệm vụ cấp thiết và có ý nghĩa chiến lược lâu dài.
Thế hệ trẻ hiện nay, bên cạnh những ưu điểm, đang có những biểu hiện phức tạp và những chiều hướng phát triển đáng lo ngại. Việc phai nhạt lý tưởng, thờ ơ với chính trị, chạy theo lối sống thực dụng tầm thường, tỷ lệ thanh thiếu niên trong những người mắc các tệ nạn xã hội tăng nhanh…Tình trạng thiếu việc làm dẫn đến "nhàn cư vi bất thiện" trong thanh niên khá trầm trọng.
Hiện nay ở nước ta đang xuất hiện nhữmg hiện tượng đáng lo ngại. Một bộ phận giới trẻ "sính" ngoại, coi thường văn hoá "nội". Họ thích phong cách phương Tây, phong cách Mỹ, nghe các loại nhạc Rock, Jazz, uống rượu mạnh, nhảy Disco.. hơn là là thích những bản nhạc, vở kịch, vở kịch truyền thống. Những "mốt" ngoại lai này đang tác động xấu tới các chuẩn mực đạo đức, thẩm mỹ và giá trị truyền thống. Các trào lưu văn hoá mới của thế giới du nhập vào bao giờ cũng có "vàng thau lẫn lộn". Cho nên, nếu không có sự định hướng giá trị đúng đắn sẽ khiến cho các giá trị truyền thốngbị lấn áp, dần dần làm phai nhạt bản sắc văn hoá dân tộc. Hiện tại, nguy cơ gây " ô nhiễm" môi trường văn hoá từ mạng thông tin toàn cầu (Internet) đang là điều đáng báo động. Chúng ta không phủ nhận những lợi ích to lớn mà Internet đã, đang và sẽ mang lại. Nhưng không vì thế mà quên rằng Internet cũng chính là con đường ngắn nhất và nhanh nhất để gieo nọc độc văn hoá vào giới trẻ. Internet đang gây không ít phiền toái cho các nhà quản lý các hoạt động vă hoá.
3.1.1 Về đạo đức: đa số giới trẻ vẫn coi trọng các giá trị đạo đức dân tộc như:
Kính trọng và biết ơn cha mẹ, ông bà, thây cô, những người có công với dân tộc đất nước.
Sống nhân ái, nhân nghĩa.
Tôn trọng phát luật: giới trẻ chấp nhận giá trị này khá cao, đa số thừa nhận là người có hiểu biết pháp luật khá tốt. Đáng chú ý là có một số làm ngơ trước hiện tượng người khác làm sai pháp luật. Từ đó cho thấy có sự không phù hợp khá rõ rệt giữa ý thức và hành vi tôn trọng pháp luật của đa số giới trẻ.
Trung thực, thẳng thắn, trọng lẽ phải: có khoảng nửa nhận thấy cần phải sống trung thực, nửa còn lại chưa coi trọng tính trung thực, không ân hận khi có những hành vi dối trá. Có lẽ vì thế mà những năm qua, hiện tượng gian lận trong thi cử đã trở thành hiện tượng phổ biến trong các bạn học sinh, sinh viên.
Vì vậy, những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc vẫn được số đông giới trẻ coi trọng, tuy vẫn chưa thể hiện qua hành vi, hoạt động. Dưới tác động của cơ chế thi trường và một số nguyên nhân khác, một bộ phận không nhỏ (khoảng 1/3 số giới trẻ) có sự dao động về nhận thức, có những hành vi sai trái liên quan đến một số giá trị quan trọng như: trung thực, thẳng thắn, tinh thần trách nhiệm, lòng nhân ái.
3.1.2 Về chính trị: Đa số giới trẻ có nhận thức đúng về những giá trị thể hiện lẽ sống của cá nhân, phù hợp với lý tưởng của Đảng, của nhân dân như:
Coi tinh thần yêu nước và tự hào dân tộc như là giá trị tư tưởng quan trọng.
Xem học tập là mục tiêu phấn đấu quan trọng nhất vào lúc này.
Trăn trở, khao khát muốn đóng góp sức mình vào công cuộc xây dựng đất nước
Nhận thức cần phấn đấu cho lý tưởng "dân giàu, nước mạnh, xã hội công Bằng, dân chủ và văn minh".
Đồng ý với nhận định "tăng cường cải cách kinh tế, ổn định chính trị theo
hướng XHCN là sự lựa chọn đúng của Đảng và nhân dân ta".
Một bộ phận giới trẻ còn mờ nhạt về lẽ sống, lý tưởng xã hội , lối sống trách nhiệm, chưa thấy rõ,yêu nước gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc.
3.1.3 Về lối sống
Mặt tích cực đa số giới trẻ có nhận thức đúng về một lối sống lành mạnh, giản dị, tiết kiệm, ứng xử có văn hoá; giới trẻ đang có xu hướng hình thành lối sống năng động, nhạy cảm, tích cực, thích nghi với những biến đổi của sự phát triển kỹ thuật văn hoá, xã hội…có nhu cầu cao về sinh hoạt, văn hoá, tinh thần, tham gia các hoạt động văn hoá văn nghệ, thể dục thể thao, du lịch, theo dõi những thành tựu về âm nhạc, hội hoạ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phẩm chất của con người Việt Nam trong thời kì mới.doc