Nội dung của HĐMBHH là các điều khoản do các bên thoả thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng, là sự phát triển tiếp tục những quy định của dân luật truyền thống về HĐMBTS. Có rất nhều sự tiếp tục tạo nên sự khác biệt như :
Khó có thể tìm thấy điều luật cụ thể trong Bộ luật Dân sự về nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ của HĐMBTS, nhưng trong Luật Thương mại được đề cập trong Điều 46 như sau:
“1. Bên bán không được bán hàng hoá vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Bên bán phải chịu trách nhiệm trong trường hợp có tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ với hàng hoá đã bán.
2. Trường hợp bên mua yêu cầu bên bán phải tuân theo bản vẽ kĩ thuật, thiết kế, công thức hoặc những số liệu chi tiết do bên mua cung cấp thì bên mua phải chịu trách nhiệm về các khiếu nại liên quan đến những vi phạm quyền sử hữu trí tuệ phát sinh từ việc bên bán đã tuân thủ những yêu cầu của bên mua.”
5 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4505 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Phân biệt hợp đồng mua bán hàng hoá và hợp đồng mua bán tài sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phân biệt hợp đồng mua bán hàng hoá và hợp đồng mua bán tài sản
1. Mối liên hệ giữa hợp đồng mua bán hàng hoá và hợp đồng mua bán tài sản:
Luật Thương mại được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kì họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005. Luật này thay thế Luật Thương mại ngày 10/5/1997 và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/1/2006 đã đánh dấu một bước phát triển mới của pháp luật thương mại nói chung và pháp luật về mua bán hàng hoá nói riêng.
Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lí là hợp đồng mua bán hàng hoá (HĐMBHH). HĐMBHH có bản chất chung của hợp đồng, là sự thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Dù Luật Thương mại 2005 không đưa ra định nghĩa về HĐMBHH song có thể các định bản chất pháp lí của HĐMBHH trong thương mại trên cơ sở điều 428 của Bộ luật Dân sự về hợp đồng mua bán tài sản (HĐMBTS). Do đó, HĐMBHH trong thương mại là một dạng cụ thể của HĐMBTS, dù vẫn mang những nét đặc thù riêng về chủ thể, đối tượng, hình thức…, thoả thuận về việc MBHH ở hiện tại hoặc MBHH sẽ có ở một thời điểm nào đó trong tương lai đều có thể là một HĐMB. Quan hệ HĐMBHH sẽ hình thành bất cứ khi nào nếu một chủ thể mua hàng hoá bằng tiền hoặc phương thức thanh toán khác và nhận quyền sở hữu hàng hoá.
2. Phân biệt hợp đồng mua bán hàng hoá và hợp đồng mua bán tài sản:
Thứ nhất, về đối tượng. HĐMBHH trong thương mại có đối tượng là hàng hoá. Tuy nhiên không thể hiểu theo nghĩa thông thường, hàng hoá là sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu của con người hay chỉ bao gồmmáy móc, thiết bị, nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hàng tiêu dùng, các động sản khác được lưu thông trên thị trường, nhà ở dùng để kinh doanh đưới hình thức cho thuê, mua, bán (khoản 3 Điều 5 Luật Thương Mại 1997). Luật Thương mại 2005 quy định :
“Hàng hoá bao gồm :
Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai;
Những vật gắn liền với đât đai.”
Như vậy, hàng hoá trong thương mại là đối tượng mua bán có thể là hàng hoá hiện đang tồn tại hoặc sẽ có trong tương lai, hàng hoá có thể là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại và phải loại trừ một số hàng hoá đặc biệt chịu sự điều chỉnh riêng như cổ phiếu, trái phiếu…
Còn đối tượng của HĐMBTS rộng hơn là các loại tài sản quy định trong Điều 162 Bộ luật Dân sự 2005 : vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản được phép giao dịch.
Thứ hai, về chủ thể. chủ thể trong HĐMBHH chủ yếu là thương nhân. Khái niệm về thương nhân được đề cập đến trong khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại bao gồm : tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh. Thương nhân là chủ thể của HĐMBHH có thể là thương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài (trong HĐMBHH quốc tế). Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của HĐMBHH. Hoạt động của chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ HĐMBHH chỉ phải tuân theo Luật Thương maị khi chủ thể này lựa chọn áp dụng Luật Thương mại.
Trong khi đó, chủ thể tham gia HĐMBTS có thể là mọi tổ chức, cá nhân đầy đủ năng lực, có nhu cầu mua bán tài sản, có sự mở rộng hơn rất nhiều so với chủ thể trong HĐMBHH.
Thứ ba, về mục đích. HĐMBHH trong thương mại chủ yếu là để kinh doanh thu lợi nhuận cho các thương nhân. Chỉ phần nào đó phục vụ mục đích tiêu dùng và các mục đích khác cho cả thương nhân và những chủ thể không phải thương nhân tuỳ theo mong muốn và nhu cầu của họ trong từng thời điểm.
HĐMBTS lại không nhất thiết là có mục đích kinh doanh mà có thể nhằm nhiều mục đích khác nhau như : tiêu dùng, tặng, cho, làm từ thiện hoặc đơn giản là vì sở thích…Sự khác nhau này là do yếu tố chủ thể quyết định. Vì chủ thể chủ yếu của HĐMBHH là thương nhân, mà đã nói đến thương nhân thì khó có thể không nhắc đến lợi nhuận, hoạt động chính của họ là kinh doanh và thu lợi nhiận, không có lợi nhuận họ không thể tồn tại lâu dài dù vốn đầu tư có lớn đi nữa.
Thứ tư, về hình thức. Ta hầu như không thấy sự khác biệt nào khi so sánh Điều 401 về hình thức hợp động dân sự của Bộ luật Dân sự 2005 với Điều 24 về hình thức HĐMBHH của Luật Thương mại 2005. Chúng đều có thể xác lập bằng lời nói, văn bản hoặc hành vi cụ thể. Tuy nhiên, trong thực tế kinh doanh chúng ta thấy rằng, đối tượng là hàng hoá thường mang số lượng nhiều, giá trị lớn và để đảm bảo lợi ích, tránh xảy ra tranh chấp không đáng có thì hình thức hợp đồng bằng văn bản hay được ưu tiên do những ưu điểm vốn có của nó (minh bạch, rõ ràng, có thể dễ dàng đưa ra làm bằng chứng khi có tranh chấp).
Thứ năm, về nội dung. Nội dung của HĐMBHH là các điều khoản do các bên thoả thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng, là sự phát triển tiếp tục những quy định của dân luật truyền thống về HĐMBTS. Có rất nhều sự tiếp tục tạo nên sự khác biệt như :
Khó có thể tìm thấy điều luật cụ thể trong Bộ luật Dân sự về nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ của HĐMBTS, nhưng trong Luật Thương mại được đề cập trong Điều 46 như sau:
“1. Bên bán không được bán hàng hoá vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Bên bán phải chịu trách nhiệm trong trường hợp có tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ với hàng hoá đã bán.
2. Trường hợp bên mua yêu cầu bên bán phải tuân theo bản vẽ kĩ thuật, thiết kế, công thức hoặc những số liệu chi tiết do bên mua cung cấp thì bên mua phải chịu trách nhiệm về các khiếu nại liên quan đến những vi phạm quyền sử hữu trí tuệ phát sinh từ việc bên bán đã tuân thủ những yêu cầu của bên mua.”
Điểm đặc biệt hơn, giá không phải là nội dung bắt buộc để HĐMBHH có hiệu lực. Bởi ngay cả khi không có sự thoả thuận về giá hàng hoá, không có sự toản thuận về phương pháp xác định giá và cũng không có bất kì chỉ dẫn nào khác về giá thì giá của hàng hoá được xác định theo giá của loại hàng hoá đó trong các điều kiện tương tự về phương thức giao hàng, thời điểm mua bán hàng hoá, thị trường địa lí, phương thức thanh toán và các điều kiện khác có ảnh hưởng đến giá (Điều 52 Luật Thương mại 2005). Trong HĐMBTS thường mang tính chất nhỏ, lẻ thì việc toản thuận về giá mang ý nghĩa rất lớn. Để tránh xảy ra tranh chấp các chủ thể, đặc biệt là các thương nhân phải rất chú ý điểm khác biệt này trong kinh doanh.
3. Ý nghĩa việc phân biệt hợp đồng mua bán hàng hóa và hợp đồng mua bán tài sản:
Đối với Luật Thương mại 2005, Bộ luật Dân sự 200 luôn luôn là bộ luật gốc, việc xác định đối tượng điều chỉnh riêng đôi khi không dàng chút nào. Việc phân biệt HĐMBHH trong thương mại và HĐMBTS là điều hết sức cần thiết cho các nhà làm luật và ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc chọn luật áp dụng của từng trường hợp cụ thể.
Tài liệu tham khảo
Bộ luật Dân sự năm 2005.
Luật Thương mại 2005.
Giáo trình luật thương mại (tập 2), trường Đại học Luật Hà Nội, Nguyễn Viết Tý (chủ biên), Nxb. CAND, Hà Nội, 2006.
Giáo trình luật thương mại (tập 2), Bùi Ngọc Cường (chủ biên), NXB. Giáo dục, 2008.
Pháp luật về hợp đồng trong thương mại và đầu tư - những vấn đề pháp lí cơ bản, Nguyễn Thị Dung (chủ biên), Nxb. CTQG, Hà Nội, 2008.
Và một số tài liệu khác.
Câu 2: Phân tích khái niệm và đặc điểm của mua bán hàng hóa trong
thương mại. Phân biệt quan hệ mua bán hàng hóa với quan hệ mua bán tài sản
trong dân sự.
Khái niệm và đặc điểm của mua bán hàng hóa trong thương mại.
Khái niệm: mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có
nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán;
bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá
theo thỏa thuận (Khoản 8 Điều 3)
Đặc điểm:
· Các đặc điểm của hoạt động thương mại nói chung như: do
thương nhân thực hiện, nhằm múc đích sinh lợi nhuận, được thực hiện trên thị
trường một cách hợp pháp, là hoạt động mua bán mang tính chất chuyên
nghiệp.
· Các đặc điểm riêng:
§ đối tượng là hàng hóa (trong đó có sự dịch chuyển quyền sở
hữu hàng hóa từ bên bán sang bên mua)
§ phải phát sinh trên cơ sở hợp đồng (đặc trưng quan trọng là
thỏa thuận)
§ bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng
hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán
cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hoá
Phân biệt quan hệ mua bán hàng hóa với quan hệ mua bán tài sản trong
dân sự.
Về chủ thể: thương nhân và ko cần là thương nhân
Về đối tượng: là hàng hóa (là hàng, vật trong dân sự), là tài sản (đối tượng rộng
hơn)
Về mục đích: lợi nhuận, các mục đích đa dạng khác ngoài lợi nhuận
Ben ! www.phamlinhnham.wordpress.com
ơ
♥ αμ Λιυη ΝηαΘμ ♥ ♥ ♥ ξοοδ λωγχtο ψοω C
4
Về luật điều chỉnh: luật thương mại (tập trung ở chương 2)và dân sự (các vấn
đề chung về nghĩa vụ , hợp đồng…), ko điều chỉnh bởi luật thương mại (tập trung ở
mục 1 chương 18 phần 3)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phân biệt hợp đồng mua bán hàng hoá và hợp đồng mua bán tài sản.doc